Buổi lên lớp cao học vừa qua tôi vừa giảng cho sinh viên về
phân biệt giữa "Goal", "Objective" và "Purpose". Tiếng Việt có
các từ "Mục đích" và "Mục tiêu", nhưng hình như giữa hai từ
này không có phân biệt rõ ràng. Cũng có một từ nữa ít dùng
hơn là "Cứu cánh", nhưng từ này ít dùng và không nên dùng
nữa bởi vì người dùng đã dùng một cách hỗn loại.
Cái đáng bàn ở đây, là người Việt ta thường rất mơ hồ
về mục đích. Rất nhiều kế hoạch, chiến lược, dự án,...
lẫn lộn hoàn toàn mục tiêu với giải pháp, chưa nói tới goal
và objective. Có lẽ thói quen trở thành tư duy, tư duy được
phản ánh bằng ngôn ngữ. Việc không có ngôn ngữ để diễn
tả một số khác biệt tinh tế một số khái niệm chứng tỏ
những người sử dụng ngôn ngữ đó khá mơ hồ về những
khái niệm đó và cũng do thói quen suy nghĩ rất sơ sài về
những vấn đề liên quan. Nếu như vậy, cũng đáng để chúng
ta suy nghĩ tại sao dân tộc ta lại mơ hồ về xác định mục
tiêu. Câu hỏi này có thể để cho những người ưa và thạo
các vấn đề xã hội hoặc để phiếm đàm trong một dịp
khác. Ở đây, tôi chỉ đưa ra một số ví dụ khác.
Tôi có một anh bạn người Ấn Độ nói rằng trong tiếng Ấn
có tới hơn 31 từ phản ánh trạng thái "buồn" và có ý nghĩa
khác nhau, chỉ người Ấn mới phân biệt được. Tiếng Anh
chỉ có dăm ba từ là cùng. Tôi nhận xét với anh "Như vậy
người Ấn là chuyên gia buồn rầu". Có lẽ một xã hội chia
đẳng cấp quá chặt chẽ, có những loại người untouchable
(không được chạm vào), nỗi buồn đó cũng quá dễ hiểu. Văn
hóa Ấn Độ cũng có tính triết lý sâu xa. Nhìn lại tiếng
Việt, tuy không phong phú về nỗi buồn như Ấn Độ, nhưng
vượt xa tiếng Anh về khoản này: "buồn", "rầu", "não", "sầu",
"bi", "chán chường",... Không biết có nên tự hào về cái ưu
thế biết buồn rầu này.
Đừng nên lầm tưởng đó là vì ngôn ngữ của chúng ta giàu
có, phong phú, tinh tế hay phát triển. Đơn giản chúng ta buồn
nhiều, nghĩ nhiều về cái buồn mà thôi. Cha tôi nói tiếng
Việt đặc biệt nghèo về màu sắc. Người Việt cũng dễ tính
về màu. Chẳng thế các cụ ngày xưa đã tổng kết đơn giản
"Đẹp vàng son". Càng nghĩ thấy càng đúng. Người Việt không
có từ để phân biệt "xanh lá cây" và "xanh da trời". Đối
với các cụ "xanh" là "xanh" ráo. Ngay cả cách đặt tên cũng
không chuẩn các thứ được cho là "xanh da trời" chẳng giống
da trời tý nào, và "xanh lá cây" chưa chắc đã giống bất cứ
lá cây nào. Cách đặt tên màu của người Việt cũng chẳng
giống ai. Nào là "mắm tôm", "lòng tôm", "tiết dê" đến "cứt
ngựa", rất thiếu thẩm mĩ. Chưa kể câu chuyện "Lá đa màu
gì? Màu đen? Vì sao? Dân gian ta có câu: Sự đời như cái lá
đa. Đen như mõm chó chém cha sự đời".
Không biết việc thiếu tính chuyên nghiệp trong màu sắc có
ảnh hưởng thế nào tới còn đường đi của một dân tộc
(con đường đó sẽ ít màu sắc, mang dáng dấp uniform??). Nhưng
nhiều khi đưa những tư tưởng mới vào Việt Nam đều bị méo
mó vì nạn thiếu từ. Người Việt khá dễ tính trong việc
dùng bánh đa thay quạt nhưng rất khó tính trong việc dùng từ
mới. Tôi đã nhiều lần bị chê dùng từ Tây quá (mặc dù
dùng chữ Việt 100%) và bắt buộc phải dùng một từ "dễ
hiểu" hơn mặc dù nội dung chẳng giống gì với từ nguyên
gốc. Dùng riết rồi cũng quen dẫn tới cách suy nghĩ đơn giản
hóa. Việc gì cũng phiên phiến. Nói chuyện gì cũng chớt chát
trên bề mặt, thành thử mấy chục năm vẫn tranh cãi mấy
chuyện đó, như kiến bò trên miệng chén, không thoát ra
được. Có lẽ không nơi nào trên thế giới người ta hăng hái
tranh luận "nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị
nhân sinh" như ở Việt Nam, đơn giản chỉ vì không ai hỏi
rằng "tại sao không thể vị cả hai" hay "nghệ thuật chẳng qua
cũng là một phần của nhân sinh". Một dân tộc coi thường
nghệ thuật sẽ có cái nhân sinh thế nào?
Tất nhiên, cái đơn giản bao giờ cũng gần với chân lý và
cái đẹp. Nhưng điều đó không có nghĩa là một dân tộc luôn
phải đơn giản hóa mọi vấn đề đến mức thô sơ. Người
Việt ta ít duy lý, ngại suy nghĩ, nhưng cuối cùng nghĩ vấn
đề gì cũng phức tạp. Một vấn đề cỏn con, nếu phát biểu
bằng các khái niệm chính xác, tinh tế sẽ trở thành điều
hiển nhiên, trong khi cả một giới thượng tầng xã hội tốn
bao nhiêu giấy bút mà vẫn bị sa vào trò đùa của chơi chữ,
tu từ. Chẳng qua là mình tự rơi vào cái bẫy của mình rồi
loay hoay tìm cách tự nắm tóc để nhấc mình ra.
Vậy thì đâu là giới hạn của các song đề đơn giản-tinh
tế đó? Có lẽ chưa một ai nói về vấn đề này đơn giản,
khúc triết mà sâu sắc như Ngô Tùng Phong:
"Ngôn ngữ của một cộng đồng dân tộc, đương nhiên là
dụng cụ của nền văn hóa của cộng đồng. Nhưng ngôn ngữ
chỉ trở thành một dụng cụ sung mãn của nền văn hóa khi nào
ngôn ngữ gồm được hai đức tính: dễ học để trở thành
một dụng cụ phổ biến, thông dụng và đại chúng; và chính
xác để trở thành một dụng cụ suy luận tinh vi và sắc
bén.".
Làm thế nào để ngôn ngữ Việt có thể vừa dễ phổ cập,
đại chúng vừa có thể trở thành tinh vi sắc bén? Nhiều
người cho rằng Hoa ngữ có sức biểu tượng mạnh, hàm súc và
dễ phổ cấp vì phù hợp với thói quen Hán-Việt hóa. Nhưng
Ngô Tùng Phong lại cho rằng
"Hoa ngữ hoàn toàn bất lực khi phải đóng vai trò dụng cụ
phổ biến thông dụng và đại chúng cho văn hóa. Cũng vì trở
lực tạo ra bởi một sinh ngữ biểu ý, mà văn minh Tàu khi xưa,
mặc dầu lên đến cao độ, vẫn không có sinh lực bành
trướng như văn minh Tây phương ngày nay.
Lối hành văn của Hoa ngữ là lối hành văn "khiêu ý" cho
nên câu văn không có kiến trúc. Mà câu văn không có kiến trúc
là một câu văn không có chính xác. Và một sinh ngữ không
chính xác không thể trở thành một dụng cụ suy luận sắc bén
và tinh vi được. Vì không có dụng cụ ngôn ngữ suy luận sắc
bén và tinh vi để sử dụng trong công cuộc thám cứu vũ trụ
vật chất và vũ trụ tâm linh, nên người Trung Hoa xưa đã thay
thế suy luận bằng trực giác"
"Nguyên do là Hoa ngữ, với lối văn khiêu ý, hoàn toàn bất
lực khi đóng vai trò dụng cụ suy luận tinh vi và sắc bén."
Và ông rất lạc quan cho rằng:
"...thế hệ của chúng ta không có một lý do nào để không
vận dụng tất cả nỗ lực, nắm lấy cơ hội đưa đến cho
chúng ta để thực hiện trong lĩnh vực văn hóa, ý chí của
tiền nhân: cởi bỏ ách tâm lý thuộc quốc đối với nước
Tàu, cho dân tộc. Và thế hệ của chúng ta, không có một lý do
nào, để từ bỏ sự phát triển văn hóa dồi dào mà chắc
chắn, Việt ngữ chỉnh đốn sẽ dành cho chúng ta, để cam
chịu một sự lệ thuộc, đối với một văn hóa, mà Hoa ngữ
không bảo đảm sự phát triển. Và các nhà lãnh đạo, vì vô
tình hay cố ý, làm cho cộng đồng quốc gia của chúng ta lỡ
cơ hội này, chẳng những sẽ phản bội quyền lợi dân tộc
mà còn phải mang hết trách nhiệm của một cuộc sống lệ
thuộc, không vùng vẫy nổi, mà các thế hệ trong tương lai, vì
lầm lỗi của họ, sẽ phải quy phục trong nhiều ngàn năm
nữa."
Tuy nhiên, sau nửa thế kỷ, mặc dù những lãnh tụ không cùng
chính kiến đều đã hô hào "chỉnh đốn Việt ngữ", "giữ gìn
sự trong sáng trong tiếng Việt", một cuộc cải cách tiếng
Việt có hệ thống không tới, thậm chí không hề bắt đầu.
Một số người cho rằng "ngôn ngữ là hồn dân tộc không
thể thay đổi". Điều đó, không đúng ngôn ngữ Nga trước
Puskin và sau Puskin là khác nhau. Tiếng Anh sau Shakespeare và
trước Shakespeare cũng không giống nhau. Cải cách ngôn ngữ dù
thông qua những cá nhân vĩ đại, dám gánh vác hay thông qua một
tập thể là một việc sớm muộn cũng phải làm.
Tuy nhiên, chúng ta tuy thích thần thánh hóa một số cá nhân mơ
hồ, nhưng không có thói quen dung nạp các công trình kỳ vĩ.
Đọc Vũ Như Tô, không lần nào tôi không thấy chua xót khi
đọc tâm sự của Nguyễn Huy Tưởng
<em>"Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô
phải</em>
<em>Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc? </em>
<em>Tháp người Hời nguyên là giống <u>Angkor</u>! </em>
<em>Mải vật lộn, quên cả đài cao mộng lớn</em>
<em>Công ông cha hay là nỗi thiệt thòi? </em>
<em>Ôi khô khan! Ôi gay gắt! Nhưng đừng vội tủi</em>
<em>Sức sống tràn từ ải Bắc đến đồng Nam</em>
<em>Than ôi! Như Tô phải hay những kẻ giết Như Tô phải? </em>
<em>Ta chẳng biết! </em>
<em>Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm"</em>
Chỉnh đốn tiếng Việt là một sự nghiệp kỳ vĩ vì nó thay
đổi tính cách của một dân tộc, vốn không ưu những điều
kỳ vĩ./.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20141009/nguyen-ai-viet-ngon-ngu-va-tinh-cach-dan-toc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét