Tuyên bố báo chí về chuyến thăm Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam của Báo cáo viên Đặc biệt LHQ về tự do tôn giáo

<div class="rightalign"><em>Hà Nội, Việt Nam, 31/7/2014</em></div>

Với tư cách là Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc
về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, tôi đã được Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam mời tiến hành
một chuyến thăm quốc gia từ ngày 21 đến 31 tháng 7 năm 2014.

Trước hết, tôi cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã mời tôi đến
đây và đã duy trì mối quan hệ hợp tác mang tính xây dựng
với Thủ tục Đặc biệt mà tôi phụ trách. Báo cáo viên tiền
nhiệm của tôi, ông Abdelfattah Amor đã quá cố, cũng đã đến
thăm Việt Nam vào năm 1998. Từ năm 2010 đến nay, Việt Nam đã
tích cực hợp tác với các Thủ tục Đặc biệt và đã mời
sáu chuyên gia thực thi các thủ tục này, trong đó có tôi,
tiến hành các chuyến thăm quốc gia. Việt Nam cũng là một
thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Bộ
Ngoại giao Việt Nam cũng đã rất tích cực trong việc chuẩn
bị và hỗ trợ trong suốt chuyến thăm này. Bộ cũng tạo
điều kiện để chúng tôi thăm một tù nhân.

Tôi cảm ơn tất cả các bên đã gặp và tham gia trao đổi với
tôi trong chuyến thăm này, từ các cơ quan lập pháp, hành pháp
và tư pháp của Chính phủ, các cộng đồng hay tổ chức tôn
giáo (đã được công nhận hay chưa được công nhận), đến
cộng đồng ngoại giao và các cơ quan Liên Hợp Quốc. Tôi cũng
muốn cảm ơn Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP)
tại Hà Nội đã hỗ trợ về hậu cần cho chuyến đi. Những
cuộc thảo luận ở Hà Nội, Tuyên Quang, thành phố Hồ Chí Minh
và Vĩnh Long nhìn chung đều cởi mở, thẳng thắn và mang tính
xây dựng.

Dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may
đã bị gián đoạn từ ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận
được những thông tin đáng tin cậy là một số cá nhân tôi
muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh
cáo, đe dọa, sách nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi
lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi cũng không
tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chất vấn ở một
mức độ nhất định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng
bị giám sát chặt bởi "những cán bộ an ninh hoặc công an"
mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự riêng
tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh
hưởng. Những việc này là sự vi phạm rõ ràng các điều
khoản tham chiếu củabất kỳ chuyến thăm quốc gia nào.

Hôm nay, tôi trình bày với các bạn ở đây những phát hiện
sơ bộ và một số nhận xét chính của tôi mà tôi muốn các
bạn chú ý tới. Tuyên bố báo chí này không phải là báo cáo
cuối cùng. Báo cáo chính thức sẽ được trình bày tại kỳ
họp thứ 28 của Hội đồng Nhân quyền vào tháng 3 năm 2015.
Trong quá trình chuẩn bị báo cáo, tôi sẽ tiếp tục hợp tác
và làm việc trên cơ sở tham vấn với Chính phủ và tất cả
các bên liên quan để có thêm các thông tin và làm sáng tỏ
những điểm chưa rõ, đặc biệt về các vấn đề liên quan
đến những vùng tôi không thể đến thăm.

<h2>I. Tóm lược tình hình tôn giáo ở Việt Nam</h2>

Việt Nam có nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Ban Tôn giáo Chính
phủ cho tôi biết hiện có 37 tổ chức tôn giáo được đăng
ký trong cả nước. Theo con số thống kê của Chính phủ, tổng
số tín đồ của các tôn giáo được công nhận là khoảng 24
triệu người trong tổng dân số 90 triệu người. Các cộng
đồng tôn giáo được công nhận chính thức gồm 11 triệu
Phật tử, 6,2 triệu tín đồ Công giáo, 1,4 triệu người theo
đạo Tin lành, 4,4 triệu người theo đạo Cao Đài, 1,3 triệu
phật tử Hòa Hảo cùng với 75.000 người Hồi giáo, 7.000
người Baha'ís, 1.500 người Ấn Độ giáo và những người
theo các tôn giáo khác. Chính thức có 26.387 cơ sở thờ tự
gồm chùa, đền thờ, nhà thờ và các nơi thờ tự khác. Việt
Nam tự hào đã tổ chức các hội nghị quốc tế của các nhà
lãnh đạo tôn giáo, cụ thể là một đại hội các chức sắc
Phật giáo được tổ chức vào Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc
vào tháng 5/2014. Tôi cũng được cho biết là ở Việt Nam có 54
dân tộc. Đôi khi các nhóm dân tộc thiểu số cũng chính là
các nhóm tôn giáo thiểu số.

Trong khi đa số người dân Việt Nam không thuộc một cộng
đồng tôn giáo được chính thức công nhận, họ cũng vẫn
thỉnh thoảng hoặc thường xuyên thực hiện những nghi lễ
truyền thống – mà ở Việt Nam thường gọi là "tín
ngưỡng". Nhiều nghi lễ truyền thống biểu đạt sự tôn
kính tổ tiên. Ngoài ra, trong thực tế có những niềm tin và
thực hành tôn giáo nằm ngoài các cộng đồng tôn giáo đã
chính thức được công nhận. Khó có thể có một bức tranh rõ
ràng và đầy đủ về vấn đề này, nếu không muốn nói là
không thể. Một vài chuyên gia của Chính phủ đưa ra ước tính
tương đối thấp về số người đang thực hành các tôn giáo
bên ngoài các cộng đồng đã được công nhận. Nhưng đồng
thời tôi cũng nghe được những phỏng đoán rằng số người
đang thực hành tôn giáo ngoài các cộng đồng đã được đăng
ký – hoặc đang muốn đăng ký – có thể lên đến hàng
triệu người. Bên cạnh những ước đoán khác nhau về con số,
tôi cũng nhận được những thông tin trái ngược nhau về các
điều kiện để những người này có thể thụ hưởng quyền
con người về tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo hay tín
ngưỡng.

Nhiều người chúng tôi tiếp xúc nhấn mạnh một thực tế
rằng các điều kiện để thực hành tự do tôn giáo ở Việt
Nam nhìn chung đã được cải thiện so với tình hình sau năm
1975. Nhiều đại diện các cộng đồng tôn giáo cũng chia sẻ
nhận xét này, và họ công nhận rằng, mặc dù còn có nhiều
khó khăn nhưng hiện nay nhìn chung họ có nhiều không gian để
thực hành tôn giáo hơn trong quá khứ. Mặt khác, điều kiện
để các cá nhân hoặc các nhóm thực hành tôn giáo hay tín
ngưỡng cũng khó đoán, và thường phụ thuộc vào thiện chí
của các cơ quan Chính phủ, đặc biệt là chính quyền địa
phương. Ngoài ra, thành viên của các nhóm thiểu số về tôn
giáo không được công nhận chính thức tiếp tục gặp nhiều
khó khăn trong việc thực hành tự do tôn giáo tín ngưỡng của
mình, đặc biệt khi các thực hành tôn giáo hay nghi lễ của
họ bị cho là không phù hợp với "lợi ích chính đáng của
số đông" – một cụm từ thường được nhắc đến trong
một số cuộc thảo luận.

<h2>II. Các quy định pháp lý và việc thực hiện </h2>

<h3>a) Quy định pháp lý điều chỉnh thực hành tôn giáo hay tín
ngưỡng </h3>

Việt Nam đã phê chuẩn hầu hết các công ước nhân quyền
quốc tế, bao gồm Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự
và Chính trị, trong đó Điều 18 bảo vệ chung tự do tư
tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín ngưỡng.

Hiến pháp mới sửa đổi của Việt Nam[1] quy định chương II
"Quyền con người, Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân". Tại đó, Hiến pháp 2013 cũng nhắc đến tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng trong Điều 24. Các đại diện của Chính phủ
đã nhắc lại nhiều lần và nhấn mạnh rằng những người có
quyền được quy định trong điều này bao gồm tất cả mọi
người, trong khi quy định tương ứng tại Hiến pháp 1992 giới
hạn ở các công dân Việt Nam. Điều này được trình bày như
một dấu hiệu cho thấy thái độ nhìn chung là tích cực hơn
đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 24 quy định
như sau:

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước
pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Việt Nam chưa có một luật riêng điều chỉnh các vấn đề
tôn giáo. Văn bản pháp lý liên quan nhất là Pháp lệnh về Tôn
giáo và Tín ngưỡng ban hành ngày 18 tháng 6 năm 2004. Nghị
định số 92 ngày 8/11/2012 quy định chi tiết các điều khoản
trong Pháp lệnh. Trong Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng,
Điều 38 khẳng định các quy định trong các điều ước quốc
tế sẽ có hiệu lực trong trường hợp có sự khác biệt giữa
quy định của Pháp lệnh và các điều ước quốc tế.[2]

Tôi được biết một dự án xây dựng luật về các vấn đề
tôn giáo trên nền tảng Pháp lệnh hiện hành sẽ được đưa
ra trong năm 2015, và dự kiến được thông qua năm 2016. Ngoài
việc vị thế pháp lý của một văn bản luật sẽ cao hơn so
với một pháp lệnh, quá trình soạn thảo một luật mới toàn
diện có thể là cơ hội để có những sửa đổi cụ thể
với mục đích thúc đẩy quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
và việc thực thi quyền này trong thực tế. Khi thảo luận vấn
đề này với các chuyên gia của Chính phủ về vấn đề tôn
giáo, đã có những nhận định rằng vấn đề đất đai sẽ
được giải quyết tốt hơn, đồng thời người nước ngoài
cũng sẽ có điều kiện dễ dàng hơn để thực hành tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng. Những người khác cũng bày tỏ sự sẵn
sàng cân nhắc những thay đổi cụ thể để khắc phục những
quy định hạn chế trong Pháp lệnh năm 2004.

<h3>b) Những hạn chế đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
</h3>

Theo tiêu chuẩn quốc tế, việc thực hành quyền con người về
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không phải là không thể có
một số hạn chế được đặt ra. Đồng thời, Điều 18 Công
ước Quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR)
liệt kê một số tiêu chuẩn cần đạt được để những hạn
chế đặt ra đó được coi là chính đáng. Việc tuân thủ
nghiêm ngặt tất cả các tiêu chí này là cốt yếu để đảm
bảo rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng trở thành sự thực.

Các điều khoản hạn chế được quy định trong các văn bản
luật có liên quan của Việt Nam hiện nay rộng hơn nhiều so
với các điều khoản hạn chế quy định trong ICCPR. Tuy nhiên
quy định giới hạn quá rộng có thể làm nhòe ranh giới của
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, vì thế gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến việc thực thi quyền này trong thực tế. Điều còn
thiếu trong các quy định pháp luật của Việt Nam về tôn giáo,
trước hết là chưa nêu rõ rằng khía cạnh cá nhân trong niềm
tin và nhận thức tôn giáo, đạo đức hay triết lý của một
người – thường được gọi là "forum internum" (tâm linh,
hay thế giới nội tâm) – phải được tôn trọng vô điều
kiện và không bao giờ được áp dụng bất kỳ giới hạn
chính đáng hay can thiệp nào với bất kỳ lý do nào, ngay cả
trong trường hợp khủng hoảng nghiêm trọng hay tình trạng
khẩn cấp. Việc bảo vệ vô điều kiện đối với tâm linh cá
nhân phản ánh quan niệm rằng cưỡng ép con người giả mạo
một niềm tin không thực hoặc từ bỏ điều họ tin tưởng
sâu sắc có thể phá hủy lòng tự tôn của họ. Việc cấm
bất kỳ sự can thiệp mang tính cưỡng ép nào đối với nội
tâm trong niềm tin tôn giáo, đạo đức hay triết lý của một
người vì thế cũng có vị trí quan trọng trong luật quốc tế
tương đương với việc cấm nô lệ hay cấm tra tấn. Đây là
những quy định tuyệt đối không có bất kỳ ngoại lệ nào.
Trong khi đó, Điều 24 Hiến pháp 2013 nhắc đến tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng nói chung mà không quy định cụ thể việc bảo
vệ khía cạnh tâm linh cá nhân trong tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng.

Không như tâm linh bên trong con người, việc truyền bá tôn giáo
hay tín ngưỡng trong phạm vi xã hội ("forum externum", hay thế
giới bên ngoài) không được bảo vệ vô điều kiện, theo
luật quốc tế quy định. Vì vậy phải quy định cụ thể các
điều kiện được phép áp dụng các hạn chế một cách rõ
ràng và dự đoán được. Việc này cần được thực hiện
trên cơ sở nhận thức rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng,
ở cả khía cạnh cá nhân và cộng đồng, có vị thế quy
định là một quyền con người phổ quát. Mối quan hệ giữa
quyền tự do này và những hạn chế đối với quyền ấy, vì
thế, cần được xem xét như một mối quan hệ giữa quy định
và ngoại lệ. Theo đó, việc đưa ra các lập luận chứng minh
không phải là nghĩa vụ của những người muốn thực hành
quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ; mà là nghĩa vụ
của những người cho rằng việc hạn chế là cần thiết. Trong
trường hợp có nghi vấn, quy định sẽ được áp dụng, còn
ngoại lệ luôn luôn yêu cầu phải có thêm lập luận chứng
minh, cả ở mức độ bằng chứng cụ thể và lập luận lý
thuyết.

Khi trao đổi với các đại diện của Chính phủ, tôi thường
nghe nhắc đến "pháp luật Việt Nam" nói chung. Tuy nhiên,
để đáp ứng yêu cầu đối với các biện pháp hạn chế quy
định trong điều 18 ICCPR, những hạn chế này phải cụ thể
hơn và đáp ứng được các tiêu chí đặt ra. Ngoài việc phải
được quy định về mặt pháp lý một cách rõ ràng, cụ thể
và đoán trước được, những hạn chế phải là cần thiết
để phục vụ một mục đích chính đáng – bảo vệ "an toàn
của công chúng, trật tự công, sức khỏe, hay đạo đức hay
các quyền và tự do căn bản của những người khác".[3] Thêm
nữa, các hạn chế phải tuân thủ chặt chẽ tính cân xứng,
nghĩa là các hạn chế phải luôn luôn giữ ở mức can thiệp
tối thiểu. Những tiêu chuẩn này và một số tiêu chuẩn khác
đã được quy định với mục đích bảo vệ các thành tố
của tự do tôn giáo hay tín ngưỡng ngay cả trong những tình
huống (có vẻ, hay thực sự) có xung đột với những quyền
khác, hay với lợi ích chung quan trọng.

Để so sánh, các văn bản pháp lý liên quan của Việt Nam đã
cho các cơ quan chính quyền nhiều không gian để quy định,
giới hạn, hạn chế hay cấm việc thực hành tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng. Điều 14 Hiến pháp 2013 liệt kê một số lý do
để hạn chế các quyền con người và quyền công dân mà, tôi
cho rằng, cũng áp dụng với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
Khả năng hạn chế các quyền con người vì lợi ích của
"quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo
đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng" [4] đã khác so
với các mục đích được liệt kê trong điều 18 ICCPR. Mặt
khác, Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng đưa ra các
mục đích như "lòng yêu nước", "thống nhất đất
nước", "đoàn kết nhân dân" và "truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc". Thêm nữa, theo điều 8, khoản 2
của Pháp lệnh, "Không được lợi dụng quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống
nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền
chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của
Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn
giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng,
sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản
trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động
mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác."

Trong các cuộc thảo luận với các quan chức Chính phủ ở các
cơ quan khác nhau, bao gồm đại diện cấp cao của cơ quan lập
pháp, tôi thấy những hạn chế rất rộng này được nhắc
đến nhiều lần. Viện dẫn "lợi ích xã hội" không rõ
ràng cũng có thể, thậm chí, dẫn đến truy tố tội hình sự,
theo Điều 258 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 của Điều này quy
định: "Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận,
tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp,
lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích
của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba
năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm." Tôi thấy một
điều đáng lo ngại trong điều khoản này là việc không có quy
định cụ thể hành vi như thế nào sẽ bị coi là "lợi
dụng" tự do tôn giáo hoặc các quyền tự do dân chủ khác.
Các thành viên của Tòa án Nhân dân Tối cao không đưa ra
hướng dẫn cụ thể nào để giải thích thuật ngữ "lợi
dụng". Cách thức quy định rộng và không rõ ràng trong Điều
258 đã đem lại cho các cơ quan chức năng liên quan khả năng
tự ý định đoạt để ngăn người dân trong tất cả các
loại hoạt động – kể cả thái độ ngầm của họ - nếu
những hoạt động này bằng cách nào đó bị coi là mâu thuẫn
với lợi ích của Nhà nước. Từ nhiều trao đổi thảo luận
tôi đã nghe, đây không phải là một vấn đề lý thuyết đơn
thuần, và Điều 258 Bộ luật Hình sự đã được áp dụng
thường xuyên, và được áp dụng để hạn chế quyền tự do
tôn giáo tín ngưỡng và các quyền con người khác. Khi đặt ra
câu hỏi về tù nhân lương tâm, tôi được cho biết không có
vụ việc nào về tù nhân lương tâm. Với quy định không rõ
ràng và con số lớn các vụ việc bị buộc tội theo Điều 258
bộ Luật Hình sự, người ta tự hỏi làm thế nào cơ quan có
thẩm quyền có thể loại trừ được khả năng này.

<h3>c) Yêu cầu hành chính với thực hành tôn giáo </h3>

Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng bao gồm rất nhiều quy
định mà các cộng đồng tôn giáo phải tuân thủ để có thể
hoạt động. Các quy định này được hướng dẫn chi tiết hơn
trong Nghị định 92. Ví dụ, các cộng đồng tôn giáo được
yêu cầu phải đăng ký tư cách với Ban Tôn giáo Chính phủ;
họ phải xin các giấy phép cụ thể để xây dựng hay kiến
thiết nơi thờ tự; họ phải trình với chính quyền địa
phương một bản kế hoạch các hoạt động hàng năm; họ phải
thông báo với chính quyền về việc bổ nhiệm các chức sắc
tôn giáo; họ phải được chính quyền địa phương liên quan
cho phép mới có thể tiến hành các nghi lễ ở nơi công cộng,
v.v... Các yêu cầu trong Pháp lệnh và Nghị định bao gồm
những nghĩa vụ về thông tin và thông báo cũng như quy định
phải được phê duyệt trước khi tiến hành một số hoạt
động tôn giáo nhất định. Nghị định cũng quy định thời
hạn mà chính quyền được yêu cầu phải trả lời các đơn
được gửi đến. Nếu có một quyết định không thuận, cơ
quan có thẩm quyền phải nêu rõ lý do.

Những phát hiện sơ bộ của tôi không nhằm mục đích đưa ra
một đánh giá tổng thể những quy định hành chính rất cụ
thể trong Pháp lệnh và Nghị định xem các quy định này có
phản ánh phù hợp sự tôn trọng tự do tôn giáo tín ngưỡng
không. Thay vào đó, tôi sẽ tập trung vào một vấn đề xuất
hiện trong hầu hết tất cả các cuộc thảo luận của chúng
tôi, đó là yêu cầu các cộng đồng tôn giáo phải có đăng
ký với cơ quan có thẩm quyền. Theo Điều 16 của Pháp lệnh,
các tổ chức cần phải đáp ứng được một số tiêu chí
để được công nhận trước pháp luật là một tổ chức tôn
giáo. Cụ thể là, các điều kiện này nhằm đảm bảo tôn
trọng "thuần phong, mỹ tục và lợi ích của dân tộc". [5]
Không đề cập đến các chi tiết về thủ tục và nội dung
cụ thể, tôi muốn tập trung vào hai khía cạnh đặc biệt quan
trọng.

Khía cạnh đầu tiên liên quan đến bản chất của việc đăng
ký. Đây là một đề nghị, hay một yêu cầu chính thức? Khi
thảo luận vấn đề này, tôi nhận được những câu trả lời
khác nhau, và có vẻ như thiếu sự rõ ràng. Trong khi một số
đại diện của Chính phủ tuyên bố không chút ngập ngừng
rằng không có đăng ký với chính quyền thì các cộng đồng
sẽ không được hoạt động, một số khác cho rằng một cộng
đồng tôn giáo vẫn có thể tiến hành một số hoạt động
tôn giáo căn bản như tụ họp để sinh hoạt tôn giáo tại nhà
riêng. Ngay cả với cách diễn giải thứ hai mang tính tạo
thuận lợi hơn, tôi kinh ngạc thấy phạm vi của tự do tôn
giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ ràng.

Trong bối cảnh này, thuật ngữ "công nhận" được sử
dụng trong Pháp lệnh và cũng được đề cập đến trong nhiều
cuộc trao đổi, có thể cần được giải nghĩa ngắn gọn.
Việc thực thi quyền con người đối với tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng với
những người khác, không thể diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ
hành vi công nhận hay phê duyệt hành chính cụ thể nào. Là
một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn có
trong tất cả con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao
hơn bất kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính nào. Lời nói
đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu bắt đầu bằng
"công nhận nhân phẩm vốn có và các quyền bình đẳng và
không thể bị tước đoạt của tất cả các thành viên trong
gia đình nhân loại". Rõ ràng là "công nhận" ở đây có
nghĩa cơ bản là bất kỳ tương tác có nghĩa nào giữa con
người với nhau đều phải tôn trọng nhân phẩm và các quyền
con người. "Công nhận" trong nghĩa căn bản là tôn trọng
nhân phẩm và nhân quyền, vì thế, vượt trên bất kỳ sự
"công nhận" nào về mặt hành vi hành chính cụ thể.

Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối với tự
do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể
"được tạo ra" bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào.
Đúng ra là ngược lại, việc đăng ký phải là phương tiện
cho quyền con người này, mà bản thân quyền ấy phải được
tôn trọng là có trước bất kỳ việc đăng ký nào. Trên cơ
sở nhận thức chung ấy, việc đăng ký phải là một đề
nghị của Nhà nước, không phải một yêu cầu bắt buộc về
mặt pháp lý. Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo không
đăng ký, vì thế, gợi ý kết quả của một phép thử quan
trọng đối với nhận thức về vị thế chuẩn của tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng nói chung.

Điểm thứ hai, tôi muốn đưa ra những quan ngại về việc có
tồn tại một tư cách pháp nhân nào khác đối với một số
cộng đồng không được đăng ký như tổ chức tôn giáo. Với
các tiêu chí khá cao như quy định trong Điều 16 của Pháp
lệnh, việc các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng có một
phương án lựa chọn đáng tin cậy để được nhận một hình
thức tư cách pháp nhân nào đó – nếu họ muốn – là rất
quan trọng. Với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, Nhà nước có
trách nhiệm cung cấp khuôn khổ pháp lý và thể chế phù hợp
để các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng có thể hoạt
động tự do, không phải chịu những gánh nặng không phù hợp
và không có sự phân biệt đối xử. Điều này bao gồm phương
án lựa chọn để các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng có
thể nhận được các tư cách pháp nhân khác mà họ có thể
cần để thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng khác
như mua bất động sản, tuyển dụng nhân viên chuyên nghiệp,
vận hành các tổ chức từ thiện, thiết lập các viện đào
tạo chức sắc tôn giáo hay giáo dục thế hệ trẻ, vv.. Không
có, và không thực sự tiếp cận được với vị trí tư cách
pháp nhân phù hợp, tương lai phát triển của các cộng đồng
tôn giáo và tín ngưỡng, đặc biệt là các nhóm nhỏ, có thể
bị nguy hiểm nghiêm trọng. Tôi được biết rằng có khả năng
cho các cộng đồng tôn giáo đăng ký như các hiệp hội, nhưng
tôi không có điều kiện để tìm hiểu kỹ hơn phương án này
trên thực tế đã được áp dụng đến mức độ nào.

Trao đổi với nhiều đại diện khác nhau của Chính phủ về
vấn đề đăng ký, tôi tin rằng đây là một vấn đề cần
quan tâm, đòi hỏi các biện pháp lập pháp và các biện pháp
khác. Tôi khuyến nghị rằng những cải cách pháp lý mới cần
(1) làm rõ rằng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, với vị thế
là một quyền con người, cao hơn bất kỳ một hành vi phê
duyệt hành chính nào và có thể được thực hành bởi các cá
nhân và các nhóm người trước khi đăng ký và độc lập với
việc đăng ký; (2) đem lại cho các cộng đồng tôn giáo các
phương án lựa chọn đáng tin cậy và dễ tiếp cận hơn để
họ có được tư cách pháp nhân phù hợp nhằm tạo điều
kiện cho sự phát triển tự do của một cơ cấu tổ chức phù
hợp. Ban Tôn giáo Chính phủ cần đóng một vai trò cốt yếu
trong việc hướng dẫn và đào tạo các cơ quan địa phương
diễn giải các quy định theo các quyền con người phổ quát.

<h3>d) Vấn đề truy đòi khắc phục pháp lý </h3>

Điều 30 Hiến pháp 2013 quy định mọi người có quyền khiếu
nại với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Việc thực thi
hiệu quả các quyền con người, bao gồm tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng, phụ thuộc nhiều vào sự tồn tại của một cơ chế
truy đòi khắc phục pháp lý phù hợp. Mọi người phải có
thể khắc phục, mà không bị yêu cầu đáp ứng những giới
hạn hay gánh nặng bất hợp lý nào, bằng những công cụ pháp
lý để có thể không thừa nhận một quyết định được cơ
quan chức năng đưa ra nếu họ thấy các quyền có họ đã bị
vi phạm, căn cứ vào tất cả các nguyên tắc về đảm bảo
một quá trình thích đáng và công bằng. Mục đích chính của
biện pháp truy đòi khắc phục pháp lý không phải để xác
định xem cá nhân nào trong hệ thống hành chính đã làm sai, mà
để đảm bảo việc thực hiện một cách nhất quán các quyền
con người cho tất cả mọi người.

Khi hỏi về các ví dụ liên quan đến các vụ việc trong đó
người dân thành công trong việc không thừa nhận và khắc
phục những cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo và tín ngưỡng
của họ như được quy định tại Điều 24 của Hiến pháp,
tôi được biết chưa có trường hợp nào như vậy được
biết đến ở Việt Nam. Kể cả thành viên của Tòa án Nhân
dân Tối cao cũng không biết một vụ việc nào. Đây là một
kết quả đáng ngạc nhiên – và càng ngạc nhiên hơn khi trong
thực tế có nhiều mâu thuẫn về đất đai đã được thông
tin đến tôi. Một số mâu thuẫn có vẻ có liên quan đến khía
cạnh tự do tôn giáo, ví dụ như khi mảnh đất trước kia đã
được dùng cho nghĩa địa tôn giáo hay các nhà thờ tự đã
bị lấy đi để phục vụ phát triển kinh tế.

Khi trao đổi về vấn đề biện pháp truy đòi khắc phục pháp
lý, khả năng thường được nhắc đến là gửi đơn kháng
nghị đến cấp hành chính cao hơn. Tuy nhiên phương án này
không thể được tính là tương đương với một cơ quan tư
pháp độc lập có nhiệm vụ bảo đảm quyền con người của
tất cả mọi người, bao gồm trường hợp xung đột giữa cá
nhân hay nhóm người với cơ quan hành chính. Mặc dù tôi đã
nghe nói có một số trường hợp kháng nghị lên cấp cao hơn,
bao gồm cả Thủ tướng, đã giúp giảm nhẹ mâu thuẫn, nhưng
trong nhiều trường hợp khác, người kháng nghị không thấy cơ
quan hành chính có phản ứng gì. Với một số trường hợp
khác, cấp hành chính cao hơn chỉ đơn thuần chuyển lại vụ
việc cho cơ quan có thẩm quyền ở địa phương để xem xét
lại, nghĩa là vụ việc có thể rơi vào quên lãng. Từ góc
độ pháp quyền, tình trạng này còn xa mới được coi là thỏa
mãn tinh thần thượng tôn pháp luật.

<h2>III. Quyền tự chủ của các cộng đồng tôn giáo và tín
ngưỡng </h2>

<h3>a) Thái độ tiêu cực đối với các cộng đồng tôn giáo
chưa được công nhận </h3>

Các đại diện của Chính phủ đã nhấn mạnh nhiều lần là
tôn giáo có thể và cần đóng góp vào sự phát triển của
đất nước, không chỉ bằng cách khuyến khích các giá trị xã
hội, đạo đức và công dân. Sự trông đợi này được phản
ánh vào Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng, trong đó tại
Điều 2, câu thứ hai quy định: "Chức sắc nhà tu hành có
trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu
nước, thực hiện quyền, nghĩa vụ công dân và ý thức chấp
hành pháp luật."

Dựa trên giả định rằng hầu hết các giá trị tôn giáo và
lợi ích của Nhà nước trùng nhau, nhiều tôn giáo đã trở
thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo. Tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt
trận Tổ quốc là Giáo Hội Phật giáo Việt Nam. Các cộng
đồng tôn giáo được công nhận chính thức khác cũng góp một
phần lớn vào Mặt trận Tổ quốc.

Khi thảo luận vấn đề này với Văn phòng Trung ương Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, tôi được biết Giáo hội gồm chín hệ
phái Phật giáo theo truyền thống Đại thừa (phổ biến ở
Việt Nam), Tiểu thừa và các nhánh khác. Hợp tác trong tinh
thần đoàn kết, nhiều hệ phái có thể duy trì những đặc
tính và bản sắc riêng, bao gồm những di sản ngôn ngữ khác
nhau. Điều này cũng được khẳng định trong những cuộc trao
đổi tại hai ngôi chùa Khmer ở thành phố Hồ Chí Minh nơi
thực hành Phật giáo Tiểu thừa. Tuy nhiên, trong khi công nhận
sự đa dạng ngay trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tôi lưu ý
thấy thái độ phủ nhận các thực hành Phật giáo bên ngoài
Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Một vài chức sắc trong Giáo
hội Phật giáo Việt Nam cho biết họ chưa bao giờ nghe thấy
các nhóm Phật tử độc lập ở Việt Nam. Một số vị khác ám
chỉ đến "quan điểm riêng" của một số cá nhân bị dẫn
dắt bởi các tham vọng có vấn đề về mặt đạo đức và
không đáng được chú ý nghiêm túc. Việc gán những mối quan
tâm "ích kỷ" vặt vãnh cho những người đang thực hành
Phật giáo hay các tổ chức tôn giáo ngoài các kênh chính thống
là một điều được lặp đi lặp lại trong các cuộc trao
đổi. Điều này có vẻ trùng hợp với việc "lợi ích của
số đông" thường được nhắc đến, với giả định là
lợi ích của số đông sẽ được đặt lên trên quyền của
những người thiểu số hay các cá nhân.

Tôi muốn nhấn mạnh là trong bối cảnh này, tự do tôn giáo
tín ngưỡng không chỉ đơn thuần là vấn đề thiểu số. Là
một quyền con người, nó liên quan đến tất cả con người,
bất kể họ có theo một tôn giáo chiếm số đông hay thuộc
về một cộng đồng thiểu số, hay không thuộc về một cộng
đồng tôn giáo nào. Cần đặc biệt chú ý đến cách thức
đối xử với những người thiểu số, vì cách thức đối xử
với thiểu số thường cho thấy bầu không khí chung của một
xã hội có khoan dung hay không. Khi các cộng đồng thiểu số có
thể hoạt động tự do và độc lập, thành viên của một nhóm
đa số nhìn chung cũng có nhiều không gian hơn để thực hành
tôn giáo của chính họ theo cách họ thấy phù hợp. Bất kỳ
sự tôn trọng nào với quan điểm cá nhân, bao gồm cả quan
điểm bất đồng, đều tạo điều kiện cho những dòng tư duy
tự do luân chuyển trong một xã hội nói chung, và vì thế cũng
làm phong phú sự tương tác của những người thuộc các nhóm
đa số. Tuy nhiên, tôi đã lưu ý thấy trong một số cuộc trao
đổi, "lợi ích của đa số" đã được viện dẫn với
mục đích rõ ràng là để phủ nhận yêu cầu của thiểu số
là không phù hợp, hoặc để cho rằng những yêu cầu ấy là
không chính đáng vì có vấn đề đạo đức. Việc này cũng
xảy ra khi vấn đề các tổ chức tôn giáo độc lập – như
Giáo hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam, các nhóm độc lập
theo đạo Hòa Hảo, Cao Đài hay Tin lành – được nêu ra.

Trong các cuộc gặp gỡ với các đại diện của cộng đồng
Phật giáo độc lập, tôi được nghe những khiếu nại về
tình trạng đàn áp vẫn diễn ra, bao gồm việc công an triệu
tập, giữ tại nhà, bỏ tù và tịch thu tài sản, những việc
sẽ cản trở các cá nhân thực hành tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng kể cả ở mức tối thiểu. Mặc dù tôi không thể
phân tích một cách thỏa đáng và chi tiết tất cả những
khiếu nại đó (việc này sẽ cần nhiều thông tin hơn từ tất
cả các bên liên quan), thái độ chung phủ nhận các thực hành
tôn giáo không chính thức, như tôi đã gặp trong nhiều cuộc
trao đổi, là một dấu hiệu cho thấy rõ ràng rằng cộng
đồng Phật tử độc lập hiện không thể thực hành tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng. Bên cạnh đó, một số nhà sư tự
gọi mình là "Khmer Krom" cũng muốn có thêm quyền tự chủ
không chỉ trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà còn cả bên
ngoài tổ chức Phật giáo có tính bao trùm này. Tình hình của
các cộng đồng Hòa Hảo độc lập cũng có vẻ khó khăn như
vậy.

Một tôn giáo ít được biết đến bên ngoài Việt Nam là đạo
Cao Đài. Đạo này tập hợp nhiều truyền thống của Phật
giáo, Khổng giáo, Đạo giáo và Cơ đốc giáo với một số
phương thức truyền dạy mới. Giống như trường hợp của
Phật giáo, tín đồ Cao Đài chia ra thành nhóm những người là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc và nhóm những người nhất
quyết thực hành tôn giáo độc lập. Mối quan hệ giữa hai
nhóm có vẻ căng thẳng. Trong khi các nhóm Cao Đài chính thức
cáo buộc nhóm không chính thống là có tư tưởng chia rẽ và
gây ra "hoang mang" trong nhân dân, nhóm Cao Đài độc lập cho
rằng truyền thống chân truyền của họ bị Chính phủ can
thiệp nên, họ cho rằng, đã dẫn đến áp đặt những thay
đổi trong tôn giáo Cao Đài. Mặc dù tôi không ở vị trí phù
hợp để đánh giá các chi tiết thần học trong mâu thuẫn
giữa hai bên, nhưng tôi trông đợi Chính phủ đảm bảo việc
hoạt động tự do của các cộng đồng Cao Đài độc lập và
tạo điều kiện cho sự phát triển của các cộng đồng này
theo cách mà bản thân họ thấy phù hợp. Tình trạng hiện nay
của các nhóm Cao Đài độc lập rõ ràng là không phù hợp với
tự do tôn giáo tín ngưỡng, vì các cộng đồng này thiếu cơ
sở vật chất phù hợp để cầu nguyện và truyền dạy, và cho
biết thường phải chịu sức ép để gia nhập các nhóm chính
thức.

<h3>b) Đào tạo và bổ nhiệm giáo chức </h3>

Số các cơ sở đào tạo giáo chức của các tôn giáo khác nhau
– Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài và các tôn giáo khác
– đã tăng đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Tôi
được Chính phủ cho biết hiện nay có khoảng 45.000 cơ sở
đào tạo tôn giáo trong cả nước. Trong khi các cộng đồng tôn
giáo quyết định những phần chính trong chương trình đào tạo
– nghĩa là việc dạy các giáo lý, thực hành và nghi lễ,
lịch sử của cộng đồng và các vấn đề khác – chương
trình cũng bao gồm các môn học về lịch sử và luật pháp
Việt Nam và chủ nghĩa Mác_Lênin, do Bộ Giáo dục và Đào tạo
cung cấp.

Các cộng đồng tôn giáo có thể bổ nhiệm và suy cử chức
sắc tôn giáo theo quy định riêng của họ. Họ cho biết quyết
định bổ nhiệm của họ không cần chính quyền phê duyệt,
nhưng cần đăng ký chức sắc tôn giáo đã được bổ nhiệm.
Về việc bãi chức danh tôn giáo hay sư tăng, việc này có vẻ
hiếm xảy ra, các quyết định nhìn chung cũng do cộng đồng
tôn giáo đưa ra, theo giáo luật của họ. Tuy nhiên, tôi cũng
đã gặp một số cáo buộc về việc Chính phủ can thiệp vào
một số trường hợp trong đó nhà sư bị bắt bỏ áo tu. Tôi
không thể xác định các chi tiết cần thiết để đánh giá rõ
ràng những trường hợp này. Tuy nhiên, việc chỉ có rất ít
các phương án lựa chọn cho một đời sống cộng đồng tôn
giáo tự chủ, chắc chắn dẫn đến một tình trạng cơ cấu
trong đó việc bổ nhiệm hay bãi nhiệmtrên thực tế có thể
chịu ảnh hưởng bởi những lợi ích của Chính phủ.

<h3>c) Các vấn đề tài sản và đất đai </h3>

Trong chuyến thăm, nhiều vấn đề tài sản đã được trao
đổi với tôi, không chỉ từ thành viên của các cộng đồng
tôn giáo không được công nhận mà bởi cả đại diện của
các cộng đồng đang hợp tác với Chính phủ trong Mặt trận
Tổ quốc. Nhiều yêu cầu về tài sản liên quan đến bất
động sản và/hoặc đất đai. Để phục vụ phát triển kinh
tế hoặc các dự án hiện đại hóa khác, một số cộng đồng
tôn giáo đã mất – hoặc đang bị đe dọa mất – một phần
lớn đất đai của họ. Tôi nhiều lần nghe được những yêu
cầu trả lại cho các cộng đồng tôn giáo những tài sản họ
đã bị lấy đi.

Thông thường việc tranh chấp tài sản cần có những thông tin
chính xác về các tình tiết phức tạp, mà tôi không thể thu
thập đủ các thông tin này. Vì thế tôi sẽ hạn chế mình
trong phạm vi một số nhận xét chung. Có bất động sản và
đất đai là một trong những điều kiện tiên quyết căn bản
cho đời sống cộng đồng tôn giáo. Sở hữu rõ ràng và
được đảm bảo vững chắc vì thế là một yếu tố quan
trọng xác định quyền tự chủ của các cộng đồng tôn giáo
– hay việc họ thiếu quyền tự chủ. Thêm nữa, một số
cộng đồng có những gắn bó về văn hóa và tôn giáo mạnh
mẽ với một mảnh đất cụ thể, ví dụ, nơi chôn cất tổ
tiên của họ. Một trường hợp đặc biệt liên quan đến vấn
đề này là cộng đồng Chăm đang thực hành đạo Hồi và Ấn
độ giáo. Người Chăm coi mình là một nhóm dân cư bản địa
và nỗ lực để được công nhận như vậy.

Đại diện của Chính phủ công nhận rằng ở Việt Nam có mâu
thuẫn đất đai – cũng như ở nhiều nước khác. Đồng thời,
họ nghi ngờ việc mâu thuẫn đất đai có thể ảnh hưởng
đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Ít nhất trong một vài
trường hợp, nhu cầu tôn giáo rõ ràng có vai trò quan trọng.
Ví dụ, đại diện của các nhóm Tin Lành cho tôi biết về
những trường hợp ở nông thôn trong đó nhiều giáo xứ Tin
Lành bị gộp lại thành một để "dễ quản lý hơn". Họ
cũng cho biết, việc sáp nhập như vậy không phải luôn luôn
được tiến hành với sự tôn trọng thỏa đáng đối với sự
khác biệt trong những hệ phái Tin Lành khác nhau, và nhu cầu
của giáo dân.

Những mâu thuẫn về vấn đề đất đai, đặc biệt khi có
thêm yếu tố tôn giáo, luôn cần được xử lý một cách tinh
tế với mục tiêu là đưa ra những giải pháp chấp nhận
được cho tất cả các bên có quan tâm. Việc thiếu biện pháp
khắc phục pháp lý như đã nêu ở trên – đặc biệt trong
ngành tư pháp – cũng có ảnh hưởng mạnh đến tình trạng
đất đai và các vấn đề tài sản liên quan đến các cộng
đồng tôn giáo. Trong khi trao đổi với đại diện của nhiều
cộng đồng tôn giáo – bao gồm cả những cộng đồng hợp
tác với Chính phủ trong Mặt trận Tổ Quốc – tôi nhận thấy
một nỗi thất vọng lớn về các thủ tục pháp lý không hiệu
quả. Kết quả là, một số cộng đồng tôn giáo thấy họ bị
phụ thuộc vào sự ban ơn của chính quyền địa phương.

<h2>IV. Thực hành tôn giáo trong những hoàn cảnh đặc biệt
</h2>

<h3>a) Phạm nhân </h3>

Như đã đề cập, Điều 24 Hiến pháp 2013 quy định dành cho
mọi người chứ không dành riêng cho công dân. Vì thế, phạm
nhân, ngay cả khi tạm thời mất đi các quyền công dân đầy
đủ, cũng cần, trong bất kỳ trường hợp nào, được thụ
hưởng tự do tôn giáo hay tín ngưỡng như một quyền con
người. Khi thảo luận vấn đề này tôi nhận được những
thông tin trái ngược. Các cơ quan chính phủ nhìn chung nhấn
mạnh rằng phạm nhân có thể thực hành tôn giáo trong phạm vi
trại giam nếu việc đó không ảnh hưởng tiêu cực đến các
phạm nhân khác và những hoạt động chung của trại giam.
Những người khác đã trải qua cuộc sống trong tù thì nói
rằng các hoạt động tôn giáo ít khi được cho phép trong tù;
ngay cả việc nhận và giữ kinh sách hay tài liệu tôn giáo cũng
thường bị cấm. Vấn đề này rõ ràng cần được chú ý
nhiều hơn.

Việc tổ chức giáo đoàn cho trại giam, nghĩa là chức sắc
của các tôn giáo khác nhau giúp hỗ trợ nhu cầu tinh thần cho
phạm nhân, theo yêu cầu của phạm nhân, không tồn tại ở
Việt Nam. Tuy nhiên, đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt
Nam giải thích rằng họ sẽ tăng cường việc phục vụ trong
các trại giam, bao gồm việc thuyết giảng để khai trí về xã
hội và đạo đức cho phạm nhân. Các giáo sỹ Thiên Chúa giáo
cũng thỉnh thoảng làm lễ cho phạm nhân. Các mục sư Tin Lành
tôi đã trao đổi về vấn đề này cho biết họ không thấy có
bất kỳ sự hỗ trợ tinh thần nào đối với phạm nhân theo
đạo Tin lành.

<h3>b) Quân nhân </h3>

Quân đội Việt Nam không có hệ thống giáo đoàn quân đội
để đáp ứng nhu cầu tôn giáo hay tinh thần của quân nhân. Tuy
nhiên, tương tự như trong trại giam, Giáo hội Phật giáo Việt
Nam có lẽ đang cố gắng tăng cường hoạt động này. Tôi
được cho biết các vị sư cầu nguyện cho quân nhân đang phục
vụ tổ quốc trong những trường hợp phức tạp. Họ cũng có
thể dạy phương pháp thiền để giúp quân nhân khắc phục
những khó khăn trong nhiệm vụ và điều kiện sinh hoạt.

Từ chối không phục vụ trong quân đội với lý do lương tâm
không được biết đến ở Việt Nam, và không có phương án
phục vụ dân sự cho các cá nhân phản đối cầm vũ khí vì lý
do lương tâm.

<h2>V. Báo cáo về các trường hợp vi phạm quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng </h2>

Tôi đã được nghe một số cáo buộc nghiêm trọng về các vi
phạm cụ thể đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng
ở Việt Nam. Các vi phạm được báo cáo gồm có những vụ vây
bắt nặng tay của công an; những trường hợp thường xuyên
được mời lên đồn công an "làm việc"; các hoạt động
tôn giáo bị giám sát chặt chẽ; các lễ hội và nghi thức làm
lễ tôn giáo bị cắt ngang; các vụ giữ tại nhà, đôi khi trong
thời gian dài; các vụ bỏ tù, đôi khi cũng trong cả một quãng
thời gian dài; các vụ đánh đập và hành hung; bị mất việc
làm; mất phúc lợi xã hội; gây áp lực đối với những
người trong gia đình; hành động phá hoại; phá dỡ những nơi
thờ tự, nghĩa trang và các nhà tang lễ; tịch thu tài sản; gây
áp lực một cách có hệ thống để phải từ bỏ một số
hoạt động tôn giáo nhất định và chuyển sang hoạt động
theo các kênh chính thức được thiết lập cho việc thực hành
tôn giáo; và gây áp lực để bắt từ bỏ tôn giáo hay tín
ngưỡng. Tôi cũng đã gặp một tù nhân lương tâm tại trại
giam nơi đang thụ án.

Các cáo buộc nói trên có mức độ khác nhau và được đưa ra
bởi những người thuộc các cộng đồng Phật giáo độc lập,
các cá nhân thuộc nhiều cộng đồng Tin lành (trong đó một
số cộng đồng đã được đăng ký chính thức), một số nhóm
Công giáo ở địa phương, những người thuộc các tổ chức
Cao Đài độc lập, một số người theo các rao giảng tôn giáo
mới như Dương Văn Mình, và nhiều nhóm khác. Do bị gây áp
lực và bị khởi tố, một số người đã phải bỏ trốn
hoặc chạy ra nước ngoài do lý do tôn giáo. Tôi cũng muốn
nhấn mạnh rằng việc đăng ký chính thức theo quy định của
Chính phủ không phải là điều kiện bảo đảm cho quyền tự
do tôn giáo hay tín ngưỡng được tôn trọng một cách đầy
đủ.

Tôi muốn giải thích rõ một thực tế rằng chuyến thăm quốc
gia trong vai trò Báo cáo viên Đặc biệt không phải nhằm mục
đích đánh giá sâu các trường hợp cụ thể. Để phân tích
một cách toàn diện về các trường hợp cụ thể, cần phải
có nhiều thông tin hơn nữa để có một bức tranh đầy đủ
về các sự kiện thực tế có liên quan và được nhìn từ góc
độ của tất cả các bên liên quan. Thay vào đó, mục đích
chuyến thăm quốc gia của Báo cáo viên Đặc biệt là để
đánh giá mức độ tin cậy trong các cáo buộc liên quan đến
các vấn đề nhân quyền và lạm dụng nhân quyền. Không định
kiến về tính chính xác của tất cả các sự kiện thực tế
của tất cả các trường hợp cụ thể đã được báo cáo
với tôi, tôi tin rằng, những vi phạm nghiêm trọng đối với
quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng là một thực tế đang
diễn ra ở Việt Nam – nhất là ở các vùng nông thôn, tuy
không phải chỉ có ở nông thôn.

Đánh giá chung này không chỉ dựa trên các cuộc phỏng vấn và
các tư liệu mà tôi nhận được từ những người bảo vệ
nhân quyền và thành viên của nhiều cộng đồng tôn giáo khác
nhau, mà còn liên quan mật thiết đến những quan sát một cách
có hệ thống mà tôi đã mô tả ở phần đầu của tuyên bố
báo chí này, bao gồm:

- thái độ nhìn chung là tiêu cực và tùy tiện đối với các
quyền của các nhóm thiểu số và cá nhân thực hành tôn giáo
ngoài các kênh chính thức đã được thiết lập;

- việc thường xuyên viện dẫn một cách thiếu cụ thể về
"lợi ích của đa số" hoặc lợi ích của "trật tự xã
hội";

- Các điều khoản hạn chế quá rộng về nhân quyền nói chung
và quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói riêng;

- Cách trình bày không rõ ràng trong Bộ luật Hình sự, cụ thể
là Điều 258 liên quan đến việc "lạm dụng" tự do dân
chủ;

- Hệ thống tư pháp chưa có cơ chế truy đòi khắc phục pháp
lý đủ hiệu quả mà người dân có thể tiếp cận một cách
dễ dàng, v.v...

Những điều kiện đó đã tạo ra một cơ chế dễ gây tổn
thương cho một số cá nhân và cộng đồng nhất định, phù
hợp với báo cáo về các vi phạm nói trên.

Trong bối cảnh này, tôi muốn nhấn mạnh rằng thông qua nhiều
cuộc trao đổi thảo luận của tôi với các thành viên của
các cộng đồng tôn giáo, mà một vài tổ chức trong số đó
đã chính thức đăng ký với chính quyền và thậm chí còn là
thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mọi người đã
bộc lộ nhận thức chung về những hạn chế hiện tại trong
quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều đáng ngạc nhiên
hơn cả là các lãnh đạo cấp cao của tòa án chưa hề nghe
đến bất kỳ trường hợp nào một cáo buộc vi phạm quyền
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng đã được đưa ra tòa.

Một khía cạnh quan trọng cũng được nhắc đến trong nhiều
cuộc thảo luận, đó là sự phân chia giữa nông thôn với
thành thị. Điều kiện hoạt động của các cộng đồng tôn
giáo có thể rất khác nhau, tùy theo thông lệ ở các địa
phương khác nhau trong nước. Ngoài ra, các chính sách của Ban
Tôn giáo Chính phủ trung ương dường như chưa được phổ
biến một cách hiệu quả xuống các cấp chính quyền địa
phương.

<h2>VI. Nhận xét kết luận </h2>

Điều khoản tham chiếu cho chuyến thăm quốc gia của Báo cáo
viên Đặc biệt có các yêu cầu đảm bảo "việc tiếp xúc
một cách bí mật và không bị giám sát với các nhân chứng và
nguồn tin riêng" và "Chính phủ phải bảo đảm rằng trong
số những người đã tiếp xúc chính thức hoặc tiếp xúc
riêng với Báo cáo viên Đặc biệt […] trong các dịp có liên
quan đến nhiệm vụ của Báo cáo viên đặc biệt sẽ không có
một ai bị đe dọa, sách nhiễu, trừng phạt, hoặc phải chịu
các thủ tục tố tụng tư pháp do đã gặp Báo cáo viên Đặc
biệt". Những điều kiện này đã không được tôn trọng,
như tôi đã đề cập ở trên, với sự vi phạm nguyên tắc
bảo mật. Do đó phần sau của chuyến thăm quốc gia đã bị
gián đoạn.

Sự gián đoạn này càng đáng tiếc hơn vì tôi đã nhận thấy
một số chuyển biến tích cực ở cấp trung ương. Hầu hết
các đại diện của các cộng đồng tôn giáo đều đồng ý
rằng, mặc dù có những vấn đề nghiêm trọng còn đang tồn
tại nhưng điều kiện thực hành tôn giáo của họ đã được
cải thiện trong những năm gần đây. Các cộng đồng tôn giáo
bị cấm hoạt động sau năm 1975 hiện nay đã được phép hoạt
động. Hơn nữa, một số đại diện của các cơ quan Chính
phủ đã bày tỏ mong muốn xem xét những thay đổi trọng yếu
trong quá trình thay thế Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng
hiện nay bằng một luật mới để điều chỉnh những vấn
đề này. Thực sự không nên bỏ lỡ một cơ hội như thế, vì
đó có thể là một bước ngoặt để Việt Nam bảo vệ quyền
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.

Phép thử để đánh giá sự phát triển quyền tự do tôn giáo
hay tín ngưỡng ở Việt Nam là điều kiện hoạt động của
các cộng đồng tôn giáo độc lập. Theo tình hình hiện nay,
khả năng để họ hoạt động như các cộng đồng độc lập
rất không an toàn và rất hạn chế; điều này rõ ràng là một
vi phạm đối với Điều 18 của Công ước Quốc tế về Quyền
Dân sự và Chính trị mà Việt Nam là một quốc gia thành viên.
Văn bản luật sắp được xây dựng về tôn giáo và tín
ngưỡng cần làm rõ rằng việc đăng ký với chính quyền là
một đề nghị, chứ không phải là một yêu cầu pháp lý.
Đồng thời, các cộng đồng cần có nhiều phương án lựa
chọn khác đáng tin cậy và dễ tiếp cận để đạt được tư
cách pháp nhân nhằm xây dựng hạ tầng thích hợp. Một ưu
tiên hiển nhiên khác là xây dựng một cơ chế truy đòi khắc
phục pháp lý hữu hiệu và dễ tiếp cận nhằm sửa chữa
điều chỉnh những vi phạm đối với quyền tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng của các cá nhân hay nhóm người.

Để kết luận, tôi xin nhắc lại lời cảm ơn đối với Chính
phủ Việt Nam đã mời tôi thực hiện chuyến thăm quốc gia
này. Tôi tin rằng Chính phủ sẽ thực hiện đúng những yêu
cầu bảo đảm cho tất cả những ai đã làm việc cùng tôi
trong chuyến thăm này và những ai đã gặp và tiếp xúc với
tôi trong chuyến công tác này sẽ không bị đe dọa, sách
nhiễu, trừng phạt hoặc phải chịu các thủ tục tố tụng tư
pháp sau chuyến thăm quốc gia này. Tôi sẽ tiếp tục liên hệ
với họ và theo dõi sự an toàn của họ. Bất kỳ sự cố nào
có tính trả thù đều sẽ được báo cáo lên Hội đồng Nhân
quyền và Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.

Tôi vui mừng nếu được đóng góp ý kiến chuyên môn của tôi
với tư cách là Báo cáo viên Đặc biệt trong tiến trình Chính
phủ Việt Nam cải thiện các điều kiện pháp lý và hạ tầng
nhằm thúc đẩy quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng cho tất
cả mọi người. Tôi cũng sẽ tiếp tục làm việc với Chính
phủ Việt Nam trên tinh thần hợp tác xây dựng.

___________________

[1] Bản Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc Hội thông qua
ngày 28/11/2013.

[2] Xem điều 38 Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng: "Trong
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có quy định khác
với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định
của điều ước đó."

[3] Điều 18, khoản 3 ICCPR.

[4] Điều 14, khoản 2 Hiến pháp 2013.

[5] Điều 16 khoản 1 Pháp lệnh Tôn giáo và Tín ngưỡng quy
định như sau:

1. Tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo khi có đủ
các điều kiện sau đây:

a) Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo
lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mỹ tục,
lợi ích của dân tộc;

b) Có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích,
đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái
với quy định của pháp luật;

c) Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo
ổn định;

d) Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;

đ) Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ chức tôn
giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140731/tuyen-bo-bao-chi-ve-chuyen-tham-nuoc-cong-hoa-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-cua-bao-cao),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét