Pierre Darriulat - Thư ngỏ – Pierre Darriulat

<center><img src="http://www.danluan.org/files/u5219/nhantaid3c1c9329a.jpg"
width="360" height="250" alt="nhantaid3c1c9329a.jpg" /></center>
<center><em>Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.</em></center>

Thư ngỏ gửi tới: Ngài Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo,

Kính thưa Bộ trưởng,

Xin thứ lỗi cho tôi vì làm mất thời gian của Bộ trưởng.

Là một công dân Pháp nhưng tôi đã sống ở Hà Nội 15 năm
nay, một cách tự nguyện, tôi dành phần lớn thời gian và công
sức của mình nhằm thúc đẩy sự phát triển vật lý thiên
văn ở Việt Nam -qua đào tạo và nghiên cứu- đặc biệt tôi
đã tập hợp và đào tạo một nhóm các nhà vật lý trẻ bao
gồm ba thực tập sinh sau tiến sĩ, hai nghiên cứu sinh (sẽ bảo
vệ vào cuối năm nay và năm sau) và một học viên cao học.

Trong suốt thời gian sống ở Việt Nam, tôi tiếp xúc gần gũi
với nhiều sinh viên và nhà khoa học trẻ Việt Nam -đặc biệt
những bạn ở nhóm nghiên cứu nhỏ của chúng tôi- và tôi rất
lo lắng về khả năng mang lại tương lai mà họ xứng đáng
được hưởng của đất nước. Tôi luôn cố gắng hết sức
để ngăn chặn nạn chảy máu chất xám nghiêm trọng mà đất
nước đang phải hứng chịu và góp phần nâng cao chất lượng
đại học, hiện tại còn thấp hơn rất nhiều so với mức
độ mà đất nước xứng đáng có được.

Dĩ nhiên, tôi biết về lịch sử của Việt Nam, đất nước
đã phải chịu hậu quả của chiến tranh và nghèo đói trong
nhiều thập kỷ, tôi hiểu rõ những nguyên nhân của tình
trạng hiện nay. Tôi cũng nhận thấy sự phức tạp trong việc
giải quyết những khó khăn này và tôi biết chỉ ra thiếu sót
và phê phán thì dễ nhưng khắc phục để phát triển thì khó
hơn nhiều.

Tuy vậy, trong suốt những năm qua, tôi đã chứng kiến một
số thiếu sót trong hệ thống của chúng ta và nó có xu hướng
là nguyên nhân của tình trạng tê liệt và xơ cứng cản trở
sự tiến bộ. Phần lớn những thiếu sót này liên quan đến
thủ tục hành chính, chỉ một số ít gây ra do thiếu đạo
đức. Với tôi, một vài trong số những thiếu sót này có thể
được khắc phục mà không mất nhiều công sức. Sống ở
Việt Nam, như một người Việt, tôi cảm thấy lo lắng một
cách tự nhiên về hình ảnh của đất nước bị làm xấu trong
con mắt bạn bè quốc tế.

Tiêu biểu cho những bất cập này là những quy định về
việc trao bằng tiến sĩ. Tôi lấy việc này làm ví dụ minh
họa cho ý của mình.

Tôi có kinh nghiệm trực tiếp (dĩ nhiên tôi biết nhiều
trường hợp khác nữa) với: 1) 3 nghiên cứu sinh thực hiện
luận án theo hình thức đồng hướng dẫn giữa Viện Vật lý
(Viện Khoa học Việt Nam) hoặc Đại học Khoa học Tự nhiên Hà
Nội với những trường đại học uy tín của Pháp (Orsay và
Paris 6 – Jussieu); 2) một nghiên cứu sinh, hoàn toàn thực hiện
luận án tại Việt Nam với Viện Vật lý; 3) hai nghiên cứu sinh
đang thực hiện luận án theo hình thức đồng hướng dẫn với
hai cơ sở nghiên cứu chất lượng cao Đài thiên văn Paris và
Đại học Paul Sabatier tại Toulouse với Viện Vật lý Hà Nội.
Không theo những điều khoản đã được ký kết và viết rất
rõ trong thỏa thuận ở cấp cao của các cơ sở tham gia đào
tạo, không một ai trong ba sinh viên thực hiện nghiên cứu sinh
theo hình thức đồng hướng dẫn nhận được bằng tiến sĩ
của Việt Nam. Những sinh viên này đã bảo vệ luận án tại
Pháp, sau khi đã thực hiện đầy đủ những điều khoản trong
thỏa thuận, nhất là về ngôn ngữ và thành phần hội đồng
chấm luận án (tỉ lệ thành viên trong hội đồng từ phía
Việt Nam và Pháp). Những sinh viên này đã nhận được bằng
của Pháp ngay sau khi bảo vệ cách đây nhiều năm với những
lời tán dương từ hội đồng.

Người nhận bằng tiến sĩ từ Việt Nam (không thực hiện theo
hình thức đồng hướng dẫn) đã phải đợi một năm từ khi
luận án được in với sự đồng ý của hội đồng cấp bộ
môn cho đến hội đồng cấp viện.
Liên quan đến hai nghiên cứu sinh đang thực hiện luận án theo
hình thức đồng hướng dẫn, tôi quyết định để họ bảo
vệ tại Hà Nội, với hy vọng rằng quá trình thực hiện có
thể sẽ suôn sẻ hơn. Tuy nhiên, có vẻ mọi việc không được
như tôi nghĩ.

Bộ trưởng biết rõ, những bước chính để có thể nhận
được bằng tiến sĩ ở Việt Nam là:

1. Trình bày trước hội đồng gồm 3 thành viên 6 chuyên đề
liên quan đến luận án: trực tiếp (3 chuyên đề) và gián
tiếp (3 môn học phần tiến sĩ).

2. Trình bày trước hội đồng gồm 7 thành viên, nếu thành
công luận án sẽ được đề nghị bảo vệ ở cấp tiếp theo.
3. Luận án sẽ được phản biện bởi hai phản biện kín,
để đi đến bước tiếp theo luận án phải có được nhận
xét tích cực từ hai phản biện này.

4.Thêm vào đó, nghiên cứu sinh phải chuẩn bị 50 bản tóm
tắt luận án để gửi tới một danh sách các chuyên gia và
phải thu lại được ít nhất 15 nhận xét tích cực.

5.Cuối cùng luận án được chấm trước một hội đồng gồm
7 thành viên, trong đó bao gồm 3 phản biện và luận án sẽ
được đánh giá bằng bỏ phiếu.

Đối với ngành thiên văn vô tuyến, lĩnh vực mà chúng tôi
đang nghiên cứu, ở Việt Nam chỉ có hai chuyên gia, là Giáo sư
Đinh Văn Trung ở Hà Nội và Phan Bảo Ngọc ở Thành phố Hồ
Chí Minh, cả hai đều là những người được biết đến trên
thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu của mình. Điều này làm
cho việc phản biện kín trở nên khá hài hước, đấy là chưa
nói đến 50 chuyên gia đề cập ở bước 4. Trong trường hợp
đồng hướng dẫn, đối với đại học ở nước nước ngoài,
chỉ cần bước thứ hai là cần và đủ. Trong suốt những năm
qua, tôi luôn tự hỏi tại sao Việt Nam lại sử dụng một quy
trình phức tạp đến như vậy. Không thể làm như thế mà có
thể hy vọng làm tốt hơn đại học khác trên thế giới,
những trường có vị trí xếp hạng cao hơn nhiều so với các
đại học Việt Nam trên bảng xếp hạng Thượng Hải. Một lý
do đưa ra có thể là để chống lại gian dối; như TS. Bùi Anh
Tuấn, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học của Bộ, phát biểu
trong một bài phỏng vấn gần đây, khẳng định có tồn tại
một vài gian dối. Nhưng tôi tin chắc rằng đại đa số các
giáo sư Việt Nam là trung thực và, dù sao đi nữa, cách để
chống lại gian dối là phạt thật nặng những tác giả của
nó, chứ không phải làm cho cuộc sống của những người trung
thực trở nên khốn khổ. Dành phần lớn sự nghiệp nghiên
cứu khoa học của mình tại một trung tâm nghiên cứu quốc
tế, tôi đã có rất nhiều kinh nghiệm trong việc hướng dẫn
và đánh giá luận án tiến sĩ ở nhiều nước châu Âu và châu
Mỹ. Chưa bao giờ tôi gặp những quy định phức tạp giống
như ở Việt Nam, và tôi cũng chưa bao giờ cảm thấy những nhà
quản lý học thuật lại thiếu niềm tin vào người hướng
dẫn như ở Việt Nam.

Trong bài phỏng vấn mà tôi đã đề cập, TS. Bùi Anh Tuấn có
bình luận về mục tiêu đạt được 20'000 tiến sĩ đến năm
2020; ông tán thành phát biểu của Phó thủ tướng Vũ Đức Đam
rằng để đổi mới hệ thống giáo dục quốc gia, bản thân
Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần phải đổi mới. Đơn
giản hóa những quy định, đối với tôi, là một bước rõ
ràng để đổi mới; thực hiện việc này chẳng tốn kém gì;
nó sẽ cải thiện nhiều hình ảnh của đất nước trong con
mắt bạn bè quốc tế; nó sẽ giải phóng nền học thuật
thoát khỏi sự độc tài của thủ tục hành chính mà lẽ ra
chúng được sinh ra để phục vụ chứ không phải để điều
khiển; nó sẽ làm cho những người hướng dẫn trung thực,
chiếm phần đa, cảm thấy các nhà quản lý tin tưởng mình hơn
so với hiện nay.

Đây là động lực thúc đẩy tôi viết bức thư này, với hy
vọng làm Bộ trưởng chú ý đến vấn đề mà dường như
đối với tôi có thể giải quyết một cách dễ dàng và nó
sẽ giúp Bộ đạt được mục tiêu đào tạo được 20'000
tiến sĩ đến năm 2020. Vì Bộ trưởng không biết tôi, dĩ
nhiên, không có lý do gì để Bộ trưởng phải tin tôi; vì lẽ
đó tôi mạn phép viết bức thư này dưới dạng thư ngỏ để
những ai quan tâm đến việc cải thiện chất lượng giáo dục
đều có thể đọc được với hy vọng rằng họ sẽ ủng hộ
nhận định của tôi. Ngược lại, nếu nhiều người không
đồng tình với cách nhìn này, dĩ nhiên tôi sẽ rút lại những
nhận định của mình và xin Bộ trưởng lượng thứ cho. Tôi
trình bày những quan điểm trên chỉ với một mong muốn duy
nhất là phục vụ cho khoa học, giáo dục đại học ở Việt
Nam và đem lại cơ hội tốt hơn cho thế hệ trẻ.

Trân trọng,

Pierre Darriulat
Hà Nội, tháng Tám, 2014

Contact
Email: darriulat@vinatom.gov.vn
Vietnam Astrophysics Training LaboratorY,
Institute for Nuclear Science and Technology, 179 Hoang Quoc Viet, Nghia Do,
Cau Giay, Ha Noi

Người dịch: Phạm Ngọc Điệp (Email: dieppn@vinatom.gov.vn)

***
Open letter

To His Excellency the Minister of Education and Training,

Mister Minister,

Please, accept my apologies for taking some of your time.

While being a French national, I have now been resident in Ha Noi for some
fifteen years during which, on a voluntary basis, I have dedicated much time
and effort to the promotion of astrophysics in the country – university
training and research – in particular by having gathered and trained a team
of young astrophysicists that now includes three postdocs, two PhD students
who should obtain their degrees at the end of this and next year respectively
and one master student.

During all these years, I have been very close to many Vietnamese students
and young scientists – in particular to those of our small research team
– and very concerned about the ability of the country to offer them the
future that they deserve having. I have done my utmost to help stopping the
disastrous brain drain that the country suffers, and to help raising the
level of our universities, which is much lower than what the country is
worthy of.

I am of course familiar with the recent history of Viet Nam, the decades of
suffering that the country has endured through wars and starvation, and I
understand very well the reasons for the present situation. I am also
conscious of the immensity of the task and I know how easy it is to identify
weaknesses and to criticize, and how difficult it is to correct flaws and to
progress.
Yet, during all these years, I have witnessed a number of such flaws in our
system that tend to be source of paralysis and sclerosis and prevent
progress, mostly associated with bureaucracy, less often with insufficient
morality. It seems to me that a few of these could be corrected without too
much effort. After all these years, I feel naturally concerned by the country
giving abroad a bad image of itself, probably as much as Vietnamese do.

Emblematic of such dysfunctions is the regulation that governs the award of
a PhD degree to young postgraduate students. I should like to take it as an
example to illustrate my point.
My direct experience (of course I know of many more other cases) is with 1)
three PhD under joint supervision between the doctoral schools of the Ha Noi
Institute of Physics (IOP/VAST) or the Ha Noi University of Sciences (HUS)
and prestigious French universities (Orsay and Paris 6-Jussieu); 2) one PhD,
purely Vietnamese, with IOP; 3) two ongoing PhDs under joint supervision with
the Paris Observatory and the Paul Sabatier University in Toulouse, both of
very high level, and the Ha Noi IOP.

In spite of what had been agreed in very clear written agreements signed at
high level in the participating universities, none of the three
joint-supervision students has obtained his PhD degree in Viet Nam. The
defence of their theses has taken place in France, obeying scrupulously the
terms of the joint-supervision agreement, in particular concerning language
and balance of the jury members. They obtained their French degree
immediately after the defence, years ago, with very laudatory assessments of
the jury.

The doctor who obtained her degree from Viet Nam (no joint supervision) had
to wait one full year between the time when the thesis was printed and
approved by the first jury and the final award.
Concerning the two PhD students under joint-supervision who are now in the
mill, I decided to have their defence take place in Ha Noi, in the hope that
it would make the procedure smoother. However, it does not seem to be the
case.

As you well know, the main steps to get over in order to obtain the
Vietnamese degree are

1. Presentation to a jury of 3 members of six subjects related to the thesis
either directly (for three of them) or indirectly (for the other three).
2. Presentation to an evaluation jury of 7 members, which must recommend the
thesis for evaluation at institute level for proceeding to next step.
3. Double blind peer review by two experts who must give a positive
assessment for proceeding to next step.
4. In addition, the candidate must prepare some 50 copies of a short version
of the thesis for distribution to a list of experts out of which at least 15
positive assessments must be collected.
5. An evaluation jury of 7 members including 3 referees will finally
evaluate the thesis by ballot.

In the case of radio astronomy, on which we are working, there exist only
two experts in Viet Nam, Professors Dinh Van Trung in Ha Noi and Phan Bao
Ngoc in TPHCM, both internationally renowned. It makes the idea of blind
refereeing somewhat funny, not to comment on the 50 experts for step 4. Of
the above list, in the case of joint supervision, step 2 alone is necessary
and sufficient in the foreign country. Over all these years, I have wondered
why Viet Nam is following such a complicated procedure. It cannot be in the
hope to do better than so many other universities around the world that are
so much higher in the Shanghai ranking than Vietnamese universities are. A
possibility is the need to prevent frauds; as Dr Bui Anh Tuan, Director of
the Department of Higher Education in your Ministry, said in a recent
interview, there exist indeed a few frauds. But I am sure that Vietnamese
professors, in their vast majority, are honest and, in any case, the way to
fight against fraud is to severely punish its authors, not to make the life
of the honest people more miserable. Having spent most of my scientific
career in an international research centre, I have had numerous opportunities
to supervise and assess PhD theses in many European and American countries.
Never have I met regulations nearing those of Viet Nam in complexity; and
never have I felt to enjoy as little confidence from academic authorities as
I do in Viet Nam.

In the interview to which I already alluded, Dr Bui Anh Tuan commented on
the need to reach 20'000 PhDs by 2020; he endorsed the views of Deputy
Prime Minister Vu Duc Dam that in order to renovate the national education
system, it would be necessary for the MoET to renovate itself. A
simplification of the above regulations seems to me an obvious step in the
right direction; it costs nothing; it will greatly improve the image that the
country gives of itself abroad; it will help freeing academics from the
dictatorship of administration which should be at their service rather than
controlling them; it will make the honest supervisors, the immense majority
of them, feel better trusted by their authorities than they currently do.

This motivated my letter, in the hope that it might bring your attention on
a problem that seems to me easy to solve and that would help your Ministry in
reaching its goal of 20000 PhDs by 2020. As you do not know me, you have of
course no reason to believe me; for this reason I take the liberty to make my
letter accessible to all those who are concerned by improving the level of
higher education in the hope that they might support my statements.
Conversely, if my views were not shared by many, I would of course retract
them and ask for your indulgence. Be sure that my only motivation in
expressing them is to serve Vietnamese science and higher education and to
give better chances to the younger generation.

Very respectfully yours,
Pierre Darriulat,
Ha Noi, August, 2014




***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140823/pierre-darriulat-thu-ngo-pierre-darriulat),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét