Lê Thị Minh Hà - Đơn khiếu nại lần 2 của vợ anh Nguyễn Hữu Vinh ( Ba Sàm)

Về việc Cơ quan an ninh điều tra khám xét, bắt, tạm giam không
đúng pháp luật đối với chồng tôi là anh Nguyễn Hữu Vinh
(mọi người thường gọi là anh Ba Sàm</b>

<div class="boxright200"><img
src="https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEi7xYjKF9sLOkXPqZUXVAyN983Dbb-WyeFT_Es_vVeO7ueM5Wzw7zY7k_ei6pM36rct5XpeF255RqEjbWwLDcZ3JxfqzVhSeHJ93G9IVA3nkzGYQ2naWXN3fmHjWiEFTvYIn3ziQzdazaHv/s1600/VinhBS.jpg"
width="320"></a><div class="textholder">Anh Nguyễn Hữu Vinh (mọi
người thường gọi là anh Ba Sàm</div></div>


<b ><i > </i></b>
<b ><i ></i></b><b ><i ><u>Kính gửi:</u></i></b> -<b > Ông Trương
Tấn Sang – Chủ tịch nước;</b>

<b > </b>- <b >Ông Trần Đại Quang - Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ
trưởng </b><b >Bộ Công an;</b>

<b > </b>-<b > Ông Nguyễn Bá Thanh – Trưởng ban nội chính
TW;</b>

<b > </b>-<b > Ông Nguyễn Hòa Bình – Viện trưởng Viện KSND
Tối cao;</b>

<b > </b>-<b > Ông Nguyễn Văn Hiện – Chủ nhiệm Ủy ban Tư
pháp QH</b>.

Tôi là Lê Thị Minh Hà; sinh năm 1958; trú tại: 5/2/4D phố
Đặng Văn Ngữ, P. Trung Tự, Q. Đống Đa – Hà Nội, là vợ
của anh Nguyễn Hữu Vinh đang bị Cơ quan an ninh điều tra Bộ
Công an khởi tố, bắt tạm giam theo Điều 258 Bộ Luật hình
sự tội: "Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân". Tôi đã có đơn khiếu nại gửi Cơ quan có thẩm quyền
từ ngày 05/06/2014 nhưng đến nay chưa nhận được sự trả
lời của Quý vị.

Theo thông báo của Cơ quan an ninh điều tra thì việc bắt, khám
xét chồng tôi trong trường hợp khẩn cấp. Tôi đối chiếu
với quy định của pháp luật thì việc khám, xét đó là không
tuân thủ pháp luật. Cụ thể là:

<b ><u>Thứ nhất:</u></b> <b >Việc bắt chồng tôi trong trường
hợp khẩn cấp:</b>

Điều 81 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về bắt
người trong trường hợp khẩn cấp như sau:

1. Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:

a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng;

b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người
đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn;

c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại
chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy
cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ
chứng cứ.

2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong
trường hợp khẩn cấp:

a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;

b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung
đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải
đảo và biên giới;

c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã
rời khỏi sân bay, bến cảng.

3. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt người trong
trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản 2
Điều 80 của Bộ luật này.

4. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được
báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài
liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.

Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt khẩn
cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết,
Viện kiểm sát phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt
trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định
không phê chuẩn.

Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét
phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp,
Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát quyết định không
phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho
người bị bắt.

Như vậy, căn cứ vào thực tế vụ việc mà Cơ quan an ninh
điều tra gán gép cho chồng tôi thì không nằm bất cứ một
điểm nào trong điều trên để bắt khẩn cấp, tôi khiếu nại
nhưng Cơ quan an ninh điều tra cũng không giải thích, không đưa
ra bằng chứng chứng minh. Đến giờ phút này tôi và gia đình
cũng chưa nhận được bất kỳ thông tin nào về việc Viện
Kiểm sát có phê chuẩn lệnh bắt đó hay không.

Mọi hoạt động của Cơ quan bảo vệ pháp luật liên quan
đến quyền con người phải quán triệt nghiêm túc đầy đủ,
chính xác các văn bản pháp luật nhưng trong trường hợp của
chồng tôi thì Cơ quan an ninh điều tra bất chấp các quy định;
chính họ tự đưa ra quyền của mình trên cả pháp luật.

<b ><u>Thứ hai:</u></b> <b >Quy định của pháp luật về khám
xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản:</b>

Vấn đề này được quy định rất cụ thể tại Chương XII
(Từ Điều 140 đến 149 Bộ Luật tố tụng hình sự).

Căn cứ vào các quy định trên thì việc khám xét của Cơ quan
an ninh điều tra trong trường hợp đối với chồng tôi cũng
hoàn toàn trái với quy định của pháp luật; đến nay gia đình
tôi cũng chưa nhận được việc Viện Kiểm sát đã phê chuẩn
lệnh khám xét này hay chưa?

Đặc biệt là quy định tại Điều 145 về việc tạm giữ
đồ vật, tài liệu khi khám xét: quy địn như sau:

<b ><i >"Khi khám xét, Điều tra viên được tạm giữ đồ
vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến
vụ án. Đối với đồ vật thuộc loại cấm tàng trữ, lưu
hành thì phải thu giữ và chuyển ngay cho cơ quan quản lý có
thẩm quyền. Trong trường hợp cần thiết phải niêm phong thì
tiến hành trước mặt chủ đồ vật hoặc đại diện gia
đình, đại diện chính quyền và người chứng kiến.</i></b>

<b ><i >Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành khám
xét phải được lập biên bản. Biên bản tạm giữ được
lập thành bốn bản: một bản giao cho người chủ đồ vật,
tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản gửi cho
Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý
đồ vật, tài liệu bị tạm giữ".</i></b>

Gia đình tôi không được Cơ quan an ninh điều tra khi khám xét,
thu giữ đồ vật cung cấp cho gia đình một bản. Việc thu giữ
những gì? Có tiền bạc và những vật đồ dùng quý giá khác
không? Việc mở niêm phong những đồ vật bị thu giữ có sự
chứng kiến đầy đủ của những người tiến hành khám xét
và ký niêm phong không? Những vấn đề nêu trên tôi đã khiếu
nại, yêu cầu trả lời nhưng đang bị làm ngơ hoặc bỏ qua
hoặc che giấu cho sự sai phạm.

Bằng đơn khiếu nại này, tôi đề nghị các Cơ quan có thẩm
quyền trả lời theo đúng quy định tại Chương XXXV (khiếu
nại, tố cáo trong tố tụng hình sự) của Bộ Luật tố tụng
hình sự; Luật Khiếu nại; Luật Tố cáo;... . đừng để cho
người dân kêu than mà pháp luật chỉ để trên giấy để trang
trí, đánh bóng với dân còn thực chất là bị vô hiệu trên
thực tế.

Xin cảm ơn và gửi lời chào trân trọng.

<i >Hà Nội, ngày 21 tháng 8 năm 2014</i>

<b ><u>Nơi nhận:</u></b>

- Thường trực Ban bí thư TW Đảng;

- Ủy ban thường vụ QH;

- Thường trực cải cách Tư pháp (VPTW Đảng);

- Ông Tô Lâm – Thứ trưởng BCA;

- Tổng Cục trưởng Tổng Cục an ninh I,II

- A83, A87, A92 Bộ Công an;

- Luật sư Hà Huy Sơn;

- Luật sư Trịnh Minh Tân;

- Luật sư Nguyễn Hà Luân;

- Lưu

<b >NGƯỜI LÀM ĐƠN</b>



<b >LÊ THỊ MINH HÀ


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140821/le-thi-minh-ha-don-khieu-nai-lan-2-cua-vo-anh-nguyen-huu-vinh-ba-sam),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét