Trần Kiên - Tính chính danh của toà án

Toà án cũng là một cơ quan quyền lực nhà nước, do đó, toà
cũng phải chịu trách nhiệm trước công chúng về việc thực
hiện quyền lực của mình. Liêm chính, khách quan, công khai và
án phải dựa trên lý lẽ là các yêu cầu căn bản để công
chúng có niềm tin vào toà án. Nếu không tuân thủ những yêu
cầu này, toà án có thể mất đi tính chính danh, đồng nghĩa
với việc công chúng sẽ đi tìm công lý ở nơi khác. Tệ hơn,
ngay bản thân sự tồn tại của toà cũng sẽ được đặt ra.

Có lẽ chưa bao giờ toà án lại trở thành tâm điểm chú ý
của công chúng như thời gian vừa qua, với một loạt vụ án
quan trọng, liên quan đến nhiều nhân vật có ảnh hưởng trong
xã hội được đưa ra xét xử. Không chỉ công lý được đặt
lên bàn cân mà tính chính danh của toà án cũng trở thành đối
tượng xem xét.

Chính danh thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của công chúng
vào các quyết định, chính sách của các cơ quan công quyền,
kể cả khi họ không thật sự đồng ý với các quyết định
đó. Chính danh là cơ sở cốt lõi để một chính quyền, hoặc
một cơ quan, thực thi các quyền lực nhà nước được trao
cũng như là điều kiện để công chúng tuân thủ các quyết
định công. Mất đi cơ sở này chính quyền hoặc là phải bị
thay thế, hoặc nếu vẫn cố nắm quyền thì sẽ bị coi là
bất hợp pháp.

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Trong một khảo sát gần
đây với hơn 1.000 người dân Việt Nam tại ba thành phố lớn
là Hà Nội, Hải Phòng và TP.HCM, ngân hàng Thế giới (World Bank)
báo cáo có đến hơn 58% người dân phản hồi về nạn tham
nhũng của toà án và tư pháp, và rằng nạn tham nhũng trong
ngành toà án, tư pháp ở Việt Nam tệ hơn các nước trong khu
vực.<img class="quoright" src="/misc/quoright.png"/> <br
class="quoteclear"></div></div>

Thông thường, quyền lực nhà nước được phân tách thành các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các quyền này được
trao cho các cơ quan khác nhau với các cơ chế chịu trách nhiệm
khác nhau. Quốc hội lập pháp sẽ bị thử thách bởi phiếu
bầu của cử tri sau mỗi nhiệm kỳ, hoặc có thể bị giải
tán giữa nhiệm kỳ. Chính phủ hành pháp có trách nhiệm giải
trình trước quốc hội, có thể bị bỏ phiếu bất tín nhiệm,
kéo theo việc giải tán và thành lập chính phủ mới. Trong
trường hợp của hành pháp tổng thống, thì tính chính danh
cũng sẽ được đánh giá bởi phiếu bầu của cử tri.

Trong trường hợp của toà án, sự tín nhiệm của công chúng
không được thể hiện qua phiếu bầu, mà nó được xem xét
thông qua các yêu cầu về công khai, khách quan và thuyết phục
trong lý lẽ khi xét xử của toà án. Công khai yêu cầu công
chúng phải được quyền tiếp cận với toà án, hay đúng ra là
các phiên toà, là yêu cầu toà án phải xét xử công khai. Khách
quan bó buộc toà án chỉ tuân thủ pháp luật khi xét xử, không
được để bị tác động bởi bất kỳ yếu tố bên ngoài nào
dù là quyền hay tiền. Nhưng điều đó cũng chưa đủ, một
quyết định chỉ thật sự được các đương sự và xã hội
chấp nhận và tôn trọng thực thi nếu nó đưa ra các lý lẽ
thuyết phục cho quyết định của mình. Điều này cũng đồng
nghĩa với việc quyết định của toà án không chỉ đơn thuần
phản ánh ý kiến độc quyền của hội đồng xét xử, nó
phải là nơi lý lẽ của các đương sự có cơ hội được
cất lên, đánh giá và ghi nhận.

Thật đáng tiếc, dường như toà án Việt Nam thời điểm này
đều đang gặp vấn đề với tất cả các tiêu chí nêu trên.

Đầu tiên, trong một khảo sát gần đây với hơn 1.000 người
dân Việt Nam tại ba thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và
TP.HCM, ngân hàng Thế giới (World Bank) báo cáo có đến hơn 58%
người dân phản hồi về nạn tham nhũng của toà án và tư
pháp, và rằng nạn tham nhũng trong ngành toà án, tư pháp ở
Việt Nam tệ hơn các nước trong khu vực. Đây quả thật là
một thông tin đáng lo ngại vì nếu đúng thì có thể một số
lượng không nhỏ quyết định của toà án đã bị bẻ cong
bởi tiền.

Bên cạnh đó là sự lo ngại về tính khách quan, độc lập khi
xét xử của toà án, đặc biệt là trong các vụ án có liên
quan đến cán bộ, công chức, nhất là cán bộ cấp cao; các
vụ án tham nhũng... do người làm công tác xét xử vừa bị chi
phối bởi quy định của luật pháp nhưng đồng thời còn bị
chi phối bởi quy định của các tổ chức chính trị trong hệ
thống.

Không chỉ có vậy, trong một diễn biến gây nhiều tranh cãi
gần đây, yêu cầu về tính công khai của toà án bị thử
thách bởi thông tư mới của Toà án nhân dân tối cao về nội
quy phiên toà. Theo đó, quyền tiếp cận đưa tin về phiên toà
của báo chí có thể bị hạn chế một cách thiếu thích đáng.
Trong bối cảnh với đa số công chúng, báo chí là kênh thông
tin duy nhất giúp họ tiếp cận và biết được hoạt động
xét xử cuả toà, hạn chế báo chí đồng nghĩa với việc
đóng cửa toà án đối với công chúng.

Và cuối cùng, qua một loạt các đại án vừa được xét xử
trong thời gian vừa qua, khi toà án có cơ hội nhận được sự
quan tâm rộng rãi thì dường như toà lại chưa thuyết phục
được công chúng về phán quyết của mình. Điều này bắt
nguồn từ việc trong một số vụ, toà án bị chỉ trích là
đã hạn chế quyền bào chữa của luật sư và bị cáo, dẫn
đến việc chứng cứ không được xem xét đầy đủ như trong
vụ án bầu Kiên. Hoặc đôi khi toà bị chỉ trích là đã làm
thay cả vai trò truy tố của viện kiểm sát. Trong vụ án Huyền
Như, chỉ trích hướng đến việc phán quyết của toà bỏ qua
một số quy định pháp luật vì yếu tố chính trị nào đó,
như việc bảo vệ Vietinbank khỏi phải bồi thường cho hành vi
lừa đảo của nhân viên mình bởi Vietinbank có đa số vốn nhà
nước.

Phản ứng với những lo ngại này, công chúng đang có biểu
hiện quay lưng lại với toà án. Không ít người đang tìm cách
xử lý tranh chấp thông qua các kênh phi chính thức, đôi khi là
bất hợp pháp. Tự xử, bảo kê, đòi nợ thuê đang nở rộ và
trở thành hiện tượng phổ biến, thay thế vai trò của toà
án.

"Vô phúc đáo tụng đình", câu thành ngữ của người Việt
đôi khi được nêu ra không chỉ để nói đến sự không may
của những ai lỡ có việc phải dính dáng đến toà án, dù
với bất cứ nguyên nhân nào, mà còn hàm ý về một sự may
rủi rất lớn khi phải ra trước công đường. Câu thành ngữ
ấy còn chỉ ra một thực tế lớn hơn: lòng tin của người
dân vào toà án, vào công lý - từ xa xưa - vốn rất giới hạn.
Rào cản tạo ra giới hạn ấy chính là sự thiếu vắng tính
chính danh cho sự tồn tại, hoạt động của toà án hoặc bất
kỳ cơ quan xét xử nào trong lịch sử Việt Nam. Điều này góp
phần giải thích vì sao qua suốt ngàn năm phong kiến, toà án
không tồn tại với tư cách một thiết chế độc lập ở
Việt Nam. Cho đến khi bắt đầu được xây dựng từ cuối
thế kỷ 19 thì toà lúc bị coi là công cụ của chính quyền
thực dân để đàn áp, bóc lột, khi thì được xem là bộ
phận để thực thi nền chuyên chính giai cấp cho đến tận
những năm gần đây.

Đối diện với một lịch sử và tâm lý tiêu cực như vậy,
nếu toà án không biết vun vén xây dựng tính chính danh cho
mình, tiếp tục với thực tế đóng cửa, tham nhũng và áp
đặt thì e là sự tồn tại và vai trò của toà với tư cách
là cơ quan thực thi quyền lực tư pháp, bảo vệ công lý cũng
sẽ bị xem xét.

<strong>Trần Kiên</strong>, nghiên cứu sinh, đại học Glasgow (Anh)

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140706/tran-kien-tinh-chinh-danh-cua-toa-an),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét