Sam Binkey - Kitsch (rởm, sến) là gì?

Kitsch có lẽ là một trong những khái niệm xưa nhất, thô
sượng nhất, và nhòe mờ nhất để diễn tả về nghệ thuật
đại chúng trong các xã hội hiện đại, mặc dù, đồng thời,
nó cũng là khái niệm được hiểu một cách phổ biến nhất
trên toàn thế giới. Xuất hiện lần đầu tiên trong các bài
viết phê phán về văn hóa và xã hội vào thời điểm cuối
thế kỷ 19 nhằm diễn tả cái hiệu ứng của nền tân công
nghiệp hóa đang tác động trên nền văn hóa chung của các
quốc gia phương Tây, khái niệm này, theo dọc thế kỷ, đã thu
vào lòng và mang chở vô số kể những ý nghĩa, đôi khi tương
phản với nhau, trong cách sử dụng . Không thể xác định
được về mặt từ nguyên học một cách chính xác khái niệm
"Kitsch": Một vài ý kiến cho rằng từ " Kitsch" có lẽ
bắt nguồn từ chữ "Keetcheetsya" của Nga, với ý nghĩa
"ngạo mạn và rỗng tuyếch", tuy thế, phần lớn ý kiến
lại cho là khái niệm này xuất hiện lần đầu tiên tại hội
chợ nghệ thuật Munich vào năm 1860, khi từ "kitsch" được
sử dụng để diễn tả những bức tranh giá rẻ hay các
"sketches" [các bức vẽ phác]. (Chữ tiếng Anh do người Đức
phát âm, hay là sự nuốt nguyên âm củ động từ tiếng Đức
"Verkitchen", có nghĩa là "hạ giá").

Các nghệ phẩm Kitsch đã cuốn hút những khiếu thẩm mỹ ngây
thơ (naive) của giai cấp trung lưu mới xuất hiện tại Munich,
theo mẫu đặc trưng của dạng Nouveau rich (giầu xổi), những
kẻ khao khát các đồ vật mà họ cho là dấu hiệu của khiếu
thẩm mỹ cao cấp (high-taste), tuy chẳng hiểu chính xác cái
thẩm mỹ cao cấp ấy là gì. Cũng giống như các khái niệm
"khiêu dâm" (pornography), "nghệ thuật", hay một số khái
niệm trơn trượt khác, Kitsch dễ dàng được hiểu thông qua
thí dụ hơn là qua định nghĩa. Tính chất Kitsch có thể được
thấy thông qua các pho tượng trang trí, đồ nữ trang rẻ tiền
lòe loẹt (chackas), những đồ tạo tác lặt vặt dùng để tỏ
bầy tình cảm, những đồ lưu niệm, và các đồ trang trí, sự
ngây ngô, non nớt kiều trẻ nít, tức những thứ mà, một cách
đơn sơ, tạo ra các ý nghĩa giúp người ta cảm thấy thú vị
hơn với bản thân cũng như thêm yêu đời. Tuy thế, kitsch không
chỉ đơn giản là những dạng thức trang trí, mà thậm chí nó
còn là sự thổi phồng một cách giả tạo tính dễ dãi
(comfort) của trang trí để rồi chuyển hóa thành một sự tỏ
bầy theo kiểu mỹ học "xạo" lạ lùng. Từ đó, có hai khía
cạnh quan trọng của cái Kitsch cần được mô tả: Kitsch chính
là kiểu cách mỹ học độc đáo, nhưng cũng là cái kết quả
của những thay đổi đặc trưng trong môi trường lịch sử và
xã hội. Khi là kết quả của những thay đổi lịch sử Kitsch
được tạo ra nhờ qúa trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, và
sự nổi lên của tầng lớp trung lưu. Khi là một phẩm chất
thẩm mỹ: Kitsch liên gộp mọi tính chất ganh đua nơi các hình
thái cũng như kiểu thức của dạng nghệ thuật cao cấp cùng
sự ỷ lại nhàn nhã và những cách bộc lộ sống sượng ra
những cảm giác phè phỡn về thẩm mỹ. Dưới nhãn quan được
nhìn qua hai khía cạnh này của cáiKitsch, các nguyên nhân lịch
sử và chiều kích mỹ học sẽ được lần lượt xem xét.

Vào khoảng giữa thế kỷ 19, những phát kiến mang tính cơ
giới trong việc sản xuất, phân bố cũng như bán lẻ hàng hóa
thương mại, cùng với xu hướng đô thị hóa đã làm cho những
sản phẩm tạo chế mang mầu sắc văn hóa số đông có thể
tới được với mọi người. Tại Âu châu và Bắc Mỹ, vị
thế bề trên của tầng lớp tăng lữ đã buộc phải chấm
dứt bởi những biến chuyển về mặt kinh tế đã tạo ra một
tầng lớp trung lưu mới mẻ và đông đúc tại các thành
thị.Những nông dân và công nhân truyền thống với niềm tin
vào các hình thái văn hóa có tính chất xưa cũ, quê mùa, và
bản địa đã tìm mua những đồ nữ trang, đồ trang trí, và
các tượng nhỏ lòe loẹt rẻ tiền để trang hoàng cho các căn
phòng của họ nơi thành phố. Với thu nhập đủ xài và thời
gian rỗi đủ để sử dụng, tầng lớp lao động thành thị
mới mẻ này đã cố gắng tìm kiếm sự giải trí và vui chơi
cho mình, nhưng quan trọng hơn cả, là họ đã muốn tạo nên
một vị thế mới cho bản thân họ như những kẻ có văn hóa,
những kẻ thạo đời, thông qua việc trưng khoe cái khiếu thẩm
mỹ của họ đối với những "đồ vật đẹp đẽ". Những
lao động bậc thấp này kéo bầy theo sau những món vật xa xỉ
được tạo sản ra cho khối lượng lớn, đặc biệt, thừơng
là những các sản phẩm xa xỉ giả tác giá rẻ, những món
vật "mỹ thuật" được tạo chế một cách thô vụng và
nhanh tiện để cho giống với những sản vật sang trọng, đẹp
khéo và cao cấp của giới thượng lưu cũ: đồ gỗ mạ vàng,
chuỗi hạt kim cương thủy tinh, đèn nến chạm trổ, tranh giả,
những bản sao của các tượng hay đồ gốm cổ cũng như các
đồ trang hoàng tiền sảnh theo nghĩa tạo ra được thật nhiều
hiệu quả mà không phải tốn quá nhiều tiền bạc hay công
sức. Vào thời điểm các xã hội đang bắt đầu quá trình
công nghiệp hóa, cũng là thời điểm vô số người đang bắt
đầu làm quen với những sản vật của một nền văn hóa đại
chúng mới, Kitsch đã xuất hiện như thể mẫu số văn hóa chung
thấp nhất của xã hội hiện đại, vượt xa mọi sự phân
định của các giai cấp cũ bằng những kỹ năng tiêu thụ mang
tính đại chúng (mass consumption) mới mẻ. Và bởi các nguyên
nhân vừa nêu, sự nổi lên một cách rộng rãi của cái Kitsch
thường bị quy lỗi cho sự xói mòn của "nền văn hóa cao
cấp" (high-culture) có tính chất chuyên tinh (elite), sự tiêu
vong của nền văn hóa dân gian "folk culture" mang tính địa
phương, và sự " đần hóa" (dumbing down) mà các xã hội
hiện đại mang tới.

Sự tràn ngập các đồ vật có tính chất Kitsch, từng bước
một, đã làm thay đổi toàn bộ mọi hành vi định nghĩa bản
thân cái đẹp. Không giống như tầng lớp tinh chuyên truyền
thống, những người thường miệt mài tu dưỡng sự tinh khéo
và rèn luyện kiến thức cũng như tỏ lòng ngưỡng vọng với
những vẻ nét tinh tế của sự bộc lộ nghệ thuật chân
chính, tầng lớp xổi mới không có bất kỳ một khiếu thẩm
mỹ tinh tế nào cả, họ ưa thích những loại nghệ thuật ồn
ã, trực tiếp, và quá trớn. Nơi nghệ thuật chân chính đòi
hỏi những nỗ lực diễn giải, sự tri nhận thông qua kiến
thức, và dâng tặng cho người xem những thách thức hợp đạo
lý và riêng tư, nơi ấy cái Kitsch của dạng nghệ thuật
được sản tạo hướng về đại chúng lại tìm cách sao cho có
thể đến được dễ nhất với số lượng người đông nhất.
Nó tìm ra con đường ngắn nhất, giản tiện và trực tiếp
nhất. Nó thích thú với những phương cách bộc lộ thiên về
quá trớn bằng cách thêm mắm thêm muối các chi tiết và thổi
phồng các hiệu ứng. Về nguyên tắc tạo nên cái đẹp, các
nhà cung ứng Kitsch suy luận theo quy tắc : "càng nhiều càng
ít" (Nguyên văn: more is better) : Tại sao cái đèn treo kia chỉ
có toen hoẻn mấy cái rua thủy tinh trong khi vẫn còn dư ra bao
nhiêu là chỗ để thêm vào những ngọn nến điện hay mấy
thiên thần thạch cao? Tại sao chỉ hài lòng với mấy bức
tượng vệ nữ ở Milo trơ trọi trong đại sảnh trong khi có
thể thắp đèn mầu hồng ở phía sau mấy bức tượng ấy,
tạo ra nhiều ép phê hơn? Tại sao đã vội chấp nhận bức
tranh phong cảnh biển sơ sài bằng sơn dầu kia trong khi có thể
thuê vẽ một cái to hơn nhiều với những ngọn sóng bự tổ
chảng, hải cẩu, với mặt nguyệt mờ tỏ xa xa trên mái lầu
ngói xô lấp lánh ? …

Dạng nghệ phẩm sản tạo hướng về số đông của giai cấp
mới tuyên bố một cách giản đơn về những hiệu ứng mà nó
định tạo ra: "đẹp" (beauty), "lạ" (exotica), "cảm
động" (sentiment).Những dấu nung quen thuộc đóng trên trán
của cái Kitsch là: những cánh đồng nở hoa rực rỡ hay các
khuôn mặt xinh hồng trẻ thơ vv…, thừơng tạo ra phản ứng
thẩm mỹ thẳng căng trong những bút pháp trực tiếp thông qua
sự lạm dụng của chúng đối với thủ pháp thổi phồng,
cường điệu hóa. Tuy nhiên, thậm chí khi cái Kitsch tối đa hóa
các hiệu ứng mỹ học, thì đó cũng là lúc nó bầy tỏ sự
thèm muốn của mình với dạng nghệ thuật cao cấp, bởi việc
tự sử dụng chính những tiêu chuẩn của dạng nghệ thuật cao
cấp ấy để đánh giá mình. Kitschtin rằng bản thân nó mang
theo sự chân chính, sự thanh nhã, và thậm chí, sự sâu sắc –
y như là nghệ thuật cao cấp vậy. Do đó, cái phẩm chất của
hiệu ứng tối đa hóa này trong hình thái của văn hóa cao cấp
đã định nghĩa khía cạnh quan trọng của Kitsch.

Nhưng chưa hết, còn hơn cả sự bất nhã và cường điệu,
những gì làm cho Kitsch trở thànhkitsch còn nằm ở chính sự ỷ
lại của nó vào sự nhàn nhã, "hạnh phúc" và cảm thức
giả tạo về niềm "vui sống". Kitsch trưng khoe ra những
trải nghiệm thừơng nhật mang tính "khoái dễ, nhàn tản và
tiện nghi" cũng như những hình ảnh ấm cúng một cách giả
tạo, sơ sài hóa và được dàn dựng về thế giới, nó thừa
nhận cảm giác dễ dàng và vô tư lự của niềm vui. Kitschđã
đạt tới những khía cạnh kể trên thông qua nhiều phương
cách: như tranh của Norman Rockwell vẽ những thị trấn nhỏ ở
nước Mỹ là một thí dụ, qua đó, cái Kitsch đã được bộc
lộ qua những cảm thức được dàn dựng thể hiện ra những
nỗi ngạc nhiên trong trắng và có vẻ ngốc nghếch trước mọi
con người và sự kiện bình thường, đặc biệt là trước
trẻ thơ, muông thú, cùng những ông bà lão phúc hậu mà đời
sống thừơng nhật của họ được vống lên tới tầm mức
của những đức hạnh tối hậu của con người. Không có chỗ
cho sự mập mờ trong các nhân vật của Rockwell, họ luôn là
những con người đẹp đẽ, và vì thế, khi xem các bức tranh
ấy, người xem đã bị đưa ngay vào dưới một áp lực có
tính trực tiếp và khó lầm lẫn

Kitsch nhắm tới những phản ứng nông dễ nhất mà nó có thể
thu hái, nó thích thú việc đưa người xem trở lại những cảm
xúc nhàn nhã và quen thuộc, hơn là thách thức họ bằng những
gì mới mẻ. Bởi lý do đó, Kitsch luôn khêu gợi sự uỷ mị,
như trong các tác phẩm của Margaret Keane chẳng hạn. Họa sỹ
này rất quen thuộcvới những hình ảnh anh hề với đôi mắt
ướt hay các em thơ với đôi mắt tròn to như trái hạnh. Những
hình hài tràn đầy nhựa sống trong tác phẩm của Keane đã
vắt cạn những phản ứng của chúng ta trước khi chúng ta
biết là chúng ta bị tấn công bởi điều gì. Và những phản
ứng rất mực đơn sơ, sáng sủa, và nỗi hân hoan trắng phớ
ra ấy của chúng ta, đã được bắt nguồn từ những tạo tác
cũng đơn sơ, sáng sủa và hân hoan trắng phớ ra như thế:
những em bé xinh đẹp. Tuy nhiên, với cả hai người, Rockwell và
Keane, khía cạnh cao cấp trong các bức tranh của họ là: cho dù
chủ đề các tác phẩm của họ có vẻ dễ dãi và nông cạn,
chúng hoàn toàn không phải là sự trang trí thuần túy. Chúng là
những sự biểu hiện mang tính nhân bản và chân thành về
những phẩm chất nền tảng của con người, chúng kêu gọi
những sự kính trọng và ngưỡng phục luôn tồn tại trong tâm
hồn tất cả chúng ta đối với tính nhân văn. Theo cách nhìn
này, có vẻ như cáiKitsch xinh xẻo đã tạo nên sự lôi cuốn
tương đương với những giá trị cao cả hơn của vẻ đẹp con
người mà nghệ thuật cao cấp từng tạo ra vậy. Và, một
điều cũng rất quan trọng cho cái Kitsch, đó là phản ứng xu
phụng và đẫm lệ mà những hình ảnh Kitsch yêu cầu từ
người xem đã tạo ra, bằng cách này hay cách khác, một điều
gì như thể sự đoan chính, sâu sắc và nhân bản. Những
người xem bị lừa bẫy vào cảm thức rằng: cái vẻ xinh đẹp
của bức tranh mô tả đời sống thường nhật thôn dã nào
đó, cũng biểu hiện ra những giá trị mang tính bản chất
tương đương với vẻ sống động mà Michaelangelo từng ban cho
bức tượng chàng David

Tất cả những sự quen thuộc và nhàn tản này, được vống
lên tới tầm mức của những tỏ bầy mang tính nghệ thuật
chân thành, rồi được khuếch đại thông qua những hiệu ứng
cường điệu hóa, rồi cuối cùng trở nên nông dễ để rốt
cục – có thể tới được với số lượng người đông đúc
nhất. Nói một cách ngắn gọn, cái Kitsch cố gắng đòn vọt
để lừa chúng ta vào những xúc cảm thẳng tưng và dễ. Chúng
ngụy tạo sự nhàn dễ và uỷ mị thành ra những sự tỏ bầy
mang tính nhân văn thâm thúy hay những ý nghĩa sâu sắc riêng
tư. Kitsch thích trưng khoe ra với chúng ta những gì chúng ta quen
thuộc nhằm bảo vệ chúng ta khỏi nỗi bất an khi phải đối
mặt với một điều gì đó mới lạ.

Nhưng khái niệm Kitsch, tuy thế, lại là một cái khái niệmmang
tính chất nhẹ dạ, biến hóa, và mơ hồ. Nó có thể thích nghi
một cách vô tận với các tình thế lịch sử đặc trưng mà
trong đó nó được sử dụng. Những tình thế khi có sự xuât
hiện của văn hóa đại chúng. So sánh vài cách sử dụng quan
trọng nhất của khái niệm Kitsch này, chúng ta sẽ thấy vì sao
mà một số người lại thích sử dụng khái niệm ấy một
cách mỹ học, trong khi một số người khác lại sử dụng nó
theo chiều kích lịch sử và xã hội.

Nhà văn Áo Hermann Broch đã từng tranh biện về sự phát triển
của cái Kitsch trong thế kỷ 19, và mối liên nối của nó với
chủ nghĩa lãng mạn: cả cái Kitsch lẫn chủ nghĩa lãng mạn
đều hứa hẹn một chuyến bay hiện đại lạ đời từ hiện
thực tới cái thế giới được bảo vệ tách biệt khỏi mọi
trạng thái căng thẳng và lưỡng lự của đời sống hiện
đại. Bài viết của ông"Notes on Problem Kitsch" (Những ghi chú
về vấn đề Kitsch) đã chỉ ra việc cái Kitsch đã ngỏ lời
đường mật ra sao nhằm thuyết phục rằng việc trốn thoát
khỏi hiện thực chính là một trải nghiệm có tính chất mộng
mơ hạnh phúc nhất, yên tĩnh nhất, hài hòa ngọt ngào nhất,
cũng như là một chuyến không du êm ái tới quê hương của sự
nhàn nhã.

Bài viết của Broch đã dò tới gọn nguồn của sự nhàn nhã,
chính là một sản phẩm do những đổi dời lịch sử gây ra:
Tính chất nhàn nhã của cái Kitsch có nguồn gốc từ sự nổi
lên của chính tầng lớp trung lưu đã sản sinh ra Kitsch.
"dạng khiếu thẩm mỹ dành cho sự nhàn nhã kiểu sinh hoạt
gia đình này", Broch viết, "đã trở nên gia huy cho giai cấp
trung lưu, chứng nhận sự hợp pháp của giai cấp ấy, cạnh
tranh với những khát vọng dạng chuyên tinh của nghệ thuật
quý tộc". Theo hướng này, cái giá trị mang tính trung lưu giai
cấp của sự nhàn nhã đó đã được thổi phồng lên đến
tầm mức kiêu mạn, thách thức vị thế của nghệ thuật cao
cấp, vào lúc nó học được cách giả trang thành nghệ thuật
cao cấp.

Vào thế kỷ 20, Kitsch đã được tạo thêm những ý nghĩa mới
bởi những kẻ chỉ trích văn hóa đại chúng, một cách đặc
biệt, các trí thức cánh tả đã sử dụng Kitsch để chỉ
trích nền văn hóa của "xã hội tiêu thu" mới mẻ cũng như
xã hội đại chúng. Với Dwight MacDonald, Irving Howe và những
người khác, Kitsch đã không còn bị ghép tội về sự xói mòn
của nền văn hóa mang tính chất chuyên tinh và bản địa nữa,
mà, thông qua sự thao túng cái ý thức của đám đông, chế
ngự quan điểm tư duy và văn hóa của họ bằng các cuộc rải
thảm bom Kitsch với truyện tranh, radio, các chươnh trình TV, và
phim ảnh, trưng khoe ra những quan điểm xã hội mỹ học và
tình cảm giả tạo. Coi những người trưởng thành như trẻ
nít, cái Kitsch mới điểu khiển đám đông một cách dễ dàng
hơn thông qua việc thiểu hóa nhu cầu văn hóa của đám đông
thành ra sự thỏa mãn dễ dãi chỉ với phim hoạt hình Disney,
văn chương ba xu, và các tiều thuyết lãng mạn.

MacDonald từng viết: "Những lãnh chúa của Kitsch, nói một
cách ngắn gọn, đã khai thác nhu cầu văn hóa của đám đông
để kiếm lời cũng như (hoặc) để duy trì luật lệ của giai
cấp họ." Với một số bình luận gia của thập kỷ 50, viết
lách trong thời cực thịnh của lý thuyết văn hóa đại chúng,
dường như cái sách lược mang tính tuyên truyền từng phục
vụ rất tốt cho chủ nghĩa Phát xít cũng như chủ nghĩa Cộng
sản cũng đang hoạt động trong cái Kitsch của chủ nghĩa Tư
bản Mỹ và văn hóa đại chúng, hút cạn óc não của khách
hàng để rồi thay thế vào đó sự tuân phục vô điều kiện
trước uy quyền. Thậm chí có bình luận gia từng tin rằng tính
tàn bạo cũng chính là hiệu ứng của Kitsch khi so sánh thái
độ khùng khùng và bạo lực của vịt Donald với những hành
động tàn ác của quân đội Mỹ.

Kitsch cũng còn là bị cáo trước những quan tòa bảo vệ cho
văn hóa tiền phong (avant-garde), mà vị quan tòa nổi tiếng nhất
phải kể đến là Clement Greenberg, với bài viết kinh điển
"Avant Garde and Kitsch" (Tiền phong và Rởm), một trong những
bài viết xuất sắc nhất về chủ đề này. Greenberg, với mục
đích biện biệt giữa cái tiền phong và cái văn hóa bình dân
đại chúng, đã làm làm nhục cái Kitsch khi chỉ ra phẩm chất
ký sinh ma cà rồng của nó vào lúc nó rình cắn hút sinh huyết
từ công sức của các nghệ sỹ chân chính cũng như nuôi giữ
đám đông trong trạng thái u mê và mơ hồ về văn hóa. Với
Greenberg, cái Kitsch đã chính là "mẫu mực cho tất cả những
gì giả mạo trong đời sống mọi thời đại của chúng ta."

uy nhiên, mọi lý lẽ phê phán Kitsch lại đều buộc phải đặt
bản lề trên cái giả định về chất lượng mang tính khách
quan của khiếu thẩm mỹ giữa cái Kitsch và cái phản Kitsch.
Người ta không thể mặc nhiên gọi một cái gì đó là Kitsch,
nếu ngay lúc ấy, không ngầm giả định rằng, có một tiêu
chuẩn về cái đẹp mang tính phổ quát ở đâu đó, sẽ đối
nghịch hoàn toàn lại với cái mà họ đang buộc tội là Kitsch.
Vào thời điểm kết thúc thế kỷ 20, cùng với cường độ
ngày càng tăng của sự nhấn mạnh vào tính đa dạng văn hóa,
và sự thừa nhận mang mầu sắc "hậu hiện đại" đối
với mọi tiêu chuẩn tương đối của cái đẹp trong các xã
hội khác nhau, tiêu chuẩn khách quan của khiếu thẩm mỹ phổ
quát đã không còn dễ dàng nhận diện được nữa.Trong khí
quyển của chủ nghĩa đa văn hóa và thuyết tương đối văn
hóa, cái danh từ Kitschtheo nghĩa là một khái niệm diễn tả
trạng thái muôn mầu muôn vẻ mang tính thấp kém cố hữu của
nghệ thuật và văn hóa đã dường như đã không còn lý do
chính đáng để tồn tại. Và bởi thế, trong rất nhiều lý
thuyết phê phán văn hóa cuối thế kỷ 20, Kitsch đã không còn
được sử dụng. Một cách nào đó, vào cuối thập niên 90, khi
sự say sưa với cái Camp (bóng)(1) - tức sự thưởng thức mang
mầu sắc châm biếm với cái kitsch, và khác biệt hẳn với cái
Kitsch - đã thay thế Kitsch, định nghĩa cho khiếu thẩm mỹ của
nền văn hóa bình dân, thì việc tiếp tục sử dụng khái niệm
Kitsch theo kiểu cổ điển dường như đã trở nên rất khó
được chấp nhận.

Những nhà "khảo cứu văn hóa" khi tiếp cận với văn hóa
bình dân, đã từ khước khái niệmKitsch này, ít nhất trong
những cách sử dụng theo nghĩa xấu và mô phạm từng được
hình thành trong thế kỷ 19 do các lý thuyết gia nghiên cứu văn
hóa đại chúng.

Tuy nhiên, Kitsch đã không chịu biến mất mà đã xuất hiện
trở lại trong một số bài viết mang tính sáng tạo. Cái thế
giới đóng khép, khéo xảo của Kitsch, cùng cảm thức mơ mộng
dễ thương và vui sống đã hứa hẹn những phân tích văn hóa
hóc búa, ngay cả khi cái Kitsch đã hết còn bị ràng buộc vào
bởi những lời kết tội đanh thép ở khía cạnh giá trị mỹ
học hay ở khía cạnh là cái công cụ để chế ngự đám
đông. Hai bài viết nổi bật về Kitsch tron giai đoạn mới.
Một là: đoạn văn trong cuốn "Đời nhẹ khôn kham" [the
Unbearable Lightness of Being] của Milan Kundera, trong đó ông biện
giải về cái Kitsch của xã hội cộng sản, thông qua sự vống
lên những niềm hân hoan tạo chế của cảm giác chứa chan tình
cảm kiểu vô thức tập thể trong đời sống xã hội cũng như
tình đồng chí thân thiện gượng ép của những người cùng
phe nhóm. Khía cạnh thứ hai đen tối hơn của cái Kitsch lại
được phát hiện bởi Saul Friedlaner trong bài viết của ông:
"Những suy tư về chủ nghĩa quốc xã: tiểu luận về cái
rởm và sự chết chóc" [Reflections of Natzism: an Essay on Kitsch
and Death]. Trong bài tiểu luận đó, Friedlander đã vạch trần ra
những phương cách mà trong đó cái Kitsch của chủ nghĩa quốc
xã (trong kiểu dạng hoàn toàn khác với những hình thái chuẩn
của cái kitschmang tính giải trí của chủ nghĩa tư bản) kích
thích niềm đam mê bệnh hoạn đối với sự chết chóc thông
qua hình ảnh thống thiết trong những cái chết bi hùng của các
chiến binh.

Thật ra là, khi thoát khỏi những nhà ngục tinh chuyên (elitist),
Kitsch đã trở thành một khái niệm mạnh mẽ diễn tả trạng
thái mê ngất lạ lùng của sự nguỵ chế (synthetic), đặc
trưng cho văn hóa tiêu dùng vào thời đểm kết thúc thế kỷ
20.

(1)Camp (bóng): Cái cảm giác mê thích sự xảo khéo, sự kiểu
cọ, sự sân khấu hóa, sự châm biếm, sự khôi hài và sự
cường điệu hóa quá trớn, như cái định nghĩa nổi danh của
Susan Sontag về khái niệm này trong bài viết "Notes on Camp"
của bà. Theo Sontag "cảm thứcCamp mang tính chất rỗng, giải
trính trị hóa, hay ít nhất: phi chính trị." Tuy nhiên, một
vài nhà hậu hiện đại, nữ quyền luận, và các lý thuyết gia
đã lại tìm ra những cách thế mà cáiCamp có thể gây sự với
niềm tin về sự chia giống mang tính định mệnh và hằng hữu
chống lại mọi dạng thức tình dục lệch lạc. Như Sontag
biện luận, "Không phải tất cả những người đồng tính
luyến ái đều có cái khiếu thẩm mỹ kiểu Camp. Nhưng những
người đồng tính luyến ái ấy, nhìn chung, đều có cảm thức
làm quá lên (vanguard) và đều là những công chúng rất mạch
lạc của cái Camp." Bằng thói cầu kỳ hóa rất riêng mang
mầu sắc tình dục một cách cường điệu, cái cảm thức Camp
đồng bóng lạ lùng ấy được coi là luôn mang chở theo những
thái độ có tính trình diễn.

Camp cũng được gắn chặt với chủ nghĩa hậu hiện đại. Như
Sontag đã viết "cái Camp đặt tất cả mọi sự vật vào trong
dấu ngoặïc kép. Không phải là nguồn sáng mà là "nguồn
sáng", không phải là đàn bà mà là "đàn bà". Nhìn theo
cách này, thuật ngữ Camp gợi nhớ tới cách hiểu vô cùng quen
thuộc của Linda Hutcheon về cái sự biếm phỏng mà Hucheon coi
như thể một trong những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của
nghệ thuật hậu hiện đại.

Mối liên hệ của cái (tính chất) Camp với cái (tính chất)
Kitsch là rất mật thiết. Camp có thể được coi là cái bản
ngã tự ý thức của Kitsch. Khi Sontag viết "Rất nhiều ví dụ
của Camp đều chỉ vào những sự vật mà, từ quan điểm
nghiêm túc, đều không phải là cả dạng nghệ thuật tồi (Bad
Art) lẫn Kitsch. Chính lúc đó có lẽ Sontag cũng đã thừa nhận
rằng "có vài dạng nghệ thuật được coi như mang tính chất
Camp…xứng đáng cho mọi khảo sát và ngưỡng vọng nghiêm
túc". Sontag cũng phân biệt giữa cái "Camp thuần
khiết"(Pure Camp) – cái đã lên tới mức của Kitsch, cái mà
giờ đây chúng ta có thể nhận ra như là sự hài hước (nói
một cách khác, cái Camp này nằm ở phía công chúng thưởng
ngoạn, chứ không nằm ở phía tác giả), và cái "Camp tự
biết mình là Camp" do đó, tự hài lòng với bản thân.

<div class="rightalign"><strong>Sam Binkey
Nguyễn Như Huy</strong> dịch</div>

<div class="rightalign">Nguồn: Facebook Nguyen Nhu Huy</div>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140715/sam-binkey-kitsch-rom-sen-la-gi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét