Nguyễn Minh Thuyết - Những bất cập trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về báo chí

<div class="boxleft320"><img
src="http://www.danluan.org/files/u5219/20111005163732_gsnguyenminhthuyet.jpg"
width="480" height="320" alt="20111005163732_gsnguyenminhthuyet.jpg" /><div
class="textholder">Gs Nguyễn Minh Thuyết</div></div><strong>1</strong>.
Theo Chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội khóa XII,
năm 2008, Chính phủ đã chuẩn bị dự thảo Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Báo chí; Ủy ban Văn hóa,
Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội
đã hoàn thành Báo cáo kết quả giám sát việc thi hành Luật
Báo chí và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí để trình ra Quốc hội.

Tuy nhiên, do Chương trình thay đổi, các văn bản nói trên không
được trình, mặc dù sau nhiều năm thực hiện, Luật Báo chí
và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) về báo chí
nói chung đã bộc lộ nhiều bất cập so với tình hình mới.

Báo cáo này trình bày về những bất cập đó để làm rõ nhu
cầu sửa đổi Luật Báo chí.

<strong>2</strong>. Bất cập cần được quan tâm trước
tiên là các QPPL về báo chí được quy định trong quá nhiều
văn bản.

Luật Báo chí hiện hành chỉ điều chỉnh hành vi của cơ quan
báo chí và nhà báo Việt Nam, còn hoạt động thông tin - báo
chí của cơ quan báo chí nước ngoài và phóng viên nước ngoài
được quy định bằng một nghị định độc lập (thường
gọi là "nghị định không đầu") của Chính phủ.

Những hiện tượng mới xuất hiện như trang tin điện tử và
những hình thức thông tin khác trên mạng; hoạt động liên
kết giữa cơ quan báo chí với tổ chức khác để sản xuất
chương trình phát thanh - truyền hình; dịch vụ truyền hình
trả tiền v.v… cũng do các nghị định độc lập của Chính
phủ hoặc thông tư của Bộ Thông tin và Truyền thông, thông tư
liên Bộ quy định.

Theo thống kê chưa đầy đủ, hiện có tới 50 VBQPPL trong lĩnh
vực này. Đó là chưa kể các văn bản chỉ đạo của Bộ
Chính trị, Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương và VBQPPL, văn
bản chỉ đạo của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.

Hầu hết các VBQPPL về báo chí đều đã được kiểm nghiệm
qua thực tế áp dụng, nay có thể xem xét để hợp nhất vào
Luật Báo chí, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà quản lý,
nhà báo và người dân theo dõi và thi hành pháp luật.

Văn bản có thời gian kiểm nghiệm thực tế lâu nhất, tới
gần 20 năm, là Quy chế quản lý hoạt động thông tin, báo chí
của phóng viên nước ngoài, các cơ quan, tổ chức nước ngoài
tại Việt Nam được ban hành theo Thông tư liên bộ số
84-TTLB-BVHTT-BNG ngày 31/12/1996 và được thay thế bằng Nghị
định 88/2012/NĐ-CP ngày 23/10/2012 với nội dung tương tự. Các
quy định này nên được đưa thành một bộ phận của Luật
Báo chí, vì chỉ trừ quy định phóng viên nước ngoài phải có
giấy phép hoạt động thông tin - báo chí và thẻ phóng viên
nước ngoài do Bộ Ngoại giao cấp, quyền tác nghiệp của phóng
viên nước ngoài về cơ bản không khác so với nhà báo Việt
Nam. Thậm chí, họ còn được những quyền mà một nhà báo
Việt Nam bình thường khó có được, như quyền quy định ở
khoản 2 Điều 13: "Đối với các yêu cầu tiếp xúc, phỏng
vấn lãnh đạo các Bộ, ban, ngành của Việt Nam, Văn phòng
thường trú gửi 01 bộ hồ sơ đề nghị trực tiếp, qua bưu
điện hoặc fax đến các Bộ, ban, ngành liên quan, đồng thời
thông báo cho Bộ Ngoại giao. <em>Trong thời hạn 05 ngày làm
việc kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị, các Bộ, ban,
ngành có trách nhiệm trả lời Văn phòng thường trú bằng văn
bản." </em>Trong quan hệ quốc tế thời hội nhập, chúng ta
không nên giữ mãi tình trạng phân biệt nhà báo Việt Nam, nhà
báo nước ngoài bằng những VBQPPL khác nhau. Vả lại, VBQPPL
chỉ điều chỉnh được hành vi của văn phòng đại diện và
phóng viên thường trú, phóng viên không thường trú, phóng viên
tháp tùng đoàn đại biểu nước ngoài trên lãnh thồ Việt Nam,
không điều chỉnh được những hoạt động xuyên biên giới
bằng các phương tiện truyền thông như phỏng vấn qua điện
thoại, thư điện tử và các hình thức truyền hình trên mạng
internet.

Ngoài Quy chế quản lý hoạt động thông tin, báo chí của phóng
viên nước ngoài, các cơ quan, tổ chức nước ngoài tại Việt
Nam, các VBQPPL khác trong lĩnh vực báo chí - thông tin - internet
cũng đã được ít nhiều kiểm nghiệm trong thực tế. Quy
định về việc liên kết trong hoạt động sản xuất chương
trình phát thanh, truyền hình được ban hành từ ngày 28/5/2009
theo Thông tư số 19/2009/TT-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền
thông. Các văn bản khác đa phần được ban hành trong năm 2011,
ví dụ: Quy chế quản lý hoạt động truyền hình trả tiền
được ban hành từ ngày 24/3/20011 và được sửa đổi, bổ sung
bởi Quyết định 18a/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 29/3/2013; Quy định chi tiết việc cấp giấy phép hoạt
động báo chí điện tử, giấy phép chuyên trang báo chí điện
tử được ban hành theo Thông tư số 33/2011/TT-BTTTT ngày 1/11/2011
của Bộ Thông tin và Truyền thông. Theo tôi, cũng đã đến lúc
hợp nhất những quy định đó vào Luật Báo chí.

Theo Chương trình xây dựng pháp luật năm 2015 của Quốc hội,
Chính phủ đang chuẩn bị dự thảo Luật Ban hành VBQPPL (hợp
nhất, sửa đổi). Theo dự thảo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội
sẽ chỉ ban hành pháp lệnh, nghị quyết trong trường hợp
được Quốc hội ủy quyền. Trên tinh thần đó, nhiều ý kiến
cũng đề nghị Chính phủ chỉ ban hành các VBQPPL hướng dẫn
thi hành những điều được giao trong luật, không ban hành các
nghị định độc lập nữa. Nếu vậy thì việc hợp nhất các
QPPL tại các nghị định độc lập vào Luật Báo chí càng trở
nên cần thiết.

<strong>3</strong>. Bất cập thứ hai là quy định trong
một số VBQPPL về báo chí chưa phù hợp với thực tiễn hoạt
động báo chí. Cụ thể như sau:

<strong>3.1</strong>. Để thực hiện quy định về nhiệm
vụ và quyền của báo chí tại Điều 6 Luật Báo chí, đặc
biệt là "thông tin trung thực về tình hình trong nước và
thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân
dân", "đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật
và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác", báo chí phải
được quyền tiếp cận thông tin một cách kịp thời, đầy
đủ và chính xác. Điều 7 của Luật quy định: "Trong phạm vi
quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có quyền và
nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông
tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về nội dung thông tin." Từ quy định có tính nguyên tắc của
Luật, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế về chế độ
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương (theo Quyết định số
77/2007/QĐ-TTg ngày 28/05/2007). Theo Quy chế này, cơ quan hành chính
nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin định kỳ cho báo
chí, Đồng thời, "người phát ngôn có trách nhiệm phát ngôn
và cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí trong các
trường hợp […] xảy ra vụ việc cần có ngay ý kiến ban
đầu của cơ quan hành chính thì người phát ngôn có trách
nhiệm chủ động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí trong
thời gian chậm nhất là hai (02) ngày, kể từ khi vụ việc xảy
ra […]; khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan chỉ đạo, quản lý
nhà nước về báo chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp
thông tin về các sự kiện, vấn đề của cơ quan, lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý của cơ quan được nêu trên báo chí."
(Điều 4 Quy chế).

Tuy nhiên, trên thực tế, việc báo chí tiếp cận thông tin,
tiếp cận với người phát ngôn thường gặp nhiều khó khăn.
Trước hết, vì người phát ngôn có thể lấy lý do những
điều báo chí hỏi là "vấn đề thuộc bí mật nhà nước;
những vấn đề bí mật thuộc nguyên tắc và quy định của
Đảng; những vấn đề không thuộc quyền hạn phát ngôn"
hoặc là "văn bản chính sách, đề án đang trong quá trình
soạn thảo mà theo quy định của pháp luật chưa được cấp
có thẩm quyền cho phép phổ biến, lấy ý kiến rộng rãi trong
xã hội" (khoản 3 Điều 5) để từ chối phát ngôn hoặc cung
cấp thông tin. Thứ hai, người phát ngôn thường là thủ
trưởng cơ quan hoặc giữ trọng trách trong cơ quan nên bận
họp hành, đi công tác, báo chí tiếp cận không dễ dàng. Không
hiếm trường hợp người phát ngôn chỉ nắm được những
thông tin chung chung nên cũng không giúp làm sáng tỏ sự việc
được bao nhiêu. Những người khác am hiểu sự việc không dám
phát ngôn hoặc cung cấp thông tin cho báo chí vì sợ trách
nhiệm được quy định rất nghiêm khắc tại khoản 4 Điều 2:
"Các cá nhân của cơ quan hành chính nhà nước không được
giao nhiệm vụ phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí thì
không được nhân danh cơ quan hành chính nhà nước để phát
ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí; không được tiết lộ bí
mật điều tra, bí mật công vụ, thông tin sai sự thật, không
trung thực khi cung cấp thông tin cho báo chí."

<strong>3.2</strong>. Ở nước ta, báo chí không chỉ là
"cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội" mà còn là "diễn đàn của nhân
dân" (Điều 1 Luật Báo chí). Để báo chí thực hiện vai trò
"diễn đàn của nhân dân", Điều 5 Luật Báo chí quy định:
"Cơ quan báo chí có trách nhiệm: 1. Đăng, phát sóng tác phẩm,
ý kiến của công dân; trong trường hợp không đăng, phát sóng
phải trả lời và nêu rõ lý do; 2. Trả lời hoặc yêu cầu tổ
chức, người có chức vụ trả lời bằng thư hoặc trên báo
chí về kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân gửi
đến.". Thực tế cho thấy quy định này không có tính khả
thi và hầu như cơ quan báo chí nào cũng vi phạm. Báo chí không
thể đăng hoặc phát sóng mọi tác phẩm, ý kiến của công
dân, đồng thời cũng không có khả năng trả lời từng công
dân và nêu rõ lý do không đăng hoặc phát sóng tác phẩm, ý
kiến của họ. Nói riêng về đơn thư khiếu nại, tố cáo thì
hiện nay, số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo của công
dân gửi đến các báo là rất lớn. Người dân thường phô tô
các đơn thư khiếu nại, tố cáo gửi cho nhiều cơ quan báo chí
cùng một lúc. Nếu các cơ quan báo chí không chọn lọc mà
đăng tải hoặc phát sóng toàn bộ thì vừa trùng lặp thông tin
vừa làm tăng trang báo, tăng thời lượng phát sóng một cách
không hợp lý. Vả lại, báo chí cũng không thể đăng hoặc
phát sóng các ý kiến khiếu nại, tố cáo chưa qua điều tra,
xác minh. Trong khi đó, cơ quan báo chí không có đủ biên chế
và điều kiện để điều tra, xác minh vụ việc theo đơn thư
của tất cả công dân. Thông thường, cơ quan báo chí chỉ có
thể làm công văn chuyển đơn của công dân đến cơ quan hữu
quan xử lý.

<strong>3.3</strong>. Một trong những điểm được đánh
giá cao trong Luật Báo chí hiện hành là quy định cơ quan báo
chí phải cải chính, xin lỗi khi "thông tin sai sự thật, xuyên
tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân
phẩm của cá nhân"; "lời cải chính, xin lỗi của cơ quan
báo chí, của tác giả và lời phát biểu của tổ chức, cá
nhân […] phải được đăng, phát sóng tương xứng với thông
tin do báo chí đã đưa ra" (Điều 9 Luật Báo chí). Tuy nhiên,
quy định cụ thể tại Khoản 4 Điều 3 Quy chế cải chính trên
báo chí ban hành kèm theo Quyết định số 03/2007/QĐ-BVHTT ngày 07
tháng 02 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin:
"Thông tin cải chính, xin lỗi, văn bản kết luận, ý kiến
phát biểu phải được đăng, phát đúng vị trí, đúng chuyên
mục, đúng số trang với cùng một kiểu, cỡ chữ (đối với
báo in, báo điện tử), đúng chuyên mục, giờ phát sóng, số
lần phát sóng (đối với báo nói, báo hình) mà báo chí đã
đăng, phát thông tin." rất khó thực hiện. Vả lại, trừ tổ
chức, cá nhân bị đưa tin sai, bị xúc phạm quan tâm đến
việc này, độc giả nói chung ít có điều kiện theo dõi liên
tục để biết sự việc đã được báo chí cải chính, tổ
chức, cá nhân bị xúc phạm đã được báo chí xin lỗi. Theo
kinh nghiệm của Vương quốc Anh, nhiều báo in ở nước này
dành hẳn 1 trang hoặc phần của trang báo cố định để chuyên
đăng tải những lời cải chính, xin lỗi. Một số báo lớn có
hẳn biên tập viên đảm nhiệm vai trò quan hệ công chúng để
xử lý toàn bộ thư khiếu nại của độc giả, kết luận
thông tin báo đã đưa là đúng hay sai và cải chính, xin lỗi khi
thông tin sai sự thật hoặc xúc phạm tổ chức, cá nhân. Biên
tập viên quan hệ công chúng này làm việc độc lập, chịu
trách nhiệm về kết luận của mình, bài đăng kết luận đó
không cần thông qua tổng biên tập và được dành hẳn một
trang riêng cho độc giả dễ theo dõi. Bên cạnh đó, từ sáng
kiến của một số chủ báo lớn, các báo in còn thống nhất
lập ra Ủy ban Khiếu nại báo chí làm trọng tài giải quyết
khiếu nại của độc giả. Kết luận của Ủy ban được các
báo tự nguyện đăng tải và thực hiện. Trong trường hợp
này, sự tự quản của tổ chức xã hội dân sự tỏ ra hiệu
quả, vì các báo cũng không muốn Nghị viện hoặc Chính phủ
phải can thiệp bằng pháp luật. Đối với hệ thống phát
thanh, truyền hình, cơ quan xử lý khiếu nại thuộc Nhà nước,
vì quyền lựa chọn của thính giả, khán giả trong lĩnh vực
này hạn chế hơn là trong lĩnh vực báo in (độc giả thích thì
mua báo, không thì thôi), Nhà nước phải đứng ra bảo vệ
quyền lợi của người dân. Đây là một số kinh nghiệm nên
được tham khảo khi sửa đổi Luật Báo chí.

<strong>3.4</strong>. Cho đến nay, các văn bản chỉ đạo
của Đảng cũng như các VBQPPL của Nhà nước đều không thừa
nhận báo chí tư nhân. Chỉ thị số 37 CP ngày 29/11/2006 của
Thủ tướng Chính phủ còn khẳng định: "Kiên quyết không
để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức".

Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong một nền kinh tế chuyển
đổi từ mô hình tập trung sang mô hình thị trường, quy định
này rất khó thực hiện.

Do thay đổi cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước, một số cơ
quan cấp tổng cục đã chuyển thành tập đoàn kinh tế hoạt
động theo mô hình doanh nghiệp như Tập đoàn Công nghiệp
than và khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp cao su
Việt Nam, Tổng công ty Hàng không dân dụng Việt Nam, Tập
đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam,…. Những doanh nghiệp
này cho đến nay vẫn tiếp tục xuất bản những ấn phẩm
báo chí chuyên ngành của cơ quan nhà nước trước đây.

Một số cơ quan báo chí như Đài Truyền hình kỹ thuật số
VTC, Báo điện tử VNMedia và Báo điện tử VietNamNet thực chất
do các doanh nghiệp nhà nước là Tổng công ty Truyền thông đa
phương tiện VTC, Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông Việt Nam
thành lập. Thậm chí VnExpress do một doanh nghiệp tư nhân là FPT
thành lập, hiện thuộc sự quản lý của Bộ Khoa học và Công
nghệ.

Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ,
hiện có hơn 80 trường đại học tư thục, trường đại học
có vốn đầu tư nước ngoài và hàng chục viện, trung tâm
nghiên cứu do tư nhân thành lập. Các đơn vị này đều có nhu
cầu ra tạp chí, tập san để thông tin về hoạt động của
mình, công bố và trao đổi về kết quả nghiên cứu của mình.
Việc không cho phép các đơn vị đó ra tạp chí, tập san vừa
không phù hợp với thông lệ quốc tế vừa không tạo điều
kiện khuyến khích sáng tạo khoa học - công nghệ.

Nhưng có một thực tế đáng quan tâm nhất đang diễn ra hiện
nay là ngày càng có nhiều cơ quan báo chí liên kết với tổ
chức, cá nhân ra các ấn phẩm phụ của báo in, sản xuất các
chương trình, kênh giải trí trên đài phát thanh, truyền hình.
Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số
19/2009/TT-BTTTT ngày 28/5/2009 ngày 28/5/2009 để điều chỉnh việc
liên kết này, nhưng Thông tư 19 mới chỉ điều chỉnh hoạt
động sản xuất chương trình phát thanh, truyền hình, chưa
điều chỉnh được các hoạt động liên kết khác.

Luật Báo chí hiện hành cũng bỏ qua một hiện thực là hiện
có hàng nghìn trang tin điện tử của các cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, doanh nghiệp, trường học, bệnh viện,… và
một số lượng lớn blog cá nhân trên website không kiểm soát
được. Nhiều trang tin điện tử, blog không chỉ đưa lên mạng
những thông tin riêng của tổ chức, cá nhân sở hữu chúng mà
còn cung cấp cho người đọc tin tức từ nhiều nguồn khác nhau
và trình bày quan điểm riêng về nhiều vấn đề thời sự
không khác gì một tờ báo điện tử. Với xu hướng hội tụ
các loại hình thông tin trên hệ thống mạng hiện nay, để xem
chương trình truyền hình, truy cập các trang tin điện tử, blog
và thụ hưởng các loại dịch vụ có nội dung được số hóa
khác, người ta chỉ cần một chiếc máy vi tính, thậm chí một
máy điện thoại di động. Hội tụ thông tin cùng với những
biến đổi về tâm lý xã hội đã làm thay đổi mô hình thông
tin truyền thống, thay đổi sự phân bố số lượng độc giả
- thính giả - khán giả theo hướng ngày càng ít người đọc
báo in, đọc báo, nghe đài, xem truyền hình "nhà nước", số
người đọc, viết blog, giao lưu trên các mạng xã hội ngày
càng tăng lên. Tình hình này đang đặt ra nhiều vấn đề phải
giải quyết trong hoạt động quản lý nhà nước về thông tin
và truyền thông. Đã đến lúc chúng ta phải có cách ứng xử
thích hợp hơn là khăng khăng không chấp nhận báo chí tư nhân
và đặt mọi hoạt động thông tin không do báo chí "nhà
nước" thực hiện ra ngoài Luật Báo chí.

Theo quan sát của tôi, ở các nước phát triển, báo chí chủ
yếu là của tư nhân, tuy rất đa dạng về quan điểm, phong
cách nhưng đều tuân thủ các quy định của pháp luật, trước
hết là quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Dân sự.
Những hành vi đưa tin sai sự thật, xúc phạm tổ chức, cá
nhân, vi phạm pháp luật có thể dẫn đến những án phạt rất
nặng, thậm chí dẫn đến phá sản là điều mà không một nhà
báo hay chủ báo nào không sợ. Chúng ta cần tìm hiểu sâu hơn
về kinh nghiệm quản lý báo chí của các nước này để giải
quyết đúng đắn vấn đề báo chí tư nhân, không để nước
ta luôn bị coi là một trong số ít nước thiếu cởi mở với
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Về cơ sở pháp lý, thực ra, việc thừa nhận báo chí tư nhân
không những không trái mà còn phù hợp với quy định tại
Điều 1 Luật Báo chí hiện hành: "Báo chí ở nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại
chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội ; là cơ quan
ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức) ; là
diễn đàn của nhân dân." Với quyền tự do ngôn luận, tự
do báo chí được quy định trong Hiến pháp và trong Luật Báo
chí, công dân có quyền lập diễn đàn của mình dưới nhiều
hình thức – hoặc tham gia trao đổi các vấn đề kinh tế - xã
hội trên các cơ quan ngôn luận của tổ chức Đảng, cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội, hoặc thành lập diễn đàn của
mình và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động
của diễn đàn. Trước một việc sớm muộn cũng diễn ra, chủ
động nghiên cứu, ban hành QPPL để điều chỉnh sẽ tốt hơn
là ứng phó một cách thụ động.

<strong>3.5</strong>. Trong khi giữ thái độ dè dặt, chỉ
chấp nhận sự tham gia của tư nhân vào hoạt động báo chí
dưới hình thức liên kết với cơ quan báo chí "nhà nước",
Luật Báo chí và các VBQPPL về báo chí lại mở cửa khá rộng
với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội các cấp. Theo Báo cáo
số 44/BC-TTTT ngày 26/7/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông,
tính đến ngày 31/12/2013, cả nước đã có 838 cơ quan báo chí,
trong đó có 199 cơ quan báo in, 639 tạp chí, với 1111 ấn phẩm.
Riêng về báo chí điện từ có 90 cơ quan báo điện tử, 207
trang thông tin điện tử tổng hợp của cơ quan báo chí. Về
phát thanh, truyền hình, cả nước có 67 đài phát thanh, truyền
hình, trong đó nhiều "đài" có đủ các loại hình báo nói,
báo hình, báo in, tạp chí, báo điện tử. Một số địa
phương còn tổ chức đài phát thanh - truyền hình cấp huyện.

Sự phát triển của báo chí thể hiện tác động tích cực
của Luật Báo chí trong cuộc sống. Tuy nhiên, sự phát triển
quá nhanh số lượng cơ quan báo chí và đội ngũ nhà báo
trong khi vẫn duy trì chế độ bao cấp về xuất bản và phát
hành đang đặt ra những vấn đề bức xúc cần được điều
chỉnh kịp thời. Đại bộ phận báo, đài hiện nay vẫn
được Nhà nước bao cấp toàn bộ hoặc một phần về
nhân sự, trụ sở, trang thiết bị, chi phí in ấn và được
phát hành tới các đơn vị hành chính, các tổ chức chính
trị, xã hội cũng bằng ngân sách nhà nước; số cơ quan báo
chí tự cân đối thu chi chỉ vào khoảng trên dưới 10 đơn vị
và cũng chỉ đối với khoảng vài chục ấn phẩm báo chí;
chỉ một vài đài phát thanh - truyền hình có thính giả, khán
giả thường xuyên. Có thể nói đây là hậu quả của chính
sách bao cấp tràn lan, thiếu quy hoạch hợp lý trong một thời
gian dài, gây lãng phí lớn về thời gian, công sức và tiền
của, cần sớm được khắc phục.

Tôi ủng hộ ý kiến trong Báo cáo kết quả giám sát của Ủy
ban VHGDTNTN&NĐ là, trong tương lai, trừ một số ít cơ quan báo
chí chủ chốt, các cơ quan báo chí hoạt động theo mô hình sự
nghiệp có thu cần đảm bảo cân đối thu chi; các cơ quan báo
chí hoạt động theo mô hình doanh nghiệp kinh doanh có điều
kiện cần thực hiện nghĩa vụ tài chính với Nhà nước như
các doanh nghiệp khác. Trước sức ép về tài chính, các bộ,
ngành, địa phương, tổ chức,... sẽ phải sắp xếp lại cơ
quan báo chí của mình phù hợp với yêu cầu và khả năng của
mình, mà không cần một quy hoạch sau hàng chục năm xây dựng
đến nay vẫn chưa ban hành được và giả sử có được ban
hành cũng là đã muộn và khó tránh khỏi áp đặt chủ quan.
Bên cạnh đó, Luật Báo chí (sửa đổi) cũng nên quy định về
hoạt động của tổ chức truyền dẫn, phát sóng phát thanh,
truyền hình, điện tử để tách bộ phận này khỏi các đài
phát thanh - truyền hình địa phương không có tiềm lực kinh
tế mạnh, thu gọn đầu mối, tránh tình trạng lãng phí do các
đài chồng lấn sóng và đài nào cũng phải liên tục nâng cấp
trang thiết bị như hiện nay.

<strong>3.6</strong>. Trong lần sửa đổi Luật Báo chí
tới đây, cũng cần xem xét lại quy định về lưu chiểu. Theo
quy định tại khoản 1, Điều 40, báo in phải nộp lưu chiểu
trước 2 giờ kể từ thời điểm phát hành. Quy định này rất
khó thực hiện vì báo thường phát hành từ sáng sớm,
cơ quan nhận lưu chiểu không có điều kiện nhận báo đúng
thời gian theo luật định và cũng không thể tổ chức đọc
trước khi báo phát hành.

<strong>4</strong>. Bất cập thứ tư là Luật Báo chí và
VBQPPL về báo chí hiện hành dù đã bao quát được khá đầy
đủ các nội dung quản lý nhưng vẫn còn một số vấn đề
chưa được quy định hoặc quy định thiếu cụ thể, cần
được bổ sung trong lần sửa đổi này:
<strong>4.1</strong>. Trước hết, cần bổ sung những quy định
liên quan đến tổ chức báo chí như hồ sơ đề nghị cấp
giấy phép thành lập cơ quan báo chí; thủ tục giải thể cơ
quan báo chí; hoạt động xã hội của cơ quan báo chí.

<strong>4.2</strong>. Tiếp theo, cần bổ sung quy định cụ
thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có chức vụ
trả lời trên báo chí về các vấn đề báo chí nêu và trả
lời đơn, thư của công dân do cơ quan báo chỉ chuyển đến,
tránh tình trạng để nhiều vụ việc rơi vào im lặng.

<strong>4.3</strong>. Thứ ba là bổ sung những quy định
liên quan đến báo điện tử. Báo điện tử không xuất
bản theo số mà cập nhật tin, bài đến từng phút; khi
phát hiện sai sót, có thể chỉnh sửa hoặc tự gỡ bỏ
từng phần, thậm chí gỡ bỏ cả bài ra khỏi trang báo. Do
vậy, rất khó xác định bản nào được coi là bản
gốc để lưu chiểu, lưu trữ cũng như khó có căn cứ
để khởi kiện hoặc buộc cải chính khi báo có sai phạm.
Một đặc điểm đáng chú ý nữa của báo điện tử là khả
năng tương tác tức thời với độc giả. Báo có thể
nhận được ngay ý kiến phản hồi đối với từng bài
báo hoặc tổ chức các diễn đàn trực tuyến, thu hút
công chúng tham gia, không bị giới hạn bởi không gian, thời
gian. Bản thân các báo điện tử cũng luôn có nguy cơ bị
kẻ xấu chèn thông tin không lành mạnh, ngoài ý muốn, làm
ảnh hưởng đến uy tín của báo và gây nhiễu loạn thông
tin. Đây là những điểm cần chú ý điều chỉnh trong luật.

<strong> 4.4</strong>. Thứ tư, Luật Báo chí cần bổ
sung quy định về văn phòng đại diện và phóng viên thường
trú của cơ quan báo chí cho đầy đủ hơn.

Điều 19a Luật Báo chí chỉ có một khoản quy định nguyên
tắc chung về việc thành lập cơ quan đại diện và cử phóng
viên thường trú ở các địa phương trong nước của cơ quan
báo chí. Luật chưa quy định cụ thể và cũng không giao Chính
phủ quy định cụ thể điều kiện về nhân sự, cơ sở vật
chất của văn phòng đại diện và tiêu chuẩn phóng viên
thường trú. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình
trạng một số cơ quan báo chí cử trưởng văn phòng đại
diện không có nghiệp vụ báo chí hoặc sử dụng cả những
người có sai phạm, bị kỷ luật từ cơ quan báo chí khác làm
phóng viên thường trú. Nhiều văn phòng đại diện thành lập
chủ yếu để giao dịch về quảng cáo. Mối quan hệ công tác
giữa các văn phòng đại diện với cơ quan quản lý nhà nước
về báo chí ở địa phương lỏng lẻo, cơ chế phối hợp chưa
rõ ràng, vì vậy địa phương rất khó quản lý. Trong lần sửa
đổi này, Luật Báo chí cần quy định cụ thể hơn về tiêu
chuẩn lãnh đạo cơ quan báo chí, lãnh đạo văn phòng đại
diện, tiêu chuẩn phóng viên thường trú, số nhân sự tối
thiểu của văn phòng, hồ sơ và thủ tục đề nghị cấp giấy
phép đặt văn phòng đại diện, chức năng và nhiệm vụ của
văn phòng đại diện, cơ chế quản lý của cơ quan quản lý
nhà nước về báo chí ở địa phương đối với các văn phòng
đại diện.

<strong>4.5</strong>. Thứ năm là bổ sung quy định về
quan hệ quốc tế trong hoạt động của báo chí Việt Nam.
Trong những năm qua, các cơ quan báo chí trong nước đã đặt
quan hệ với nhiều tổ chức quốc tế, tổ chức nước ngoài
trong lĩnh vực thông tin - truyền thông để trao đổi thông tin,
bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia hội nghị, hội
thảo, hợp tác xây dựng chương trình, phát sóng các chương
trình trong nước ra nước ngoài và biên tập các chương trình
nước ngoài, đặt văn phòng đại diện, phóng viên thường trú
ở nước ngoài,.... Nhu cầu đặt văn phòng đại diện và cử
phóng viên đi tác nghiệp ở nước ngoài là rất lớn. Tuy
nhiên, thủ tục giải quyết các việc này còn khá cồng kềnh,
phức tạp.

Sự mở rộng quan hệ quốc tế cũng đặt ra nhiều vấn đề
khác cần giải quyết như: sự điều chỉnh của Luật Báo chí
Việt Nam và các văn bản dưới luật đối với hành vi tác
nghiệp của cơ quan báo chí và phóng viên Việt Nam ở nước
ngoài, việc mua bản quyền măng-sét và nội dung của báo chí
nước ngoài để xuất bản trong nước, việc bán bản quyền
măng-sét và nội dung của báo chí trong nước để xuất bản
ở nước ngoài,... Đây là những nội dung cần sớm được quy
định để đảm bảo cơ sở pháp lý cho hoạt động hợp tác
quốc tế.

Trên thế giới hiện nay không nhiều nước có Luật Báo chí.
Phần lớn các nước điều chỉnh hoạt động báo chí bằng
Bộ luật Dân sự và một số luật có liên quan.

Ở nước ta, chỉ hơn 6 tháng sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 41/SL ngày 29/3/1946 quy định chế
độ tạm thời về báo chí. Sau hòa bình lập lại trên miền
Bắc, quy định về chế độ báo chí được hoàn thiện và ban
hành theo Sắc lệnh số 282?SL của Chủ tịch nước ngày
14/12/1956. Đạo luật đầu tiên về báo chí ở nước ta được
gọi là Luật về chế độ báo chí do Quốc hội khóa I ban
hành ngày 20/5/10957. Từ đó đến nay, đạo luật về báo chí
đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần.

Việc ban hành Luật Báo chí năm 1989 được đánh giá là một
bước tiến, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động báo chí phát
triển, phục vụ đắc lực công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc. Sau 10 năm áp dụng, Luật Báo chí đã được sửa
đổi, bổ sung một số điều cho phù hợp với sự phát triển
của thực tiễn. Tới nay, sự phát triển của thực tiễn,
đặc biệt là sự phát triển có tính chất bước ngoặt của
công nghệ thông tin và truyền thông, đòi hỏi Luật phải
được sửa đổi một cách căn bản nhằm bao quát được đầy
đủ các loại hình báo chí và mô hình hoạt động báo chí
mới xuất hiện, chấn chỉnh các hiện tượng tiêu cực, tạo
điều kiện cho báo chí tiếp tục phát triển lành mạnh, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Việc chậm sửa đổi Luật Báo chí trong lúc Luật Báo
chí hiện hành và việc thi hành Luật bộc lộ nhiều bất cập
một mặt có thể gây trở ngại cho sự phát triển của báo
chí và công tác quản lý báo chí, mặt khác sẽ dẫn đến tình
trạng một số quy định trong Luật mất tác dụng điều chỉnh
thực tế, làm giảm tính tôn nghiêm của pháp luật.
<em>
Hà Nội – TP Hồ Chí Minh, tháng 7/2014

Tác giả gửi Quê Choa</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140728/nguyen-minh-thuyet-nhung-bat-cap-trong-he-thong-van-ban-qui-pham-phap-luat-ve-bao),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét