Dương Danh Huy - Đôi gót chân Achilles của chủ quyền

<center><img
src="http://wscdn.bbc.co.uk/worldservice/assets/images/2012/09/14/120914122300_pham_van_dong_464x261_bbc_nocredit.jpg"
/></center>

<em><center>Ông Phạm Văn Đồng ký công hàm cách đây 60
năm</center></em>

<strong>Trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, cho đến năm 1954 cơ
sở pháp lý của Việt Nam có thể mạnh hơn của Trung Quốc,
nhưng sau đó thì chủ quyền Việt Nam có một đôi gót chân
Achilles.</strong>

Một gót là công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng (CHPVĐ).
Gót kia là việc từ 1954 đến 1975 VNDCCH không có tuyên bố hay
hành động chủ quyền gì với Hoàng Sa, Trường Sa.

Hai gót chân Achilles này có tính chất pháp lý khác nhau.

Chúng có cùng hệ quả là khả năng là cho đến năm 1975 cơ sở
pháp lý của VNDCCH yếu hơn của Trung Quốc, nhưng chúng có thể
có hệ quả khác nhau cho Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
(CHXHCNVN).

<h2>Công Hàm Phạm Văn Đồng</h2>

Trong luật quốc tế, Công Hàm Phạm Văn Đồng là một tuyên
bố đơn phương, với nghĩa nó không phải là một hiệp ước
song phương hay đa phương.

Theo luật quốc tế, không phải tuyên bố đơn phương nào cũng
có tính ràng buộc, nhưng nếu trong tuyên bố có thể hiện ý
định bị ràng buộc thì tuyên bố đó có thể ràng buộc.
<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Về nội dung, tuy CHPVĐ
không nói gì về Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng cũng không bảo lưu
gì, trong khi công hàm viết "ghi nhận và tán thành" bản
tuyên bố trong đó Trung Quốc mặc nhiên cho rằng Hoàng Sa,
Trường Sa là của họ.<img class="quoright" src="/misc/quoright.png"/>
<br class="quoteclear"></div></div>

Dựa theo luật tập quán quốc tế và phiên tòa xử tranh chấp
Đông Greenland, ông Phạm Văn Đồng, là thủ tướng đứng đầu
chính phủ của một quốc gia, sẽ bị cho là đã có thẩm
quyền trên bình diện quốc tế để làm cho VNDCCH bị ràng
buộc, kể cả về lãnh thổ, không cần có sự phê chuẩn của
Quốc hội VNDCCH.

Cũng theo luật quốc tế, tính ràng buộc, có hay không, của
tuyên bố đơn phương không dựa vào hình thức của tuyên bố.

Trong phán quyết Đông Greenland, lời nói miệng của người có
thẩm quyền còn có thể gây ra sự ràng buộc.

Khác với nguyên tắc estoppel, tuyên bố đơn phương có thể
ràng buộc dù bên kia đã không dựa vào nó và bị thiệt hại
(tức là yếu tố detrimental reliance).

Như vậy, Công Hàm Phạm Văn Đồng, như một tuyên bố đơn
phương, có thể nguy hiểm cho VNDCCH hơn cả lập luận estoppel,
vì nó có thể ràng buộc ngay cả khi không có điều kiện
detrimental reliance mà estoppel đòi hỏi.

Do đó, phản biện bằng lập luận Trung Quốc đã không dựa
trên Công Hàm Phạm Văn Đồng và bị thiệt hại là cần thiết
nhưng không đủ.

Về nội dung, tuy Công Hàm Phạm Văn Đồng không nói gì về
Hoàng Sa, Trường Sa, nhưng cũng không bảo lưu gì, trong khi công
hàm viết <em>"ghi nhận và tán thành"</em> bản tuyên bố trong
đó Trung Quốc mặc nhiên cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của
họ.

<h2>Công Hàm Phạm Văn Đồng có thể hiện ý định bị ràng
buộc không?</h2>

Trong Công Hàm Phạm Văn Đồng, câu <em>"Chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố,
ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân
Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc"</em> còn
có thể (nhưng vẫn khó) được cho là không thể hiện ý định
bị ràng buộc.

Nhưng câu <em>"Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà
nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải
lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân
dân Trung Hoa trên mặt biển."</em> thì khó có thể nói là
không thể hiện ý định bị ràng buộc.

Sự ràng buộc đó là về việc gì?

<center><img
src="http://wscdn.bbc.co.uk/worldservice/assets/images/2014/07/16/140716071645_wc_paracel_oil_rig_624x351_ap.jpg"
/></center>

<em><center>Trung Quốc khẳng định chủ quyền bằng việc hạ
đặt giàn khoan mới đây</center></em>

Sẽ khó phản biện rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng nói về
<em>"hải phận của Trung Quốc"</em>, nhưng ngoại trừ lãnh
hải 12 hải lý chung quanh Hoàng Sa, Trường Sa.

Như vậy, ít thì VNDCCH có thể bị ràng buộc phải tôn trọng
lãnh hải 12 hải lý chung quanh Hoàng Sa, Trường Sa như của Trung
Quốc, dù vấn đề chủ quyền đối với các đảo vẫn còn
bỏ ngỏ.

Nếu tệ hơn, VNDCCH có thể bị ràng buộc không được tranh
chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Quốc. Lưu ý sự ràng buộc
này, nếu có, không nhất thiết là Tòa cho rằng Công Hàm Phạm
Văn Đồng là một sự công nhận chủ quyền Trung Quốc (một
điều mà VNDCCH không có thẩm quyền để làm), mà là liên quan
đến VNDCCH tự giới hạn sự tự do của mình (một điều mà
VNDCCH có thẩm quyền để làm), và điều quan trọng là nó cũng
đủ làm cho VNDCCH không thể thắng Trung Quốc trước Tòa.

Như vậy, Công Hàm Phạm Văn Đồng có hai hệ quả:

Tòa có thể cho rằng VNDCCH bị ràng buộc bởi một trong hai
nghĩa vụ trên. Tòa có thể cho rằng quốc gia nào thừa kế từ
VNDCCH sẽ phải kế thừa nghĩa vụ đó.

<h2>Không khẳng định chủ quyền</h2>

Từ 1954 đến 1975 VNDCCH không khẳng định chủ quyền với
Hoàng Sa, Trường Sa.

Trong luật quốc tế, đi đôi với chủ quyền là trách nhiệm
thực thi chủ quyền và không cho nước khác làm điều mà họ
cho là thực thi chủ quyền trên lãnh thổ của mình.

Sự không khẳng định chủ quyền không phải là công nhận
chủ quyền của nước khác, nhưng nếu trong khi nước khác đòi
và có hành động chủ quyền mà mình không khẳng định trong
một thời gian dài thì có thể dẫn đến việc mất chủ
quyền.

Đây là khái niệm acquiescence. Acquiescence nguy hiểm ở chỗ dù
không làm gì có giá trị pháp lý, vẫn có thể mất chủ
quyền.


<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Sự không khẳng định
chủ quyền không phải là công nhận chủ quyền của nước
khác, nhưng nếu trong khi nước khác đòi và có hành động chủ
quyền mà mình không khẳng định trong một thời gian dài thì
có thể dẫn đến việc mất chủ quyền. <img class="quoright"
src="/misc/quoright.png"/> <br class="quoteclear"></div></div>

Ở đây chúng ta cần hỏi: acquiescence có tính ràng buộc hay
không? Tức là nếu đã im lặng và bất động một hay nhiều
lần thì sau đó được lên tiếng đòi chủ quyền hay không?

Sự im lặng và bất động không phải là hiệp ước, do đó
không có tính ràng buộc của một hiệp ước.

Nó cũng không phải là thể hiện ý muốn bị ràng buộc, do đó
không có tính ràng buộc của một tuyên bố đơn phương.

Nhưng nó có gây ra estoppel, cụ thể là estoppel by acquiescence, hay
không?

Để có estoppel, một bên phải có một sự bày tỏ quan điểm
(representation) bất lợi cho mình, và bên kia phải vì tin vào sự
bày tỏ đó nên có hành động gây tổn hại cho họ (detrimental
reliance).
Sự im lặng và bất động của một bên có thể bị cho là
một sự bày tỏ quan điểm, do đó có thể gây ra estoppel, nếu
bên kia có detrimental reliance.

Như vậy, nếu Trung Quốc đã không dựa trên acquiescence của
VNDCCH mà có hành động có thiệt hại cho họ thì VNDCCH có thể
đổi ý và đòi chủ quyền. (Trên thực tế, về phía Trung
Quốc thì họ cũng đã im lặng và bất động khi Nhà Nguyễn
thực thi chủ quyền với Hoàng Sa, và khi Pháp tuyên bố chủ
quyền với Trường Sa, nhưng sau đó họ đã đổi ý và đòi
chủ quyền).
Nhưng dù VNDCCH có được đổi ý, khả năng là tới năm 1975
sự acquiescence đã làm cho vị trí pháp lý của VNDCCH quá yếu
để có thể đánh bại được vị trí của Trung Quốc.

Như vậy, việc VNDCCH không khẳng định chủ quyền có hai hệ
quả:

VNDCCH khó có thể thắng Trung Quốc.

Nhưng khả năng là sự im lặng và bất động đã không gây ra
nghiã vụ có tính ràng buộc mà quốc gia hậu duệ của VNDCCH
phải thừa kế.

<h2>Làm sao có thể thắng?</h2>

Nếu so sánh thêm với các phiên tòa xử tranh chấp ngôi đền
Preah Vihear giữa Campuchia, và Thái Lan và phiên tòa xử tranh
chấp cụm đảo Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge giữa
Singapore và Malaysia dự đoán có xác suất cao nhất là Tòa sẽ
xét tổng thể hai gót chân Achilles, và có thể cả những động
thái bất lợi khác, của VNDCCH và đi đến kết luận rằng cho
đến 1975 VNDCCH đã không cho rằng Hoàng Sa, Trường Sa thuộc
chủ quyền của mình.

Nếu vậy thì VNDCCH sẽ không còn danh nghĩa chủ quyền gì đối
với Hoàng Sa, Trường Sa để cho bất cư quốc gia hậu duệ nào
đó thừa kế. Không những thế, Công Hàm Phạm Văn Đồng còn
có thể đã để lại một nghĩa vụ bất lợi.

Điều này có nghĩa nếu Việt Nam, dưới bất cứ chế độ hay
ý thức hệ nào, ở bất cứ thời điểm nào trong tương lai, ra
tòa với Trung Quốc về Hoàng Sa, Trường Sa, Việt Nam sẽ chỉ
thắng nếu có hai điều kiện sau.

Thứ nhất, khi Việt Nam thống nhất năm 1976 thành CHXHCNVN, quốc
gia đó đã thừa kế chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa
từ một quốc gia nào đó khác với VNDCCH.

Thứ nhì, trong trường hợp Tòa cho rằng VNDCCH đã gây ra nghĩa
vụ có tính ràng buộc với Trung Quốc (thí dụ như nghĩa vụ
không được tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc), Tòa cho
rằng bồi thường công bằng của CHXHCNVN cho Trung Quốc không
phải là chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường
Sa.

<em>Bài viết phản ánh quan điểm riêng và lối hành văn của
tác giả, một thành viên sáng lập của nhóm Nghiên cứu
Biển Đông.</em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140729/duong-danh-huy-doi-got-chan-achilles-cua-chu-quyen),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét