Trần Văn Thọ - Chiến lược xoay trục quan hệ kinh tế Việt Trung

<div class="boxleft320"><img
src="http://www.thesaigontimes.vn/Uploads/Articles/116420/1737a_xoaytruc.jpg"
/><div class="textholder">Nhà thầu Trung Quốc thi công một dự án
cảng biển ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Ảnh: THANH TAO</div></div>
Sau khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc hạ đặt trái
phép trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam và kéo theo
là tình trạng căng thẳng trong quan hệ hai nước, đã có nhiều
ý kiến cho đây là cơ hội để Việt Nam thoát Trung.

Đúng là như thế. Nhưng phải hiểu bản chất của quan hệ kinh
tế Việt Trung và phân tích nguyên nhân dẫn tới quan hệ bất
bình thường trong thời gian qua mới đề ra được chiến
lược, đối sách có hiệu quả.

<h2>Đằng sau những hiện tượng bất bình thường</h2>

Quan hệ kinh tế Việt Trung trong 20 năm qua phát triển rất bất
bình thường, tiềm ẩn nguy cơ lệ thuộc về kinh tế và ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia của Việt Nam. Có thể tóm tắt
mấy điểm chính về hiện tượng này như sau:

Thứ nhất, cơ cấu ngoại thương giữa hai nước ngày càng phát
triển bất bình thường và bất lợi cho Việt Nam.

Không những Việt Nam nhập siêu ngày càng tăng lên bất thường
(từ năm 2006 kim ngạch nhập siêu với Trung Quốc lớn hơn cả
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường đó) mà cơ cấu cũng
có tính chất buôn bán giữa một nước chưa phát triển và
nước đã phát triển (xuất khẩu hàng nguyên liệu thô hoặc
sơ chế và nhập hàng công nghiệp).

Hơn 10 năm trước (năm 2002) trên TBKTSG tôi có viết bài "Tính
chất Bắc - Nam trong quan hệ kinh tế Việt Trung" để cảnh báo
vấn đề này. Năm 2009, cũng trên TBKTSG tôi có đăng bài "Xác
lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ kinh tế Việt Trung".
Lãnh đạo đất nước chủ trương đưa Việt Nam trở thành
nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 nhưng không có chiến
lược đối phó với sự trỗi dậy của Trung Quốc.

Thứ hai, đầu tư trực tiếp (FDI) từ Trung Quốc theo thống kê
chính thức thì chưa nhiều (chỉ chiếm độ 3% tổng vốn đầu
tư đăng ký trong các dự án FDI còn hiệu lực đến cuối năm
2013 và xếp thứ 9 trong các nước đầu tư ở Việt Nam), nhưng
rất có khả năng nhiều doanh nghiệp đầu tư trên danh nghĩa là
của Singapore, Hồng Kông, British Virgin Islands... nhưng trên thực
tế là vốn của doanh nghiệp Trung Quốc. Nhiều thông tin tuy còn
tản mạn nhưng đã cho thấy có hiện tượng đó.

Thêm vào đó, doanh nghiệp Trung Quốc mua hoặc thuê dài hạn
(nhiều trường hợp tới 50 năm) nhiều đất rừng và các khu
vực ven biển, những nơi nhạy cảm về an ninh quốc gia. Điều
bất bình thường ở đây là, khác với những nước đầu tư
nhiều nhất tại Việt Nam như Nhật Bản và Hàn Quốc, chỉ có
Trung Quốc mới nhắm đến những lĩnh vực nhạy cảm đó.
Điều bất bình thường nữa là quan chức Việt Nam, nhất là
ở chính quyền địa phương, quá ngây thơ, thiếu cảnh giác
trước các dự án này.

Thứ ba, doanh nghiệp Trung Quốc trúng thầu hầu hết các dự án
trọng điểm trong các ngành quan trọng của Việt Nam cũng là
hiện tượng bất bình thường.

Tuy được các giới có trách nhiệm giải thích là do tiêu
chuẩn quan trọng nhất của Việt Nam là giá rẻ. Nhưng đã có
nhiều báo cáo cho thấy các dự án của Trung Quốc sau khi thắng
thầu đã phải điều chỉnh giá và thương lượng lại, nhiều
dự án không xây dựng đúng tiến độ và nhiều trường hợp
công trình mới xây xong đã bị hỏng hoặc xuống cấp. Tại sao
để tình trạng ấy kéo dài nhiều năm, tại sao vẫn để cho
Trung Quốc tiếp tục thắng thầu? Trách nhiệm và năng lực
của quan chức Việt Nam thấp đến thế sao? Đó cũng là hiện
tượng bất bình thường.

Thứ tư, thật khó hiểu khi đọc những thông tin về số
lượng lao động người Trung Quốc làm việc tại Việt Nam.

Lao động chui quá nhiều chứng tỏ bộ máy quản lý ở trung
ương và địa phương quá kém. Vấn đề đâu khó đến nỗi
không xử lý ngay được và để kéo dài nhiều năm. Nhưng ngạc
nhiên không kém là số lao động được cấp giấy phép cũng
nhiều một cách khó hiểu. Thông thường trong những dự án FDI
hay dự án xây dựng cơ sở hạ tầng do doanh nghiệp nước
ngoài trúng thầu thực hiện, người nước ngoài chỉ có thể
giữ những vị trí mà người trong nước không đảm nhận
được (như kỹ sư có kinh nghiệm, chuyên viên quản lý cao
cấp) và sau một thời gian nhất định những chức vụ ấy
cũng phải lần lượt chuyển giao cho người bản xứ. Do đó dù
ở giai đoạn đầu, số lượng người nước ngoài chỉ có
thể bằng vài phần trăm trong tổng lao động của một dự án.

<h2>Do đâu mà có hiện tượng bất bình thường này?</h2>

Một là, như đã thấy qua khảo sát ở trên, bộ máy quản lý
của Nhà nước Việt Nam kém hiệu suất và năng lực, đạo
đức và tinh thần trách nhiệm của một số quan chức các cấp
có vấn đề lớn cần phải được cải thiện ngay.

Trước khi quyết định ban hành các chính sách kinh tế đối
ngoại phải ý thức được sự tồn tại của Trung Quốc, phải
lường trước những tác động, hậu quả đến từ nước láng
giềng khổng lồ phía Bắc.

Hai là, từ khi gia nhập WTO và tham gia các hiệp định thương
mại tự do, Việt Nam có khuynh hướng mở rộng cửa thị
trường trong nước cho hàng hóa và tư bản nước ngoài nhưng
thiếu các chính sách, biện pháp kiểm soát hữu hiệu để
loại trừ những dự án FDI thiếu chất lượng hoặc có vấn
đề về an ninh quốc gia, loại bỏ những doanh nghiệp tham gia
đấu thầu không có khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ
thuật hoặc có tiền án vi phạm các cam kết.

Riêng đối với Trung Quốc, Việt Nam còn chịu ảnh hưởng bởi
phương châm 4 tốt và 16 chữ vàng, trong đó có 4 chữ "hợp
tác toàn diện". Những quan chức thiếu tinh thần dân tộc khi
bị mua chuộc có thể dựa vào phương châm đó để dễ dàng
cấp phép các dự án theo yêu cầu của doanh nghiệp Trung Quốc.

Không thay đổi được tình hình này thì mọi chính sách thoát
Trung đều sẽ thất bại.

<h2>Những vấn đề ở tầm chiến lược </h2>

Ở một bình diện cao hơn, Việt Nam thiếu một tầm nhìn chiến
lược trong quan hệ với một nước láng giềng khổng lồ và
đang trong quá trình trỗi dậy rất mạnh. Trung Quốc trở thành
công xưởng của thế giới chỉ trong thời gian vài mươi năm.
Việt Nam không chủ động có chiến lược phát triển mạnh mẽ
và đặc biệt có biện pháp đối phó thì bị làn sóng công
nghiệp từ phương Bắc đè bẹp là dễ hiểu.

Lý thuyết địa kinh tế cho thấy trung tâm (center) phát triển
mạnh mẽ sẽ lôi cuốn các khu vực ngoại vi (periphery) vào quỹ
đạo của mình nếu khu vực ngoại vi không thay đổi được
các điều kiện kinh tế để xác lập cho mình một trung tâm
mới.

Nếu có sự chênh lệch quá lớn về quy mô và về thời điểm
cũng như tốc độ phát triển, các hoạt động sản xuất có
khuynh hướng tập trung về trung tâm. Nếu hàng rào quan thuế và
phí tổn giao thông đủ lớn sẽ làm yếu lực dẫn đó và các
khu vực ngoại vi cũng có thể phát triển độc lập với trung
tâm.

Nhưng với trào lưu tự do ngoại thương ngày nay và phí tổn
giao thông không lớn do sự tiếp giáp địa lý giữa trung tâm
và ngoại vi, nguy cơ lệ thuộc của vùng ngoại vi có khả năng
cao. Nguy cơ đó chỉ được khắc phục nếu lãnh đạo của
vùng "ngoại vi" có ý thức độc lập và tìm mọi cách khắc
phục lực dẫn từ "trung tâm".

Kinh nghiệm của Canada vào cuối thế kỷ 19 khi đối phó với
sự trỗi dậy của miền đông bắc nước Mỹ là bài học gợi
nhiều ý hay. Để miền đông nam của mình không bị cuốn vào
quỹ đạo phát triển của miền đông bắc Mỹ là vùng đã
phát triển trước với tốc độ nhanh, Canada đã khẩn trương
xây dựng hạ tầng giao thông nối kết hai miền đông nam và
tây nam tạo thành một nền kinh tế quốc dân thống nhất đủ
mạnh để giảm ảnh hưởng của sự trỗi dậy từ phía Mỹ.

Hàn Quốc và Nhật Bản cũng là hai nước láng giềng đặc
biệt. Là nước nhỏ hơn và đi sau, Hàn Quốc rất lo bị kinh
tế Nhật chi phối nên các chính sách kinh tế đối ngoại của
Hàn Quốc vào thập niên 1960 và 1970 đều ý thức sự tồn tại
của Nhật Bản.

Chẳng hạn trong hai thập niên đó Hàn Quốc có chính sách hạn
chế nhận FDI vì sợ các công ty Nhật (có lợi thế về địa
lý và văn hóa so với Âu Mỹ) sẽ ồ ạt đến đầu tư. Hàn
Quốc học hỏi kinh nghiệm của Nhật nhưng không bị Nhật chi
phối là nhờ tầm nhìn, chíến lược của lãnh đạo và nhờ
có đội ngũ quan chức vừa có năng lực vừa có tinh thần dân
tộc cao.

Phân tích ở trên đã đưa ra được các gợi ý cần thiết
để Việt Nam chuyển trục trong quan hệ kinh tế với Trung
Quốc.

Quy mô kinh tế của Trung Quốc lớn hơn Việt Nam nhiều, họ
lại phát triển trước và với tốc độ cao hơn. Việt Nam
phải ý thức về sự bất lợi này và tìm chiến lược bù
trừ với bất lợi đó mới tránh được sức hút của "trung
tâm" lớn này. Bài này chưa có điều kiện đi sâu vào các
chiến lược cụ thể, trước mắt xin nêu lên mấy điểm sau:

Thứ nhất, phải chỉnh đốn ngay các quan hệ kinh tế với Trung
Quốc, từng bước điều chỉnh để kéo các hiện tượng bất
thường nói trên trở lại trạng thái bình thường, giống như
quan hệ giữa Việt Nam với các nước khác. Áp dụng các tiêu
chuẩn phổ quát, các quy định trong các bang giao kinh tế quốc
tế và các chính sách, các quy định của riêng Việt Nam, để
loại bỏ những doanh nghiệp, những dự án kém chất lượng,
những lao động nước ngoài không cần thiết của bất cứ
nước nào, kể cả Trung Quốc.

Thứ hai, trước khi quyết định ban hành các chính sách kinh tế
đối ngoại phải ý thức được sự tồn tại của Trung Quốc,
phải lường trước những tác động, hậu quả đến từ
nước láng giềng khổng lồ phía Bắc. Phương châm này không
hàm ý nghĩa kỳ thị với Trung Quốc nếu nhìn từ lý luận về
địa kinh tế và kinh nghiệm của thế giới đã nói ở trên.

Thứ ba, trong dài hạn vấn đề căn bản là Việt Nam phải
từng bước vững chắc phát triển thành một nước giàu,
mạnh, dân chủ, văn minh theo những chuẩn mực phổ quát mà các
nước tiên tiến đã đạt được và nhiều nước khác đang
hướng tới. Muốn vậy, phải thực hiện ngay cuộc cải cách
thể chế toàn diện theo hướng dân chủ hóa và trọng dụng
nhân tài mới động viên được các nguồn lực, nhất là
nguồn nhân lực có cả trong và ngoài nước, hướng vào các
mục tiêu ấy.

Hiện nay, nội lực Việt Nam đang suy yếu, cụ thể là đạo
đức xã hội sút kém, bộ máy nhà nước còn nhiều vấn đề,
giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học đang xuống dốc. Không
mạnh dạn cải cách thể chế thì không có tiền đề để phát
triển mạnh mẽ. Những cải cách này còn có hiệu quả làm
giảm phí tổn hành chánh, tăng chất lượng hạ tầng, chất
lượng lao động, và như vậy sẽ bù trừ những bất lợi về
quy mô kinh tế so với Trung Quốc.

Tôi muốn nhấn mạnh thêm một điểm là Việt Nam phải theo
đuổi một chế độ chính trị tiến bộ hơn, tốt hơn Trung
Quốc thì chất lượng phát triển mới hơn nước láng giềng
khổng lồ này và sẽ được thế giới đánh giá cao, từ đó
Việt Nam sẽ có một sức mạnh mềm hơn hẳn Trung Quốc.

Trong thời đại toàn cầu hóa này, chính những giá trị đó
sẽ thu hút đầu tư và hợp tác từ những nền kinh tế đã
phát triển với chất lượng cao như Nhật, Mỹ, Tây Âu. Kết
hợp nội lực và ngoại lực theo hướng này sẽ tạo nên sức
mạnh đề kháng được với sự trỗi dậy của nền kinh tế
khổng lồ ở phía Bắc.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140619/tran-van-tho-chien-luoc-xoay-truc-quan-he-kinh-te-viet-trung),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét