Phan Thanh Tâm - Ðọc sách: Trần Ðức Thảo Những Lời Trăng Trối

<strong>Hồ Chí Minh: con khủng long ba đầu, chín đuôi</strong>

<blockquote>Ðã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ
Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Ðức Thảo Những Lời Trăng
Trối là cuốn rất đặc biệt vì sách đã "phân tích sư
thật về những hành động khủng khiếp" của họ Hồ bởi
một triết gia "lỗi lạc của Việt Nam và thế giới." Năm
1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng
chiến chống Pháp; đã từng "trải nghiệm gian khổ trong
chiến tranh, trong cách mạng" suốt 40 năm.</strong> <strong>Nhà
triết học họ Trần trước khi mất đã khẳng định, Marx đã
gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính "cuồng
vọng lãnh tụ" đã khiến "ông cụ" là một con người
"cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương
tri, của đạo lý." Theo ông, đây là "một Tào Tháo muôn
mặt của muôn đời" và "là một con khủng long ba đầu,
chín đuôi."</blockquote>

<center><img
src="http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/articlefiles/190049-tranDucThao-400.jpg"
/></center>
<center><em>Hình bìa tác phẩm "Trần Ðức Thảo Những Lời
Trăng Trối," do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ thực
hiện.</em></center>

Lời trối trăng của nhà triết học Trần Ðức Thảo cho biết,
"nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của "ông
cụ," không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không
bao giờ thoát ra được tình trạng bế tắc chính trị độc
hại như hiện nay ở nước ta." Theo ông, quá khứ cách mạng
của Việt Nam đã tích tụ quá nặng đầy những di sản xấu.
Quyển sách dày 427 trang là những lời tâm sự sống động của
một nhà tư tưởng giúp độc giả hiểu rõ nguồn gốc của
thảm kịch đang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên đất
nước ta. Ông cảnh báo xã hội Việt Nam "đang bị ung thối
bởi căn bệnh xảo trá, căn bệnh thủ đoạn của đảng."
Ông bị tống đi ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé đi
một chiều, bị đuổi khỏi Sài Gòn, buộc phải đi Pháp,
không được trở về Hà Nội.

Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Ðức Thảo (1917-1993) đã
vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của
"cụ Hồ" mang tính sinh tử với đất nước và dân tộc,
đã để lại di sản vô cùng trầm trọng: "chọn chủ nghĩa
xã hội của Marx để xây dưng chế độ, chọn chiến tranh xóa
hiệp định hòa bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và
thống nhất đất nước, chọn Mao và Ðảng Cộng Sản Trung
Quốc làm đồng minh, đồng chí." Sách có 16 chương, một
chương chỉ để giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM
cũng được đề cập tới. Ông xác nhận, hễ nói tới thảm
kịch Việt Nam thì "không thể không nhắc tới ông cụ." Cố
giáo sư quả quyết, 'phải nói thẳng ra là Mao đã trực tiếp
bẻ lái "ông cụ"; và "Trung Quốc muốn nhuộm đỏ Việt
Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc."

<strong>Ðãi ngộ hay bạc đãi</strong>

Triết gia Trần Ðức Thảo (TÐT), nổi tiếng về hiện tượng
luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre được đảng Cộng
Sản Pháp vận động để được cho về xứ nhằm phục vụ
cách mạng vì "tôi có những nghiên cứu sâu rộng cuộc cách
mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư
tưởng của Karl Marx." Khi về tới quê hương "tôi bị vỡ
mặt và vỡ mộng"; bị nghi là "siêu gián điệp trí
thức." Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm
hẳn. Năm 1991 ông "bị đẩy trở lại Paris." Thế nhưng, sau
khi qua đời ngày 24 tháng 4, 1993, nhà cầm quyền Hà nội lại
truy tặng ông huy chương Ðộc Lập; ca tụng ông là nhà triết
học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng ""tư tưởng HCM"
đã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt Nam và
lúc sinh thời đảng, nhả nước rất mực trọng đãi ông.

Có thật thế không? Trong chương Ðãi Ngộ Hay Bạc Ðãi, ông
nói, những chức vị mà người ta ban cho, "che giấu một đối
xử nghiệt ngã và tồi tệ." Ông cho biết, sự có mặt của
ông trong một số sinh hoạt chỉ là "bù nhìn đứng giữa
ruộng dưa." Sự thật "họ chỉ để cho sống; cho tôi khỏi
chết đói; chỉ toàn là bạc đãi." Nhà triết học phân
trần, chúng bắt "tôi phải gắng mà học tập nhân dân nghĩa
là phải cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời đảng."

Ông tiết lộ, tuy có chức phó giám đốc trường Ðại Học
Văn Khoa Sư Phạm nhưng "chưa hề được tham dự bàn bạc gì
vào việc tổ chức, điều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy
cũng không hề có." Sự có mặt của ông trong các buổi họp
hay đi theo các phái đoàn thanh tra là chỉ để "giới thiệu
có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng."

Những điều nói đó phù hợp với bài báo của nhà thơ Phùng
Quán Chuyện vui về triết gia Trần Ðức Thảo đăng trên báo
Tiền Phong ngày 11 tháng 5, 1993: nhờ cái chết của nhà tư
tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người trong nước
được biết rằng đất nước chúng ta đã từng sinh ra một
triết gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết.
Khi sống ở trong nước thì lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy
anh công nhân móc cống.

Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch,
quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá
sùm sụp, cưỡi cái xe đạp "Pơ-giô con vịt" mà mấy bà
đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ
vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một
mình, một anh dở người."

<strong>Mưu thần chước quỷ</strong>

Nhiều người tự hỏi bị đối xử cay đắng như vậy sao
"bác Thảo lại hay có lúc bật cười như điên"; và bị
chung quanh chê bai, chế giễu "bác là người khùng"? TÐT cho
hay, ông bắt đầu "hết cười rồi lại khóc" sau khi tham gia
đợt thì hành cải cách ruộng đất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh
Tuyên Quang năm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh đạo
"chọn con đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man."
Ông nói, "chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng đểu,
thằng ác, thằng lưu manh." Về giai thoại TÐT đi chăn bò, theo
ông, đó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí
thức là lối hành xử của một chính quyền man rợ, bị ảnh
hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu "trí
thức không bằng cục phân" của Mao.

Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất
sùng bái Trung Quốc, "cứ như là con đẻ của Ðảng Cộng
Sản Trung Quốc." Là một nhà triết học, có thói quen tìm
hiểu, đánh giá lại, ông thấy "nước ta trồng cây tư
tưởng của Marx, cho tới nay cây đó chỉ cho toàn quả
đắng." Chính "cái thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự
đau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ"
khiến ông muốn "đặt lại vấn đề từ học thuyết."
Triết gia TÐT nói, nhiều lãnh tụ "từ lầu đài tư tưởng
Marx bước ra đã trở thành những ác quỉ." Theo ông, "quỉ
ấy là ý thức đấu tranh giai cấp"; là thứ "vi rut" tư
tưởng độc hại vô cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc đẩy
con người đam mê tìm thắng lợi, bằng đủ thứ quỉ kế,
để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng.

Theo nhà triết học số một của Việt Nam, "ông cụ" là
một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc thì biến có thành
không, lúc thì biến không thành có. Ðúng là "mưu thần
chước quỉ" chuyên hành động muôn hướng, muôn mặt, "trí
trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!"
Bác Hồ đánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói đầu bản
tuyên bố độc lập của Mỹ; đánh lừa các đảng trong nước
khi thành lập chính phủ đại đoàn kết và mời cựu hoàng
Bảo Ðại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ;
coi họ là phản động; đẩy Bảo Ðại sang Côn Minh. "Ông
cụ" còn được triết gia TÐT gọi là một nhà chính trị
"thần sầu quỉ khốc" khi "ông cụ" khôn khéo mưu tìm
sự tiến cử của Mao để được đưa về xứ làm lãnh đạo
duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.

Cố Giáo sư TÐT kể lại rằng, biết mình bị Ðệ Tam Quốc
Tế tức Liên Sô loại đuổi khéo về Viễn Ðông và biết Mao
là thủ lãnh các phong trào cộng sản ở Châu Á, "ông cụ"
vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia nhập Ðảng Cộng
Sản Trung Quốc; được Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, "ông cụ"
từng bước loại bỏ tất cả đối thủ Trần Phú, Lê Hồng
Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ... để rồi vươn lên làm
Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước năm 1945. Dù sự tấn phong
"ông cụ" ở các đại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản
ứng của các khu ủy, xử ủy và của "Ðê Tam" nhưng nhờ
Mao dàn xếp nên đã qua mặt những sự phản đối này vì họ
là những kẻ đã từng nhận được sự nâng đỡ của cộng
sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, "ông cụ" luôn
luôn là người biết chụp bắt cơ hội."

<strong>Huyền thoại "bác Hồ"</strong>

Vẫn theo nhà tư tưởng TÐT, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi
viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về
"ông cụ" của bộ máy tuyên truyền; họ sử dụng sản
phẩm chính thống của đảng thì làm sao họ hiểu hết được
mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất
chính gốc, bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của "ông
cụ"; nó chi phối từ nội tâm. Ðó là những tên giả chính
"cụ Hồ" đã tự đặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẽ,
phải phân tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai
đoạn đổi tên, đổi họ; từ những cái tên "Tất Thành,"
rồi "Vương," rồi là "Ái Quốc," chót hết là "Chí
Minh." Ðấy là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm
thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ cách mạng sau
khi không được cho vào học Trường Thuộc Ðịa để ra là
quan.

Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách đề
cao mình, như cuốn "Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt
động của Hồ chủ tịch" và "Vừa đi đường vừa kể
chuyện" thì không thể là một người vì nước vì dân
được. "Ông cụ" đã tạo ra một thời chính trị điên
đảo. Ngoài ra, đám quần thần chung quanh "ông cụ," không
tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với "Người." Họ tôn
vinh "ông cụ" làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết
mất xác vì câu nói "ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi."
TÐT cho biết, năm 1946 gặp "ông cụ" trong một buổi chiêu
đãi ở Paris, ông đã bất ngờ trước lời khước từ: "cách
mạng chưa cần tới chú đâu" của HCM; khi ông tự ý nắm tay
"ông cụ" ngỏ lời: "Tôi muốn về nước cùng cụ xây
dựng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp tại quê
hương."

Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông
được về nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ
hội quan sát một Hà nội và Sài Gòn đang bị lột xác theo sự
phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp thống trị
mới đang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TÐT càng thấy
huyền thoại về "bác Hồ" là tác phẩm của "cả một
công trình nghệ thuật hóa trang cao độ." Cái gì có giá trị
là của bác, của đảng. Họ công kênh "ông cụ" lên làm
bậc thần, bậc thánh. Theo TÐT, "phải hít thở cái không
khí" thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần
nào những "phương pháp tâm lý tinh vi" tôn sùng HCM. Ông
nhấn mạnh, "bác Hồ" chỉ có thể coi như mẫu mực thành
đạt về chính trị; "không thể nào là mẫu mực về mặt
đạo đức"; vì cách sống muôn mặt của bác đâu phải là
gương sáng.

Nhà triết học bị kết tội "cầm đầu âm mưu chống
đảng" vì hai bài viết trên Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP), do một
số anh em văn nghệ trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không
có mấy nhà trí thức Pháp đứng đầu là Sartre "tận tình
quan tâm, chăm sóc" đến ông thì với mấy tội: tự ý nắm
tay bác năm 1946 đòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối
lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn đấu lý với cố vấn
Trung Quốc lúc làm đội viên cải cách ruộng đất và vụ NVGP,
ông có thể "dễ chết như chơi." Năm 1952 triết gia được
dẫn đi chào "Bác." Ban lễ tân dặn ông bốn điều cần
nhớ: phải đứng xa "Người" ba mét, chỉ lại gần khi
"Người" ra lệnh; không được nói leo, chỉ trả lời câu
hỏi; không được chào trước; không được nói tôi phải xưng
bằng cháu, gọi "Người" bằng "bác.

<strong>Chư hầu ngoan ngoãn</strong>

Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TÐT thì HCM chưa đọc kỹ
học thuyết sách vở của Marx, "tư duy xổi nên chưa tiêu hóa
được"; nhưng lại "đọc thuộc lòng cuốn "Le Prince"
của Machiavel," cuốn chỉ bày tận dụng mọi thứ để người
ta sùng bái. "Ông cụ" luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài
nặng lý trí đến vô cảm; không thiết tha với gia đình; không
có bạn hữu thân tình. "Ông cụ" rất ghét cánh Tây học.
Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học được
"ông cụ" đào tạo để phục tùng; rồi sau đề bạt lên
làm lớn. "Ông cụ" làm thơ là "do cuồng vọng chính
trị," là để "ca ngợi mình" và "hô hào quyết chiến."
Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một
bóng ma quái nó đè. Ðó là " bóng ma đế quốc bành trướng
vô cùng độc đoán, lấn át của Mao."

Vẫn theo TÐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một
phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên đẹp
"khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em" nhưng thực chất
là một đế quốc đỏ; nó kềm kẹp các dân tộc nhược tiểu
quanh nó. Ðó "chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả
dối"; muốn biến "nước ta thành một chư hầu ngoan
ngoãn." "Ông cụ" vì tham vọng quyền lực từ ý chí muốn
học ra làm quan nhưng không được nên đã lấy học thuyết
"giai cấp đấu tranh" làm kim chỉ nam để tạo cơ hội thành
danh, thành lãnh tụ. Nhà triết học nói, để nắm vững quyền
lực "ông cụ" phải thủ vai ông thánh, ông thần," từ bỏ
cả vợ con, mất đi tính người, thẳng tay tiêu diệt những
kẻ có tài. Lại thêm, Mao đã cài chung quanh "ông cụ" một
đám cực kỳ cuồng tín.

Trong chương "Hai chuyến di chuyển đổi đời" của cuốn
sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông được rời cảnh
"sống như bị giam lỏng ở Hà nội" để vào Sài Gòn ở là
nhờ sự vận động của một số đồng chí trí thức Nam Bộ.
"Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và
hiện đại; đâu có đói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền
Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt. Miền bắc bị tư
tưởng Mac-Lenine làm nảy sinh những chính sách đầy sai lầm.
Sĩ quan của "bộ đội cụ Hồ" đã có "thái độ thô
bạo, ứng xử thô bỉ" khi nhục mạ, gọi Dương văn Minh là
mày, và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu." Ðấy là những
lời thố lộ của TDT mà nhà văn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê đã
viết lại qua các cuốn băng thu những điều ông tâm sự với
một số bạn trong sáu tháng cuối đời ông ở Paris.

Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công Sơn là
hai người đã thúc đẩy ông phải thoát khỏi thái độ hèn
nhát đã ngự trị trong đầu óc trí thức và văn nghệ sĩ Hà
nội; giới này đã ứng xử đồng lõa với tội ác của cách
mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho
NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra,
những ai từng sống ở Sài Gòn sau 1975, nếu đọc chương
"Vẫn chưa được giải phóng" đều nhận thấy những mô
tả của triết gia về Hà nội năm 1954 rất giống Sài Gòn sau
30 tháng 4, 1975: "cả con người và xã hội ở đây đã không
hề được giải phóng" và thật là "vô lý và nhục nhã"
khi so sánh với chế độ cũ.

Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có
được; tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký và
quyền lực.

<strong>Cao vọng hơn "bác Hồ"</strong>

Ðược gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10 ngày
TÐT hoàn thành một tập sách nhỏ "Con người và chủ nghĩa
lý luận không có con người." Ðây là văn bản phản bác giáo
điều, được đón nhận như một bông hoa lạ. Chẳng bao lâu
sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí
thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với
nhà triết học để nghe những "lời tiên tri" là "cách
mạng đã biến chất để tư bản man rợ tràn ngập." Trung
ương thấy số người "phức tạp" đến gặp "bác Thảo"
càng ngày càng đông, nên Ðảng đã quyết định "anh phải ra
đi." Nhà triết học than "thôi thì đành mang thân xác ra xứ
người." Qua Pháp, tuy đã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn
"lâm cảnh sống nay lo mai," và còn bị Tòa đại sứ theo dõi
kiểm soát chặt chẽ.

Trong cài xui có cái may. Nhà văn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê nhờ
những lúc nhà triết học bán chữ để kiếm sống qua các
buổi thuyết trình ở kinh đô ánh sáng mà đã làm quen thân
với ông, được nghe ông tâm sự. Quyển sách ghi lại nỗi hối
hận đã thiêu đốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Nhà
văn cho hay ông "sẵn sàng trao mấy cuốn băng cho những ai
muốn nghiên cứu về TÐT." Trong sách nhà triết học có lần
đã khẳng định: "Tôi có tham vọng cao hơn của 'bác Hồ'
nhiều lắm." Ðấy là xây dựng "một lâu đài tư tưởng
trong đó toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống
của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình." Nhưng
mộng đó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu
bị đột tử. Chúng ta mất đi "một kho tàng trải nghiệm về
chiến tranh, về cách mạng."

Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ, Giáo
Sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là để
phục hồi danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong
lời bạt ông viết, "cuộc đời TÐT xem như cuộc đời tan
nát vì "cách mạng" mà ông chọn phục vụ vào năm 1951 nên
mọi sự trở nên vỡ lở.

Cuộc đời đó có thể xem như một bài học -"an object
lesson"- với những ai để cho tình cảm, lý tưởng che mờ đi
lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có đời
sống gia đình, không có tự do trong bóng tối làm những việc
ông muốn làm cho quê hương đất nước của ông. Sự nghiệp
triết học của ông là một sự nghiệp dang dở." Sách được
xuất bản lần đầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối
hận lúc hoàng hôn chỉ để thăm dò ý kiến thân hữu.

Những ai yêu "bác Hồ," những ai coi HCM là tên tội đồ hay
các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và
những ai còn nghĩ đến nước Việt nên đọc cuốn này. Cho
tới nay chưa có tác giả nào trên thế giới - ngoại trừ
triết gia TÐT- nêu ra được, thật sáng tỏ, những điều vô
cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông đã trải nghiệm 40
năm trong cuộc. Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ
nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm về HCM, kẻ đã lừa
mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt
Nam TÐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức
tự cao tự đại nhưng "không gian trá đến mức tinh quái"
để có những "hành động muôn hướng, muôn mặt, trí trá
còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!"

<em>Saint Paul, tháng 6, 2014</em>

<center>* * *</center>

<h2>Tiểu sử Trần Đức Thảo:</h2>

Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917, tại làng Thái Bình, mất
ngày 24/4/1993 tại Paris, Quê quán tại làng Song Tháp, Châu Khê,
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1936, ông được nhận học bổng sang Paris, Pháp để thi vào
trường École normale supérieure (Paris). Ông đậu thủ khoa bằng
Thạc sĩ triết học (Agrégation de Philosophie, tại Pháp, đây là
một học vị chuyên môn trên tiến sĩ, dành cho những tiến sĩ
muốn làm giáo sư đại học), ngang điểm với Jules Vuillemin)
tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942).

Thay mặt sinh viên và trí thức Việt Nam du học ở Pháp, Trần
Đức Thảo đã viết thư gửi về Tổ quốc, bày tỏ tình yêu
nước nồng nàn đối với đất nước vừa giành được độc
lập hồi tháng 8 năm 1945. Lá thư được in trên tờ Cờ giải
phóng, cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1952 ông
về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp.
Sau 1954 từ Việt Bắc về Hà Nội, Giáo sư Trần Đức Thảo
kết hôn với Tiến sỹ Nguyễn Thị Nhứt, đến ngày 5 tháng 1
năm 1967, theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Nhứt hai ông bà đã
thuận tình ly hôn[1].

Năm 1955, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám
đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử,
Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội).

Ông bị quy tội dính líu đến phong trào Nhân văn Giai phẩm khi
công bố hai bài báo có bàn đến một số vấn đề về tự do,
dân chủ. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, bị mất chức Phó Giám
đốc trường ĐHSP Hà Nội, chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho
cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội, Trần Ðức Thảo bị cấm giảng
dạy, phải dịch thuật lặt vặt để sống, phải bán dần bán
mòn những bộ từ điển để ăn. Ông bị chặt đứt mọi liên
hệ với thế giới, bị cô lập ngay giữa đồng bào của
mình[2].

Thái Vũ kể: "việc gặp thầy Trần Đức Thảo từ nước Pháp
tư bản trở về là rất dễ bị quy tội như bên Trung Quốc
trong Đại Cách mạng Văn hoá. Gặp thầy lủi thủi đạp chiếc
xe đạp mini cộc cạch cũng đành làm ngơ, nhiều khi không dám
nhìn."[3].

Trong quyển sách hồi ký nguyên văn bằng tiếng Pháp là Mémoire
d'un Vietcong (Hồi ký của một Việt Cộng), Trương Như Tảng có
nhắc tới thạc sĩ Trần Đức Thảo (tr.300):

"Ông không bị tù hay hành hạ thân xác, nhưng công an bao vây,
cô lập ông không cho ai tiếp xúc… Nếu ông Thảo tiếp xúc
với ai, chẳng hạn một người bạn trên đường phố, thì
người đó sẽ bị bắt giữ để điều tra. Bề ngoài xem ra
triết gia sống cuộc đời bình thường. Nhưng thực tế ông
sống như Robinson Crusoe, hoàn toàn cô độc, mặc dầu có nhiều
người ở xung quanh. Ngay họ hàng thân thích cũng không được
phép nói chuyện với ông. Đối với một trí thức như vậy là
một sự tra tấn dã man."

Françoise Corrèze, người bạn thân của Trần Đức Thảo có hay
tới thăm ông ở căn phòng khu tập thể Kim Liên, nhưng chỉ bút
đàm, vì phòng bị thu âm[4].

Năm 1985, sau khi đi Cộng hòa dân chủ Đức vừa chữa bệnh,
vừa làm việc với Viện hàn lâm khoa học của CHDC Đức, ông
có sang làm việc với Viện hàn lâm khoa học Liên Xô.

Năm 1991, ông sang Pháp chữa bệnh kết hợp với "nghiên cứu
khoa học, do Ban bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
cử" (theo TS. Cù Huy Chử) và mất tại Paris vào năm sau. Theo
những anh chị em có dịp tiếp cận, Trần Đức Thảo cho biết
ông được tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và Ban bí thư cử sang
Pháp để "giải độc trí thức Việt Kiều" khỏi những ảnh
hưởng xấu. [4] Di hài ông được nhà nước đưa về an táng
tại Khu A Nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội.

<a
href="http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_%C4%90%E1%BB%A9c_Th%E1%BA%A3o">Theo
Wikipedia</a>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140617/phan-thanh-tam-doc-sach-tran-duc-thao-nhung-loi-trang-troi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét