Mai Huy Bích - Vì sao người ta phải thoát Khổng?

<blockquote><h2>Giá trị của gia đình trong Khổng giáo</h2>

"Mai Huy Bích, 1993. Đặc điểm gia đình đồng bằng sông Hồng.
NXB Văn hóa."

Một quyển sách cũ. Đọc lại thấy hay quá. Trong hoàn cảnh
đang nói về thoát Khổng, thoát Trung.

Ngày đó, cách đây đã hơn 20 năm, tác giả dùng từ "cộng
đồng", không biết bây giờ tác giả có muốn thay bằng từ
khác không?

Quyển sách gồm có 3 chương. Phần trích ở đây chỉ là 1
phần nhỏ. Còn nhiều ý hay ho nữa. Phần trích này bàn về
thời VN truyền thống. Còn phần nói về thời xhcn cũng hay ho
lắm. Khi nào có thời gian sẽ post tiếp.

<a
href="https://www.facebook.com/notes/b%C3%A0-%C4%91%E1%BA%A7u-%C4%91inh/v%C3%AC-sao-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-ta-ph%E1%BA%A3i-tho%C3%A1t-kh%E1%BB%95ng/697788073619389">FB
Bà Đầu Đinh</a></blockquote>

<center><img
src="https://scontent-b-ams.xx.fbcdn.net/hphotos-xpa1/v/t1.0-9/q84/s720x720/10440759_10152245112779032_322377931538710282_n.jpg?oh=f48fc8f2f6e46a6a68f396af184f8ee1&oe=54192F21"
width="400" /></center>

Theo Khổng giáo, người và người không thể sống tách rời
nhau mà có muôn nghìn quan hệ gắn bó lại với nhau trọng phạm
vi những cộng đồng nhất định. Các cộng đồng cơ bản
nhất, từ nhỏ đến lớn là gia đình (<em>gia</em>), nước
(<em>quốc</em>), và <em>thiên hạ</em>. Như nhà nghiên cứu Quang
Đạm đã vạch rõ, gia đình là chỗ đứng phải giữ vững
trong mối quan hệ giữa người với người, trong quan hệ giữa
mình với đất nước và thiên hạ. không bao giờ thoát ly gia
đình – đó là một điểm rất cơ bản của Khồng giáo. Không
vướng gia đình, không bị "vướng thê nhi", "vợ bìu con
ríu", làm một cá nhân độc lập – đó không phải là một
giá trị xã hội mà là một bất hạnh lớn lao. Theo Không giáo,
đau khổ bậc nhất là những người không thuộc một cộng
đồng gia đình nào, không có nhà để gắn mình vào. Đó là
bốn loại người (<em>Quan</em>: đàn ông góa hoặc lớn tuổi
không vợ; <em>Quả</em>: đàn bà góa hoặc lớn tuổi không
chồng; <em>Cô</em>: trẻ mồ côi; <em>Độc</em>: người già không
con).

Tính chất cộng đồng thể hiện ở địa vị thống trị của
gia đình đối với mỗi thành viên. Cá nhân không tồn tại như
một thực thể độc lập, không có quyền tự do cá nhân, mà
mọi mặt cuộc sống đều gắn chặt vào gia đình, phải hoàn
toàn phục tùng gia đình. Người ta chống lại, kìm hãm những
mong muốn riêng tư, coi mục tiêu sống của mỗi người là duy
trì sự tồn tại, êm ấm, hài hòa của gia đình, chủ trương
hòa tan tất cả những gì của riêng, cá nhân vào gia đình.
Tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá hành vi mỗi thành
viên là có đúng và tốt cho gia đình hay không, có được mọi
người trong gia đình tán thành hay không.

Nét khác biệt giữa gia đình Việt Nam và Á Đông nói chung với
gia đình phương Tây là ở chỗ này: nếu như gia đình phương
Tây tồn tại để nâng đỡ cá nhân, tạo ra môi trường thích
hợp để nuôi dạy cá nhân. Khi cá nhân trưởng thành, gia nhập
đời sống xã hội thì gia đình đạt được mục tiêu của
nó. Trong khi đó, ở Việt Nam, mỗi người sống để tiếp
nối, duy trì, phục vụ gia đình. Chính đặc trưng này – về
cơ cấu gia đình – mà theo chúng tôi là nổi bật nhất của
gia đình Việt Nam, chứ không phải một số tiêu chí khác,
chẳng hạn tiêu chí gia đình hạt nhân, hay mở rộng mà nhiều
nhà nghiên cứu vẫn vạch ra. – đã quy định đặc thù của
những chức năng cơ bản mà gia đình Việt Nam đảm nhận. Hơn
bốn thập niên biến thiên vừa qua, một mặt đã tạo nên
những thay đổi lớn lao và mạnh mẽ, ví dụ những nội dung
trực tiếp của giáo lý đạo Khổng (hiếu, đễ, v.v…) không
còn như cũ nữa, nhưng mặt khác, nhiều yếu tố của cấu trúc
cũ vẫn còn lại, đan xen với các yếu tố mới (chẳng hạn
tính cộng đồng vẫn còn, thậm chí được tái cấu trúc),
tạo nên đặc thù về cơ cấu và từ đó quy định chức năng
gia đình Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng hiện nay.

<h2>Chức năng xã hội hóa của gia đình</h2>

Ở Việt Nam con cái được hình dung chủ yếu để bảo đảm
sự tiếp nối gia đình, dòng dõi, kể cả đảm bảo bảo vệ
và sự sống còn của những thành viên người lớn, và người
già trong gia đình. do đó khác biệt đầu tiên giữa gia đình
Việt Nam với gia đình phương Tây trong chức năng xã hội hóa
là quan hệ giữa chủ thể và khách thể xã hội hóa, tức là
giữa cha mẹ và con cái. ở phương Tây, tiêu biểu là Mỹ, nơi
cơ cấu giá đình điển hình là hạt nhân, quan hệ cha mẹ - con
cái phổ biến là quan hệ một đối một bền vững, chủ yếu
chỉ có mẹ/ cha với con cái. Hơn thế, xã hội Mỹ đặt ra
những chế tài văn hóa nghiêm khắc chống lại việc một nhóm
đông người chăm sóc trẻ em. Trong khi đó, ở Việt Nam, một
đứa trẻ ra đời trong gia đình có cơ cấu hoặc mở rộng,
hoặc mang hình thái gốc (ông bà sống gần con cháu) không chỉ
thuộc về người mẹ trong xã hội Mỹ. trẻ em Việt Nam thuộc
về cả gia đình đông người đó, tiếp thu sự xã hội hóa
nhiều người, của một tập thể. Do đó, con cái ngoan nhờ
công cao của cả gia đình, con cái hư là do lỗi của chung,
không của riêng ai.

Điều trước tiên cần vạch rõ là cộng đồng gia đình Việt
Nam được tổ chức rất chặt chẽ. Các thành viên được dạy
phải đặt lợi ích của gia đình ở địa vị tối cao, quyền
lợi mỗi người không được trái với lợi ích gia đình, mà
phải phục tùng gia đình. muốn vậy, người ta không dạy trẻ
em tính tự lập, khả năng phân biệt đúng – sai, những điều
cần thiết nhằm phát triển nhân cách độc lập, tự chủ - mà
dạy cách nhận thức những gì được cộng đồng tán thành
hoặc không tán thành, thừa nhận hay bác bỏ.

Con người phải kìm nén, dập tắt những ý muốn, nguyện vọng
riêng tư nếu nó trái với chuẩn mực cộng đồng đã quy
định. Nếu không sẽ bị "kẻ chê, người cười", bị mất
"thể diện". khi so sánh khác biệt giữa văn hóa Nhật bản
và văn hóa phương Tây, Ruth Benedict đối lập nền "văn hóa
xấu hổ" của Nhật vốn lấy động cơ là sự xấu hổ, sợ
xã hội chê bai với "văn hóa của tội lỗi" ở phương Tây
vốn dựa vào ý thức cá nhân, nhận thấy mình tội lỗi
trước Chúa, lương tâm cắn rứt, do đó xưng tội cho nhẹ
người. Nguyên nhân của sự khác biệt đó là: một bên là
những xã hội vẫn khẳng định tính cộng đồng Nhật bản và
Việt Nam. Còn một bên là xã hội đã giải phóng cá nhân. Ở
Việt Nam, người ta đề cao cộng đồng và hạ thấp cá nhân
đến mức phi lý. Người ta thủ tiêu cá tính, cào bằng hết
thảy cố sao mỗi người như mọi người, không hơn, không kém.
Mọi người được rèn luyện từ nhỏ theo tinh thần cộng
đồng, coi sự đánh giá của cộng đồng là thước đo cao
nhất, và chỉ ứng xử cốt sao được cộng đồng tán thành,
chứ không phải theo đúng, sai. Trong hai mươi bốn người con
hiếu vẫn được truyền tụng (thập nhị tứ hiếu), người ta
ca ngợi cả "ngu hiếu", tức là hiếu một cách mù quáng,
quái gở). Ý kiến của người xung quanh hết sức quan trọng.
Trong nhà, con cái được đánh giá trước hết ở chỗ có ngoan-
theo nghĩa có vâng lời người trên – hay không, chứ hoàn toàn
không chấp nhận những trẻ em dám "lý sự". với tinh thần
ấy, kỷ luật dựa trên cơ sở những điều mà người xung
quanh, đặc biệt những những "người quan trọng" tán thành
hoặc coi là thích hợp. Con trẻ được dạy để hiểu rằng
phải ứng sử sao cho những người xung quanh nói rằng cha mẹ
hạnh phúc có đứa con như vậy. Đừng làm gì để bản thân
bị "mất mặt" cũng như gây tổn hại đến thanh danh chung
của cả gia đình, dòng họ. Con đường sống trên đời là
nhượng bộ quyền uy người trên, và ý kiến những người có
thế lực, có ảnh hưởng ở hàng xóm. Và tuân thủ mô hình
hành vi của những người xung quanh. Lối giáo dục đó khiến
trẻ em không biết tự định hướng, và khả năng phân biệt
đúng sai rất kém. Chỉ biết dựa theo gia đình và số đông.
Chính vì thế bố mẹ có thể dạy bảo con làm việc trái đạo
đức, thậm chí phi pháp. Nếu con cái không nghe theo thì dứt
khoát là "con không nghe cha mẹ trăm đường con hư", dù có
đúng lẽ phải vẫn là hư.

Một nội dung xã hội hóa hết sức quan trọng trong gia đình
Việt Nam truyền thống, bất kể gia đình quan lại, nhà nho, hay
nông dân, là phải quán riệt cho trẻ em thấm nhuần cơ cấu có
tôn ti trật tự trên dưới theo chiều dọc và tinh thần cộng
đồng chặt chẽ của gia đình. Mỗi người trong gia đình bao
giờ cũng có vị trí nhất định trong 3 thứ bậc trật tự
trên dưới như sau: 1- thế hệ; 2- lứa tuổi; 3- giới tính. Như
vậy tôn ti của gia đình đè nặng lên 2 loại người: những
người thuộc lứa tuổi trẻ hơn và thế hệ bé hơn; và những
người phụ nữ. Trẻ em được dạy dỗ là phải thấm nhuần
rằng họ chỉ là một thành viên của gia đình, họ hàng. Giá
trị của mỗi người được tính theo tiêu chuẩn là con ai,
cháu ai, dòng họ nào, chứ không phải theo tư cách cá nhận,
bản thân họ là gì, tài đức họ thế nào. Hơn thế, ngay cả
những người thành đạt, thì trong gia tộc vẫn chỉ là một
thành viên bình thường, có kẻ trên, người dưới, và phải
tuân thủ những quy tắc ứng xử theo vị trí của mình trong gia
tộc. đó không phải là gì khác hơn là sản phẩm của một xã
hội đặt cộng đồng lên trên cá nhân. Đây cũng là nét khác
biệt giữa xã hội Việt Nam với nhiều xã hội Đông Nam Á. Ví
dụ Thái lan, Một mặt Thái Lan người ta tôn trọng vị trí con
người trong xã hội. mặt khác họ công nhận phẩm giá mỗi
người, bất kể địa vị của họ ra sao.

<h2>Trẻ con được giáo dục theo Khổng giáo, tuân theo
"hiếu" "lễ"</h2>

Đi liền với cách giáo dục theo khuôn mẫu Khổng giáo là hệ
thống kiểm soát xã hội. Những biện pháp khen thưởng, trừng
phạt, gây sức ép nhằm đảm bảo sự tuân thủ những chuẩn
mực đã được thừa nhận và tránh vi phạm, lệch lạc. Những
biện pháp kiểm soát xã hội trong gia đình truyền thống Việt
Nam là nhằm phát huy cao nhất tinh thần tuân thủ thụ động.
Hòa tan cá nhân trong cộng đồng. và trong hệ thống xã hội
hóa theo tinh thần cộng đồng, cơ chế kiểm soát xã hội chủ
đạo là bắt chước, và thưởng phạt. Khác hẳn với hệ
thống xã hội hóa theo tinh thần cá nhân. Nơi chủ yếu là cơ
chế tự điều chỉnh. Khác biệt cụ thể là ở chỗ. Trong cơ
chế đầu, sự kiểm soát được thực hiện từ bên ngoài.
Phải có một lực lượng chuyên thực hiện sự kiểm soát. Và
điều buộc người ta tuân thủ là sợ bị trừng phạt. Còn
trong cơ chế thứ hai, mỗi người biết tự mình phân biệt
đúng sai, áp dụng những quy chuẩn hành vi để tự xem xét hành
vi của mình. Tự thực hiện sự kiểm soát bên trong. Mong mọi
người thừa nhận mình.

Trong cơ chế kiểm soát mang đậm tính cộng đồng như vậy,
sự trừng phạt thường rất nặng nề. Bản thân gia đình rất
chú trọng sự trừng phạt nghiêm khắc đối với mọi hành vi
của con em mà gia đình coi là trái với lợi ích gia đình.
Trừng phạt nghiêm khắc là đặc điểm nổi bật của cơ chế
kiểm soát hành vi con cái trong gia đình Việt Nam so với một
số xã hội láng giền, chẳng hạn Lào, và Thái Lan. Nhiều nhà
nghiên cứu nước ngoài đều xác nhận điểm này. Ví dụ trong
gia đình Lào, trẻ em không biết đến những chuẩn mực và quy
tắc nghiệt ngã như gia đình Trung Quốc và Việt Nam.

Cần vạch rõ: xã hội, thông qua luật pháp, coi việc vi pham uy
quyền gia đình là đ dọa trực tiếp trật tự xã hội, nên
tiếp tay rất đắc lực cho sự kiểm soát hành vi các thành
viên trong gia đình.

Để tăng cường sự kiểm soát của gia đình đối với hành vi
của các thành viên, để xiết chặt thêm mỗi thành viên vào
cuộc sống cộng đồng, gia đình, pháp luật cũ quy định tư
cách pháp nhân của gia tộc, coi gia tộc - chứ không phải mỗi
cá nhân – như một đơn vị xã hội. với đường lối "liên
đới trách nhiệm", luật pháp của các chế độ cũ chỉ nắm
lấy cộng đồng gia tộc chứ không phải từng người, buộc
mỗi thành viên trong gia tộc phải theo dõi hành vi của nhau,
chịu trách nhiệm lẫn nhau trước pháp luật. tạo thành một
hệ thống kiểm soát xã hội "trăm tay nghìn mắt". Không
những đạt hiệu quả kiểm soát cao mà còn kìm trói, không bao
giờ cho phép mỗi người có tư cách pháp nhân độc lập, trở
thành những cá nhân. Như vậy, trong xã hội Việt Nam truyền
thống, quan hệ kinh tế trong nội bộ họ hoàng có thể yếu
ớt, không đáng kể, nhưng quan hệ pháp lý lại hết sức chặt
chẽ.

Lối giáo dục nhấn mạnh tuyệt đối các chuẩn mực nhóm và
tư cách thành viên nhóm không chấp nhận việc nuôi dưỡng cái
"tôi" lấy mình làm trung tâm với tư cách là yếu tố then
chốt trong xây dựng nhân cách sẽ đem lại kết quả gì? Không
thể phủ nhận được rằng nếu mỗi thành viên trong gia đình
không có nhiều nhu cầu. Không có khát vọng riêng trái với
lợi ích cộng đồng hoặc biết kìm nén cái riêng thì không
khí gia đình như thế thật vô cùng thân thương, và đầm ấm.
Gia đình bảo đảm thỏa mãn mọi nhu cầu của mỗi thành viên.
Nhưng mặt khác, nếu đạo lý, lễ nghi khắt khe đến mức bóp
nghẹt sự sống của con người, thì không khí ấy cũng cực
kỳ khắc nghiệt. Hơn thế nữa, với lối xã hội hóa như
thế, nhiều trường hợp ra ngoài xã hội, thiếu sự kiểm soát
của gia đình, nhiều khi chỉ sự tán thành của một nhóm bạn
bè, một hội cùng tuổi, cũng dễ làm trẻ em hư hỏng. Không
chỉ khi còn nhỏ mà cả lúc đã rưởng thành, những người
được rèn luyện phải sống theo số đông, theo cộng đồng
như thế đều không có tính độc lập, tự chủ trong suy xét,
phán đoán, chỉ biết rập khuôn nghe theo số đông. Không biết
độc lập suy nghĩ, không có và không dám bảo vệ ý kiến trái
với số đông. Họ "gặp việc ác không dám phản đối, gặp
điều hay mà trái ý kiến nhiều người thì không dám theo, cho
nên chỉ thích an thường thủ phận mà tiến thủ" (câu của
Đào Duy Anh, 1939. Khổng giáo phê bình tiểu luận. Huế. Quan
hải tùng thư). Những con người chỉ biết vâng lời theo số
đông, "ai sao tôi vậy" như thế không phải giàu tinh thần
đoàn kết, tinh thần tập thể mà chính là con đẻ,là sản
phẩm của lối xã hội hóa đặt cộng đồng lên trên hết
thảy, bóp nghẹt tính độc lập, tự chủ từ trong ý nghĩ trở
đi. Và lý tưởng của loại gia đình như thế không phải là
sự biến đổi phát triển mà là hòa thuận, ổn định đến
mức trì trệ, bảo thủ.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140610/mai-huy-bich-vi-sao-nguoi-ta-phai-thoat-khong),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét