Lê Công Định - Việt Nam có tự do báo chí?

<blockquote>Sài Gòn – Chiều hôm qua, tại hội trường Giêrađô,
nhà mục vụ DCCT, bài tham luận <b ><i>Việt Nam có tự do báo
chí?</i></b> của luật sư <b >Lê Công Định</b>, tù nhân tư
tưởng, đã được linh mục Hoàng Vũ công bố trong hội thảo
<i >Tự do thông tin ở Việt Nam dưới ánh sáng giáo huấn xã
hội Công giáo</i>. Bài tham luận được tất cả các tham dự
viên tán thưởng và đồng tình.</blockquote>

<h1>Thế nào là một nền báo chí tự do và độc lập?</h1>

<div class="boxleft320"><img
src="http://www.chuacuuthe.com/images2013/140502001.jpg" width="400"><div
class="textholder">Hình lấy từ trang facebook của tác
giả</div></div>
Một nền báo chí tự do và độc lập thực sự là thành tố
quan trọng của một xã hội tự do. Sẽ không có xã hội tự do
nếu báo chí chưa độc lập khỏi chính quyền. Luật lệ về
báo chí giúp thiết đặt những quy tắc bảo đảm sự tự do
và độc lập đó, chứ không phải là phương tiện để chính
quyền kiểm soát và áp đặt quan điểm của mình về nội dung
thông tin, cũng như cách thức đưa tin và bình luận các sự
kiện kinh tế, chính trị và xã hội.

Thông tin cung cấp cho công chúng không phải là những sản phẩm
đã được nhào nặn và định hướng cách hiểu từ bất cứ
ai và thế lực nào. Tất nhiên không tránh được sự thiên vị
và suy nghĩ chủ quan của người cầm bút và chủ bút một tờ
báo khi xử lý và đưa tin. Vai trò của luật lệ về báo chí do
vậy là thiết lập một hệ thống quy tắc đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của các cá nhân và tổ chức trong xã hội.

Đạo đức nghề nghiệp của nhà báo không đồng nghĩa với
trách nhiệm đưa tin theo ý chí của chính quyền hoặc quan
chức. Một khi tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, nhà báo không
phải sợ hãi khi thông tin mình đã đưa trái với "định
hướng" hoặc đụng chạm đến cơ quan công quyền dù ở cấp
nào, bởi lẽ vai trò mặc nhiên của báo chí là đưa tin và
chính quyền phải tôn trọng điều đó.

Sự thật là tiêu chí tối thượng của một nền báo chí tự
do và độc lập cho dù nhà báo và tờ báo phải trả giá thế
nào để bảo vệ sự thật mà mình biết. Nhà báo phải xác
minh sự thật và đưa tin về điều đó. Báo chí không bao giờ
được phép đưa tin sai sự thật khi biết rõ đâu là sự
thật. Đấy chính là trách nhiệm quan trọng nhất của báo
giới.

Vậy, với quan niệm phổ biến như vậy, liệu Việt Nam thực
sự có tự do báo chí? Hỏi tức là trả lời.

<b>Ai giám sát báo chí?</b>

Khác với cách hiểu lâu nay ở Việt Nam, việc giám sát báo chí
không phải của chính quyền, mà của chính báo giới và độc
giả.

Như đã nói trên, nhà báo phải tuân thủ các quy tắc đạo
đức nghề nghiệp được ấn định bởi luật pháp và quy tắc
riêng của một tờ báo. Có thể nói, đạo đức nghề nghiệp
là cơ chế giám sát tối cao hoạt động báo chí. Cũng như
nghề luật sư, những quy tắc đạo đức nghề nghiệp chủ
yếu giúp giải quyết vấn đề xung đột lợi ích tài chính hay
các phân tranh lợi ích khác. Mọi thiên vị dưới áp lực của
tiền bạc hay quyền lực đều bị cấm đoán.

Ngoài ra, độc giả sẽ dựa vào tiêu chí sự thật để đặt
lòng tin vào một tờ báo, qua đó giám sát cách thức đưa tin
và bình luận các sự kiện kinh tế, chính trị và xã hội của
tờ báo. Bình luận sự kiện có thể thế này thế kia, tùy
thuộc vào kinh nghiệm và kiến thức của nhà báo, nhưng cố
tình bỏ sót, bịa đặt hoặc bóp méo sự kiện thực tế sẽ
bị độc giả xét đoán nghiêm khắc.

Sự tự do và độc lập của báo chí không cho phép bất kỳ
sự kiểm duyệt vô lý nào từ phía chính quyền dù dưới danh
nghĩa thiết lập và duy trì ổn định trật tự xã hội. Mọi
sự ngụy biện nhằm áp đặt sự kiểm soát tùy tiện như vậy
trên thực tế sẽ thủ tiêu một nền báo chí tự do và độc
lập như có thể thấy ở những thể chế độc tài và toàn
trị.

Chính quyền thường lập luận rằng báo chí không bao giờ
được phép đặt mình cao hơn pháp luật. Có vẻ đúng, nhưng
đó là "pháp luật" gì? Xin thưa, đó là loại "pháp
luật" được đặt ra theo hướng che đậy và cho phép sự can
thiệp của nhà cầm quyền vào hoạt động báo chí. Tất nhiên,
mỗi nước có quy tắc pháp lý và đạo đức khác nhau, song
điều đó không có nghĩa rằng nhà cầm quyền tại một nước
có quyền phớt lờ những chuẩn mực văn minh chung được toàn
thế giới công nhận để biện minh cho sự kiểm duyệt báo chí
một cách võ đoán của mình nhân danh luật pháp và trật tự
công.

Giáo sư Jane Kirtley (người Mỹ) đã viết: "Một nền báo chí
tự do cũng có thể có khiếm khuyết và đôi khi không đáp ứng
được hết những gì người ta kỳ vọng về nó. Nhưng những
nền dân chủ đang phát triển khắp thế giới vẫn hàng ngày
chứng tỏ rằng họ có đủ dũng khí và tự tin để chọn sự
hiểu biết hơn là ngu dốt, chọn sự thật hơn là những thông
tin tuyên truyền, bằng cách chấp nhận và áp dụng lý tưởng
về báo chí tự do. Sống với tự do báo chí không dễ. Nhưng
tôi biết rằng tôi sẽ không thể sống nếu không có điều
đó."

<b>Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do ngôn luận và tự
do báo chí</b>

Nền tảng của một nền báo chí tự do và độc lập là quyền
tự do ngôn luận của công dân. Quyền tự do ngôn luận là một
quyền hiển nhiên của những ai có tư cách làm người, được
hiến pháp quốc gia công nhận và ghi nhận, chứ không phải
được ban phát. Khác với Việt Nam, luật pháp các nước dân
chủ nghiêm cấm quốc hội hay chính quyền thông qua các đạo
luật hay đặt ra các quy định hạn chế hoặc vi phạm tự do
ngôn luận và tự do báo chí, dù dưới hình thức công nhiên hay
ngụy trang nào.

Tuyên ngôn Toàn cầu về Nhân quyền của Đại hội đồng Liên
hợp quốc năm 1948 đã khẳng định như sau tại Điều 19:
"Mọi người đều có quyền tự do có chính kiến và tự do
ngôn luận; quyền này bao gồm tự do giữ các quan điểm mà
không bị can thiệp, tự do tìm kiếm, tiếp nhận và chia sẻ
thông tin và ý tưởng thông qua bất kỳ phương tiện truyền
thông nào và không bị giới hạn."

Điều 10 của Công ước Châu Âu về Nhân quyền ghi nhận:
"Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao
gồm quyền tự do được giữ các quan điểm, tiếp nhận và
chia sẻ thông tin mà không bị can thiệp bởi chính quyền và
không bị giới hạn. […]"

Ngoài ra, Công ước Châu Âu về Nhân quyền còn nêu rõ: "Việc
thực hiện các quyền tự do này, do chúng bao hàm cả quyền
lợi và nghĩa vụ, có thể phải chịu sự chi phối của các
thủ tục, điều kiện, hạn chế hoặc hình phạt do luật pháp
quy định và là điều cần thiết trong một xã hội dân chủ,
vì lợi ích an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, hay an toàn xã
hội, nhằm ngăn ngừa tội phạm, mất trật tự xã hội, nhằm
bảo vệ sức khỏe, tinh thần, bảo vệ thanh danh hay quyền của
những người khác, nhằm ngăn ngừa việc phát tán thông tin
mật, bảo đảm thẩm quyền và tính không thiên vị của ngành
tư pháp."

Như vậy, luật pháp quốc tế bảo đảm quyền tự do ngôn
luận dù cũng thừa nhận một số cơ sở pháp lý để nhà
nước hạn chế tự do ngôn luận nhằm bảo vệ các lợi ích
xã hội và cá nhân chính đáng.

Nhiều công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác đều
công nhận tương tự về quyền tự do ngôn luận, đặc biệt
là Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị. Dù có
thể khác nhau về ngôn ngữ cụ thể song tất cả đều thừa
nhận tự do ngôn luận là quyền cơ bản của con người.

Hiến pháp của các quốc gia cũng công nhận quyền tự do ngôn
luận. Chẳng hạn, Điều 25 của Hiến pháp Vương quốc Bỉ năm
1831 ghi rõ: "Báo chí được tự do; không bao giờ được
thiết lập sự kiểm duyệt nào; không được yêu cầu an ninh
từ các tác giả, các nhà xuất bản và các nhà in. Khi tác giả
của một tác phẩm báo chí được biết rõ và đang cư trú ở
Bỉ, không được truy tố nhà xuất bản, nhà in hay nhà phát
hành."

<b>Luật pháp quốc tế và quốc gia về tự do thông tin</b>

Bên cạnh tự do ngôn luận, các công ước, hiệp ước và tài
liệu quốc tế cũng công nhận tự do thông tin như là quyền cơ
bản của con người. Tự do thông tin là quyền hợp hiến tại
khoảng 80 quốc gia trên thế giới. Tất nhiên, tại nhiều
nước, đặc biệt là Việt Nam, các nhà báo vẫn gặp khó khăn
trong việc thực hiện quyền tự do thông tin của mình.

Luật Báo chí Thụy Điển năm 1766 được xem là bộ luật đầu
tiên về tự do thông tin. Nhiều nền dân chủ đang phát triển
ở Đông Âu và Mỹ châu La Tinh cũng đưa quyền tự do thông tin
vào hiến pháp của mình.

Cũng như ở hầu hết các nước trên thế giới, tại Mỹ mọi
công dân đều có thể yêu cầu tiếp cận thông tin theo Đạo
luật Tự do Thông tin năm 1966, theo đó mọi người trên thế
giới đều có quyền truy cập thông tin tại Mỹ theo luật pháp
Mỹ, mà không cần phải là công dân Mỹ hay thường trú nhân
ở Mỹ.

Tất nhiên, dù công nhận quyền tự do thông tin, luật về tự
do thông tin tại các quốc gia đều ấn định các trường hợp
ngoại lệ, theo đó một số loại thông tin mật không thể công
bố rộng rãi. Chẳng hạn, những thông tin liên quan đến đời
sống riêng tư của người khác thuộc loại mật mà báo chí
phải tôn trọng.

<b>Luật pháp Việt Nam về tự do ngôn luận, tự do báo chí và
tự do thông tin</b>

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định tại Điều 25 rằng:
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp
cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định." (Nhấn mạnh
phần gạch chân)

Tuy nhiên, hành xử thực tế của chính quyền thường lệch
lạc so với những tuyên bố hoa mỹ. Nhà nước Việt Nam
thường bào chữa cho việc áp dụng những nguyên tắc quốc tế
theo cách riêng của mình nhằm hạn chế quyền tự do ngôn luận
và tự do báo chí. Tuy vẫn dẫn chiếu những điều khoản trong
các công ước, hiệp ước và tài liệu quốc tế khác mà Việt
Nam tham gia ký kết, nhưng họ luôn tìm cách giải thích theo ý
riêng và tự đặt ra những quy định hạn chế và tước đoạt
các quyền của người dân theo những điều ước quốc tế
đó.

Quả thật, câu cuối của Điều 25 Hiến pháp Việt Nam năm 2013
(ghi rằng "việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định") là minh chứng cho cách sử dụng những quy định luật
pháp, dưới Hiến Pháp, để hạn chế và tước đoạt quyền
tự do ngôn luận của công dân.

Tệ hại hơn, Bộ Luật Hình Sự Việt Nam, đặc biệt là các
Điều 88 (quy định về "Tội tuyên truyền chống Nhà nước
Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam"), Điều 258 (quy định "Tội
lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công
dân"), Điều 263 (quy định về "Tội cố ý làm lộ bí mật
Nhà nước") và Điều 264 (quy định về "Tội vô ý làm lộ
bí mật Nhà nước"), từ nhiều năm nay được sử dụng làm
công cụ pháp lý để chính quyền bắt giam những ai công khai
thực thi quyền tự do ngôn luận của mình bằng cách đưa và
bình luận các tin tức mà chính quyền không muốn công chúng
biết.

Mặt khác, luật tiếp cận thông tin vẫn chưa có nên dự án
luật đang được Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo và có thể
được trình vào năm 2016. Tuy nhiên, một văn kiện pháp quy là
Nghị Định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 được Chính phủ ban
hành năm vừa rồi đã bị chỉ trích kịch liệt bởi dư luận
trong và ngoài nước, bởi đó là văn kiện pháp lý đầu tiên
công khai ấn định những rào cản đối với quyền trao đổi
và tiếp cận thông tin của mọi thành phần trong xã hội.

<b>Kết luận</b>

Bài xã luận mang tựa đề "Điều trần … một phía, làm sao
khách quan?" đăng trên báo Quân đội Nhân dân Online số Chủ
nhật, ngày 27/04/2014, có đoạn viết: "Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục khẳng định, mở
rộng hơn quyền tự do báo chí. Xét cả về số lượng và
chất lượng, Việt Nam đang có một nền báo chí phát triển và
thực hiện tốt tự do báo chí."

Quả thật, các bản Hiến pháp Việt Nam trải qua các thời kỳ
đều ghi nhận quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí. Tuy
nhiên, điều đó chỉ có ý nghĩa nếu nhà cầm quyền thực tâm
tôn trọng quyền hiến định này mà không cố tình tạo ra
những giới hạn về phương diện pháp lý nhân danh "an ninh
quốc gia" (mà kỳ thực là an ninh của đảng cầm quyền).

Số lượng tờ báo trên cả nước hoàn toàn không có giá trị
gì khi tất cả đều chỉ đưa tìn theo định hướng của chính
quyền. Biện minh về tự do báo chí nếu chỉ dựa trên số
lượng và chất lượng các tờ báo, thì đơn thuần là sự
ngụy biện không hơn không kém. Vấn đề chính của quyền tự
do ngôn luận là người dân có được tự do "mở miệng" mà
không bị bộ máy công an quấy nhiễu hay không mà thôi.

<b>Lê Công Định</b>, <i>tù nhân tư tưởng</i>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140502/le-cong-dinh-viet-nam-co-tu-do-bao-chi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét