Nguyễn Thị Mai Hoa - Katyn – Giải mã bí ẩn lịch sử Ba Lan – Liên Xô

<strong>(Bài đọc tham khảo)</strong>

<div class="boxleft300"><img
src="http://hieuminh.files.wordpress.com/2010/04/katyn_massacre_1.jpg?w=300&h=180"
/><div class="textholder">Mồ chôn tập thể ở Katyn</div></div>Trong
những năm tháng tồn tại, Liên Xô đã có không ít bí mật,
trong đó, có những bí mật có khả năng ảnh hưởng đến uy
tín và an ninh quốc gia; vì thế, được che chắn, bảo vệ một
cách hết sức cẩn trọng với nỗ lực của cả hệ thống
chính trị. Chỉ sau khi Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết sụp
đổ, với độ lùi thời gian và dưới tác động của các yếu
tố khách quan, chủ quan, những bí mật đó mới dần được hé
lộ. Một trong những bí mật như vậy có tên gọi "<em>Sự
kiện bi thảm Katyn</em>".

<strong>1- Sự biến mất đầy bí ẩn của những tù binh Ba
Lan</strong>

Cho đến mùa Hè năm 1939, I.V. Stalin có đầy đủ lý do để
nghi ngờ Pháp và Anh không thực sự muốn liên minh quân sự
với Liên Xô. Việc Ba Lan từ chối cho phép Hồng quân đóng
trên đất Ba Lan trở thành trở ngại chính cho việc phòng thủ
của Liên Xô; việc hình thành liên minh Nga-Anh-Pháp bảo vệ Ba
Lan khó thành hiện thực… những diễn biến đó khiến lãnh
đạo Liên Xô ngả sang đề nghị an ninh của Hitler. Ngày
23-08-1939, Ngoại trưởng V.M. Molotov đại diện cho Liên Xô và
Ngoại trưởng J.V.Ribbentrop – đại diện cho nước Đức Quốc
xã ký kết Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau (còn được
biết đến dưới cái tên Molotov–Ribbentrop hay Hiệp ước
Hitler-Stalin) kèm với một Nghị định thư bí mật. Ngoài việc
cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau và giữ thái độ
trung lập trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục
tiêu những hành động quân sự của bên thứ ba bất kỳ, Liên
Xô và Đức còn thống nhất phân vùng ảnh hưởng đối với
các nước Phần Lan, Estonia, Latvia, Lithuania, Roman; đồng thời,
thỏa thuận phân chia Ba Lan. Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan
và ngày 17-9-1939, Hồng quân Liên Xô tiến vào miền Đông Ba Lan,
việc phân chia lãnh thổ của Ba Lan giữa Liên Xô và Đức
được hoàn thành – điều đó cũng có nghĩa là cần "thiết
lập những trật tự nhất định" tại Ba Lan. Bắt đầu từ
thời điểm đó, những sĩ quan Ba Lan bất hợp tác với Liên
Xô, những cảnh sát, hiến binh, điệp viên, chủ xưởng, chủ
đất, viên chức chính quyền cũ, thậm chí cả những người
tị nạn, dân thường Ba Lan… được chuyển đến giam giữ
tại các trại đặc biệt ở vùng Ostashkov, Kozielsk và Starobilsk
(Liên Xô), song không được hưởng những quy chế Công ước
Geneva đối với tù binh.

Một khoảng thời gian sau đó, những tù binh này bỗng bặt
tin,"biến mất" một cách bí ẩn, thân nhân không còn nhận
được tin tức của họ, thư từ, quà, bưu phẩm gửi cho các
tù binh đều bị chuyển trả lại. Mọi nỗ lực tìm kiếm
thông tin về các tù binh, về nơi họ bị giam giữ đều rơi
vào vô vọng. Tháng 11-1941, trong dịp tiếp kiến I.V.Stalin, Đại
sứ Ba Lan Stanislaw Kot đã hỏi về số phận những tù nhân Ba
Lan, song I.V.Stalin lảng tránh trả lời bằng cách thay đổi chủ
đề câu chuyện. Tháng 12-1941, một lần nữa,Tướng Wladislaw
Anders<b> - </b>Tổng tư lệnh Quân đội Ba Lan quay trở lại vấn
đề trên, song I.V.Stalin một mực khăng khăng: "Những tù binh
Ba Lan đã được ân xá hết, có thể do những khó khăn về
phương tiện giao thông, nên họ chưa thể về tới Ba Lan"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn1"
name="_ednref1">[1]</a>. Cho tới mùa Xuân năm 1942, số phận các tù
nhân Ba Lan là chủ đề của nhiều cuộc thảo luận giữa chính
phủ Liên Xô và Ba Lan. Nhiều lần, I.V.Stalin khẳng định dứt
khoát: "Không có bất kỳ một người Ba Lan nào trong các nhà
tù, trại tạm giam của Liên Xô, ngoại trừ những tù hình sự
hoặc những tội phạm có dính líu đến phát-xít Đức"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn2"
name="_ednref2">[2]</a>. Thậm chí, có lần I.V.Stalin còn nói rằng,
số tù binh này đã trốn thoát tới Mông Cổ<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn3"
name="_ednref3">[3]</a> (?!).Ngày 28-1-1942, Bộ trưởng Rachinsky thay
mặt chính phủ Ba Lan trao cho Đại sứ Liên Xô Bogomolov<em> Bản
ghi nhớ</em> về sự mất tích khó hiểu của hàng chục ngàn sĩ
quan và công dân Ba Lan. Đáp lại, câu trả lời từ phía Liên
Xô vẫn hết sức mập mờ, mâu thuẫn.

Sự biến mất phi lý của hàng chục ngàn con người khiến
ngày càng có nhiều tổ chức kháng chiến Ba Lan vào cuộc. Các
nỗ lực điều tra trở nên tích cực hơn từ năm 1943, có
điều, chính quyền Xô-viết – từ đầu đến cuối – vẫn
bác bỏ mọi giả thuyết về trách nhiệm và sự can dự của
mình.

<strong>2- Những bí mật dần phát lộ</strong>

Năm 1943, quân đội Đức Quốc xã tìm thấy hàng loạt ngôi
mộ tập thể tại rừng Katyn (cách thành phố Smolensk 18 km về
phía Tây) sau khi chiếm đóng khu vực nàyvào năm 1941. Trong
những ghi chép của mình, Bộ trưởng Tuyên truyền Đức J.
Goebbels gọi sự kiện này là "món quà hiếm có của số
phận", "con át chủ bài", đảm bảo cho một chiến dịch
tuyên truyền nhiều mặt chống lại Liên Xô. Quả bom Katyn
"đủ để gây ra một đòn đau đớn, đánh mạnh vào tâm tư,
tình cảm của những người dân Ba Lan ủng hộ liên minh chống
phát-xít, nổ tung vào mối liên kết lỏng lẻo giữa chính phủ
Liên Xô và Ba Lan"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn4"
name="_ednref4">[4]</a>.

Ngày 18-2-1943, người Đức bắt đầu đào các ngôi mộ tập
thể, đến ngày 13-4-1943, có chừng 400 thi thể được khai
quật. Cũng trong ngày 13-4-1943, Đài phát thanh Berlin đưa tin
nước Đức tìm thấy hơn 10.000 thi thể các sĩ quan Ba Lan bị
giết tại vùng Katyn, khẳng định "đây chính là thi thể các
sĩ quan Ba Lan bị Liên Xô bắt làm tù binh khi chiếm đóng miền
Đông Ba Lan"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn5"
name="_ednref5">[5]</a>. Ngày 17-4-1943, chính phủ Ba Lan lưu vong ra
<em>Tuyên bố</em> "lên án mọi tội ác chống lại các công
dân Ba Lan"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn6"
name="_ednref6">[6]</a>, yêu cầu chính phủ Liên Xô một lời giải
thích về vụ việc này và đề nghị Hội Chữ thập đỏ quốc
tế tham gia làm rõ vấn đề. Ngày 21-4-1943, TASS ra <em>Tuyên bố
</em>với lập trường cứng rắn: "Một chiến dịch chống
Liên Xô bắt đầu trên báo chí Đức và Ba Lan – thực tế này
cho thấy chiến dịch bôi nhọ Liên Xô được tiến hành bởi
sự thỏa thuận bẩn thỉu với những kẻ xâm lược Đức"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn7"
name="_ednref7">[7]</a>. Trong một động thái quyết liệt hơn, lãnh
đạo Liên Xô đã cảnh báo các đồng minh Anh và Mỹ về ý
định cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính phủ Ba Lan
Sikorski, với lý do: "Thời gian gần đây, hành vi của Chính
phủ Ba Lan đối với Liên Xô hoàn toàn bất thường, phá vỡ
tất cả các quy tắc và chuẩn mực của quan hệ đồng minh.
Chiến dịch vu khống chống Liên Xô được phát xít Đức đưa
ra liên quan đến việc các sĩ quan Ba Lan bị giết trong khu vực
Smolensk, trên lãnh thổ Đức chiếm đóng, lập tức được
chính phủ Ba Lan nắm lấy và thông tin rầm rộ trên báo chí
(…). Tất cả những điều đó khiến chính phủ Liên Xô không
thể không nhận thấy chính phủ Ba Lan đang đi vào con đường
thông đồng với chính phủ Hitler, muốn chấm dứt quan hệ
đồng minh và trở nên thù địch với Liên Xô"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn8"
name="_ednref8">[8]</a>. Quả thật, J. Goebbels đã dự đoán không
sai, "quả bom chính trị Katyn" đã phát nổ, vấn đề Katyn
trở thành một trong những "điểm đau đớn" trong quan hệ
Liên Xô – Ba Lan không chỉ tại thời điểm đó, mà còn mãi
về sau này.

Với mục tiêu hạ uy tín và tuyên truyền về sự tàn bạo
của Liên Xô đối với tù binh, ngày 16-4-1943, phía Đức mời
Hội Chữ thập đỏ quốc tế và đại diện một số tổ chức
xã hội Ba Lan trong vùng bị phát-xít Đức chiếm đóng đến
tham dự việc khai quật và khám nghiệm tử thi tại 8 ngôi mộ
tập thể. Trong số các xác chết được khai quật, người ta
tìm thấy tử thi hai vị tướng Ba Lan Bronisław Bohatyrewicz và
Mieczysław Smorawiński. Từ ngày 15-4 đến ngày 15-6-1943, tổng
cộng hơn 4.100 xác chết được khai quật; 2.800 tử thi được
nhận dạng<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn9"
name="_ednref9">[9]</a>. Công việc thu thập tư liệu và nhận dạng
tử thi được tiến hành một cách khoa học, chú trọng luận
giải cách thức và loại hình hung khí thực hiện thảm sát.
Đã thu thập được nhiều luận cứ chứng minh cho sự vô tội
của người Đức: Những thư từ còn lại trong thi thể các
nạn nhân đều có thời gian dừng lại ở năm 1940; tuổi của
những cây cối mọc trên mộ, các chỉ số đo đạc phân tử
canxi trên hộp sọ tử thi… đều cho chung một kết quả về
thời điểm của vụ thảm sát – năm 1940, khi mà người Đức
chưa có mặt ở vùng này.

Ngày 3-6-1943, việc khai quật bị dừng lại do diễn biến
chiến sự, nhưng những phân tích, kết luận của toàn bộ quá
trình đã được nước Đức kịp xuất bản thành "<em>Tập
tài liệu chính thức về vụ thảm sát tại Katyn</em>"
(Amtliches Material zum Massenmord von Katyn, Berlin, 1943), khẳng định
Liên Xô phải chịu hoàn toàn tránh nhiệm về cái chết của
11.000 tù nhân Ba Lan<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn10"
name="_ednref10">[10]</a>. Tài liệu này được dịch ra hầu hết
các ngôn ngữ châu Âu, lưu hành trên các vùng Đức chiếm đóng
và ở các nước đồng minh của Đức.

Sau khi Hồng quân tiến vào vùng Smolensk và đẩy lùi quân đội
Đức, Liên Xô thành lập một Ủy ban đặc biệt điều tra tội
ác của quân đội phát-xít Đức trong rừngKatyn. Tháng 1-1944,
Ủy ban này công bố một loạt "chứng cứ" chứng minh vụ
thảm sát Katyn là do quân đội Đức gây ra. Năm 1945, I.V. Stalin
quyết định tháo "nút thắt Katyn" bằng cách đưa vụ thảm
sát ra Toà án Quân sự tại Nürnberg. Công tố viên Liên Xô,
Tướng R.A. Rudenco đã buộc tội phát xít Đức thảm sát 11.000
tù binh Ba Lan tại Katyn; tuy nhiên, Toà án Quân sự tại Nürnberg
đã không đi đến một phán xét chung cuộc, vì phía Liên Xô
không đưa ra được những bằng chứng thuyết phục. Ngày
22-12-1955, sau nhiều nỗ lực vận động của cộng đồng
người Ba Lan tại Mỹ, một Ủy ban của Thượng viện Hoa Kỳ
đề nghị chính phủ Hoa Kỳ đưa vụ Katyn lên Đại hội đồng
Liên Hiệp Quốc và buộc tội Liên Xô trước Tòa án Quốc tế
(International Court of Justice) tại Netherlands, song đề nghị này
không được chính phủ Mỹ chấp thuận.

Năm 1953, I.V. Stalin chết, bắt đầu "thời kỳ tan băng
Khrushchev", thắp lên hy vọng về một kỷ nguyên mới trong quan
hệ quốc tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa, song để
đảm bảo "sự thống nhất và đoàn kết", Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản Liên Xô N. Khrushchev đã không vượt qua
"phương pháp áp lực trực tiếp" đối với nước láng
giềng Ba Lan; vì thế, "vấn đề Katyn" không thể khêu lên.
Phục vụ mục tiêu nói trên, cuối những năm 50 (XX), dưới
chỉ đạo của N. Khrushchev, A.Shlepin<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn11"
name="_ednref11">[11]</a> đã bí mật nghiên cứu hồ sơ vụ Katyn.
Ngày 3-03-1959, A.Shlepin đệ trình <em>Văn bản N-632-SH</em>
(Н-632-Ш), kiến nghị tiêu huỷ 21.857 cặp tài liệu về các
nạn nhân Katyn – những tài liệu như A.Shlepin giải thích,
chẳng những "không có bất kỳ ý nghĩa thực tiễn cũng như
giá trị lịch sử đối với chính phủ Liên Xô (…) và có lẽ
chúng cũng không phải là mối quan tâm thực sự đối với
những bạn bè Ba Lan"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn12"
name="_ednref12">[12]</a>; trái lại, nếu ngẫu nhiên bị phát
hiện, "có thể dẫn đến những hậu quả vô cùng bất lợi
cho Nhà nước Xô-viết"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn13"
name="_ednref13">[13]</a>. A. Shlepin đề nghị giữ lại những hồ
sơ quan trọng nhất: "Biên bản cuộc họp Troika<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn14"
name="_ednref14">[14]</a> NKVD đồng ý xử bắn tù binh Ba Lan và
những văn bản thực hiện quyết định đó. Do khối lượng
của các tài liệu này không đáng kể, nên có thể lưu trữ
chúng trong một cái cặp đặc biệt (…) phòng trường hợp
phát sinh những chất vấn từ Trung ương Đảng Cộng sản Liên
Xô hoặc chính phủ Liên Xô"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn15"
name="_ednref15">[15]</a>. Ngay sau đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô đã chuẩn y đề nghị của A. Shlepin, chỉ
giữ lại những hồ sơ quan trọng, được tập hợp thành một
bộ "<em>Hồ sơ đặc biệt № 1</em>". "<em>Hồ sơ đặc
biệt № 1</em>" được bảo quản theo chế độ tuyệt mật và
chỉ những người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản
Liên Xô mới có quyền tiếp cận.

Trong những năm 1971-1976, một số nước phương Tây (đặc
biệt là nước Anh) liên tục đòi làm sáng tỏ vụ việc Katyn,
đề nghị đưa ra Tòa án Quốc tế tại Netherlands. Phản ứng
với "chiến dịch chống đối, bôi nhọ Nhà nước Xô viết
dựa trên việc bóp méo sự thật lịch sử về các thủ phạm
thực sự của thảm kịch Katyn, nhằm làm căng thẳng tình hình
quốc tế"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn16"
name="_ednref16">[16]</a> – như Liên Xô nhiều lần khẳng định,
năm 1978, Liên Xô dựng bia tưởng nhớ nạn nhân tại Katyn với
dòng chữ: "<em>Nạn nhân của chủ nghĩa phát xít – những sĩ
quan Ba Lan bị bắn chết bởi quân đội Hitler năm 1941</em>".

Cho đến trước khi Liên Xô thực hiện cải cách (perestroika)
năm 1986, "câu chuyện Katyn" vẫn là điều húy kị, nhạy
cảm, bị nghiêm cấm nhắc tới trong các tranh luận xã hội
với lý do "ảnh hưởng tiêu cực đến tình cảm dân tộc và
tình hữu nghị Liên Xô-Ba Lan (…) gây nên những "vết đen"
trong quan hệ hai nước"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn17"
name="_ednref17">[17]</a>.

Tiến hành "perestroika", thực hiện "glasnost", với
"người đồng minh Ba Lan", Tổng Bí thư Đảng Cộng sản
Liên Xô M. Gorbachev đặt mục tiêu "phát triển quan hệ chặt
chẽ, vững chắc, đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau nhằm cùng tiến
hành cải cách một cách tối ưu"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn18"
name="_ednref18">[18]</a>. Trong tiến trình thắt chặt toàn diện
quan hệ Liên Xô – Ba Lan, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên
Xô M. Gorbachev và Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Ba Lan
W.Jaruzelski ký <em>Hiệp định về hợp tác Liên Xô – Ba Lan
trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và khoa học</em> (1986); theo
đó, hai bên "chú trọng cùng nghiên cứu lịch sử quan hệ
giữa hai nước, hai Đảng, hai dân tộc, không để tồn tại
"những vết đen" trong lịch sử hai nước, nhằm tăng cường
tình đoàn kết, chống lại những luận điệu chia rẽ"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn19"
name="_ednref19">[19]</a>. Trên quan điểm "không để lịch sử
đốt lên hận thù dân tộc", W.Jaruzelski bày tỏ mong muốn
"những trang sử quan hệ Liên Xô – Ba Lan phải được nhìn
nhận một cách thực sự cởi mở và trung thực"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn20"
name="_ednref20">[20]</a>. Tiếp nối dòng chảy sự kiện, ngày
19-5-1987, tại Moscow diễn ra phiên họp toàn thể đầu tiên Ủy
ban Liên Xô – Ba Lan về lịch sử quan hệ song phương, "vấn
đề Katyn" được đưa vào chương trình nghị sự, song những
nghiên cứu về sự kiện này diễn tiến khá trì trệ, "bí
mật Katyn" được khai lộ một cách chậm chạp, bị chi phối
bởi tư tưởng giáo điều, bởi các yếu tố chính trị trong
nội bộ mỗi nước và trong quan hệ Liên Xô – Ba Lan. Đến
ngày 13-4-1990, sau rất nhiều chần chừ, một số tư liệu lưu
trữ liên quan đến sự kiện Katyn mới được chuyển giao cho
Tổng thống W.Jaruzelski nhân chuyến thăm Liên Xô. Ngày 13-4-1990,
TASS ra <em>Tuyên bố chính thức </em>thừa nhận trách nhiệm của
Liên Xô trong "thảm kịch Katyn"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn21"
name="_ednref21">[21]</a>, nói rõ: "Tài liệu tìm thấy trong kho
lưu trữ cho phép kết luận về vai trò, trách nhiệm của Beria,
Merkulov và các đồng sự"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn22"
name="_ednref22">[22]</a>. TASS đồng thời bày tỏ sự hối tiếc
sâu sắc về sự kiện bi thảm Katyn, gọi đó là "một trong
những tội ác khủng khiếp nhất của chủ nghĩa Stalin"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn23"
name="_ednref23">[23]</a>.

Tháng 6-1991, B. Yeltsin trở thành Tổng thống Liên bang Nga và
ngay lập tức đã nhận thấy "vấn đề Katyn" – vào thời
điểm đó - có thể có lợi cho những diễn biến chính trị
nội bộ của nước Nga liên quan đến việc xóa bỏ Điều 6
trong Hiến pháp về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
đặt Đảng Cộng sản Liên Xô ra ngoài vòng pháp luật<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn24"
name="_ednref24">[24]</a>. "Hồ sơ Katyn" chính là một chứng cứ
thuyết phục cho B.Yeltsin "luận tội" chủ nghĩa Stalin và
Đảng Cộng sản Liên Xô. Nhằm chứng minh cho tính bất hợp
pháp củaĐảng Cộng sản Liên Xô, theo lệnh của B.Yeltsin, kho
lưu trữ tư liệu Đảng Cộng sản Liên Xô được mở, hơn
6.000 các tài liệu tuyệt mật được giải mã, kể cả bộ sưu
tập tài liệu về vụ thảm sát Katyn<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn25"
name="_ednref25">[25]</a>. Ngày 24-9-1992, "<em>Hồ sơ đặc biệt №
1</em>" được mở ra và trước tính chất nghiêm trọng của
nó, Tổng thống B.Yeltsin đã có một quyết định nhanh chóng:
Lệnh chuyển ngay lập tức toàn bộ những tài liệu "chết
người" này cho Ba Lan; đồng thời, chuyển một bản sao đến
Tòa án Hiến pháp và Viện kiểm sát tối cao<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn26"
name="_ednref26">[26]</a>.Ngày 14-10-1992, "<em>Hồ sơ đặc biệt №
1</em>" được đại diện chính phủ Nga trao cho Tổng thống Ba
Lan Walesa và nội dung của nó nhanh chóng được công bố trước
công luận Ba Lan. Sau sự kiện này, ngày 15-10-1992, trả lời
phỏng vấn của Đài truyền hình Ba Lan, B.Yeltsin "hào hứng
nói về những tội ác khủng khiếp của chủ nghĩa Stalin, bày
tỏ hy vọng rằng nó sẽ không còn là điểm nghẽn trong quan
hệ song phương Nga - Ba Lan"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn27"
name="_ednref27">[27]</a>.

<strong>3</strong>- <strong>Toàn cảnh sự kiện</strong>

Những diễn giải trên đây cho thấy, đến trước năm 1992,
trên các văn bản chính thức của Liên Xô, kẻ bị buộc tội
gây ra vụ thảm sát Katyn là quân đội Đức Quốc xã. Chỉ
đến năm 1992 (khi Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết sụp đổ
một năm), sau rất nhiều toan tính chính trị, Liên bang Nga mới
công bố những tài liệu trong bộ "<em>Hồ sơ đặc biệt №
1</em>" về vụ thảm sát Katyn<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn28"
name="_ednref28">[28]</a>. Giải mã bộ Hồ sơ, câu chuyện về vụ
thảm sát Katyn được hình dung như sau:

Ngày 3-3-1940, L.Beria<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn29"
name="_ednref29">[29]</a> gửi đến Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Cộng sản Liên Xô (b) <em>Văn bản </em>№ <em>794/B<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn30"
name="_ednref30"><strong>[30]</strong></a>,</em> báo cáo: "Trong các
trại giam và trại tạm giam ở phía Tây Ucraina và Tây Belaruxia
hiện đang giam giữ một số lượng lớn các sĩ quan cũ của
quân đội Ba Lan, cảnh sát Ba Lan, các nhân viên tình báo, thành
viên các tổ chức phản cách mạng, người tị nạn, lực
lượng nổi dậy và một số người khác (…) tất cả bọn
họ đều là kẻ thù truyền kiếp, chứa đầy thù hận với
chính quyền Xô viết"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn31"
name="_ednref31">[31]</a>. L.Beria khẳng định: "Những tù binh này
dù đang bị giam giữ song vẫn cố gắng, nỗ lực tiếp tục
tuyên truyền chống Liên Xô và chỉ chờ được phóng thích là
sẵn sàng tích cực tham gia vào cuộc chiến chống lại chế
độ Xô viết"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn32"
name="_ednref32">[32]</a>. L.Beria thống kê: "Trong các trại giam tù
binh chiến tranh hiện giam giữ tổng cộng (không tính các binh
sĩ và hạ sĩ quan) 14.700<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn33"
name="_ednref33">[33]</a> tù binh người Ba Lan gồm các quan chức
của bộ máy chính phủ, các chủ đất, cảnh sát, điệp viên,
hiến binh, cai ngục; trong số đó, 97% mang quốc tịch Ba Lan
(…). Ở trại giam ở vùng miền Tây Ukraina và Belorusia có tổng
cộng 18.632<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn34"
name="_ednref34">[34]</a> người bị bắt giữ (trong đó có 10.685
người Ba Lan"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn35"
name="_ednref35">[35]</a>. Sau khi kết luận rằng, "xuất phát từ
thực tế bọn họ đều là những kẻ thù sắt đá không đội
trời chung với chính quyền Xô-viết, không có khả năng cải
hóa", L.Beria đề nghị "giao cho NKVD xem xét, giải quyết, xử
lý toàn bộ 14,700 trường hợp tù binh Ba Lan và 11.000 trường
hợp tù binh tại các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây Belorussia
bằng các thể thức đặc biệt với hình thức trừng phạt cao
nhất (…), không cần bất kỳ một cuộc hỏi cung, xét xử,
luận tội và kết án chính thức"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn36"
name="_ednref36">[36]</a>. L.Beria đề cử giao cho L.Beria, V.Merkulov
và L.Bashtakov thực hiện quyết định nêu trên<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn37"
name="_ednref37">[37]</a>.

Xem xét đề nghị của L.Beria, ngày 5-3-1940, một số thành viên
Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b) biểu
quyết thông qua <em>Quyết định No.13/144</em>(gồm I.V.Stalin,
K.Voroshilov, V. Molotov và A.Mikoyan<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn38"
name="_ednref38">[38]</a>, kèm ghi chú: M.Kalinin – đồng ý;
L.Kaganovich – đồng ý)<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn39"
name="_ednref39">[39]</a>, chuẩn y đề nghị của L.Beria xử bắn
toàn bộ số tù binh Ba Lan đang bị giam giữ; giao trách nhiệm
hoàn tất công việc cho "bộ ba" V.Merkulov, B.Kobulov và
L.Bashtako<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn40"
name="_ednref40">[40]</a>.

Ngày 22-03-1940, L. Beria ký Sắc lệnh No. 00350, "<em>Về việc
sơ tán các nhà tù của Cộng hòa XHCN Ukraina và Cộng hòa XHCN
Belorusia</em>", chỉ đạo thực hiện một kế hoạch thảm sát
lớn nhất và ghê rợn nhất lịch sử thế giới thế kỷ XX,
mang mật danh "<em>Chiến dịch giảm tải trại tù</em>"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn41"
name="_ednref41">[41]</a>.

Chưa đầy một tháng sau quyết định nói trên, các công việc
chuẩn bị cho cuộc thủ tiêu tù bình Ba Lan được xúc tiến
khẩn trương. NKVD lên kế hoạch vận chuyển tù nhân đến chỗ
xử bắn: Các tù nhân đang bị giam giữ tại vùng phía Tây
Ukraina được chuyển tới Kharkov, Kherson và Kiev, các tù nhân ở
<em>Belorusia</em> được chuyển về Minsk, còn các tù nhân ở
Ostashkov được chuyển tới Kalinin. Ở làng Mednoye, không xa
Kalinin, các máy xúc bắt đầu đào những chiếc hố lớn.

Đầu tháng 4-1940, những chuyến xe chở tù nhân bắt đầu lăn
bánh, mỗi đợt, vận chuyển khoảng từ 350-400 tù nhân. Các tù
nhân không hay biết mình đang bị đem đến chỗ chết, thậm
chí nhiều người còn vui mừng ngỡ rằng sẽ được trả tự
do. Ghi chép của một tù nhân – Thiếu tá Solxki Adam (được
chuyển đi từ trại Kozelski ngày 7-4-1940) về những giây phút
thương tâm cuối cùng đã nói lên điều đó:

<em>Ngày 20-4. 12 giờ, chúng tôi đang ở phía Tây Smolensk. Ngày
21-4. Chúng tôi bị đánh thức, được đưa lên những chiếc xe
ôtô và được mang đi đâu đó. Ngay từ buổi sáng, mọi việc
đã có vẻ bất thường (…). Chúng tôi được đưa tới một
khu rừng giống như khu nghỉ dưỡng mùa hè, bị lục soát một
cách kỹ lưỡng, bị tịch thu nhẫn cưới, thắt lưng, dao nhíp,
đồng hồ – lúc đó đồng hồ đang chỉ 6h30 phút
sáng</em>…<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn42"
name="_ednref42">[42]</a>.

"Đồng hồ dừng lại ở 6h30 phút sáng" – những "bản
án" được thực hiện một cách lạnh lùng. Các tù nhân ở
Kharkov và Kalinin bị bắn ngay trong nhà tù. Tại Katyn, tù nhân
bị dẫn đến trước những hố to đã đào sẵn và bị bắn
vào đầu ở cự ly gần bằng những khẩu súng lục, chủ yếu
là súng Đức – "Walter" và "Browning" (đó cũng là một
trong những cơ sở để sau này Liên Xô đổ lỗi cho quân đội
Đức là thủ phạm).

Vụ xử bắn tù nhân kéo dài đến giữa tháng 5-1940 và diễn
một cách suôi sẻ: Tại khu rừng gần làng Katyn cũng như trong
một số trại giam trên đất nước Liên Xô, chỉ trong vài
tuần đã có gần 22.000 tù nhân - công dân Ba Lan bị giết chết
theo lệnh của Ủy ban Nhân dân Nội vụ. Sau khi "<em>Chiến
dịch giảm tải trại tù</em>" kết thúc, "đã xử bắn 21.857
người; trong đó: 4.421 bị bắn tại Katyn (vùng Smolensk), 3.820
người bị bắn tại trại Starobelsk gần Kharkov, 6.311 người
bị bắn tại trại Ostashkov (vùng Kalinin), 7.305 người bị bắn
chết trong các nhà tù phía Tây Ukraine và Tây
<em>Belorusia"</em><a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn43"
name="_ednref43">[43]</a><em>.</em>

Vụ thảm sát không chỉ diễn ra ở Katyn, nhưng thuật ngữ
<em>"Thảm sát Katyn</em>" được gọi chung cho việc giết hại
các tù nhân Ba Lan (đa phần là tầng lớp tinh hoa, sĩ quan từ
cấp tá trở lên) vì vụ nổ súng tại làng Katyn xảy ra trước
nhất. Sau đó, việc sát hại 7.000 người (trong số đó có 1.000
sĩ quan cao cấp Ba Lan) bị Liên Xô giam giữ trong các nhà tù ở
miền Tây Ukraina và <em>Belorusia</em> cũng được gắn với cái
tên "<em>Thảm sát Katyn</em>".

<strong>4- Câu chuyện chưa kết thúc</strong>

Sau rất nhiều nỗ lực và biến động chính trị, cuối cùng,
sự thật về một thảm kịch khủng khiếp trong lịch sử cũng
đã dần phơi tỏ. Tại nước Nga, năm 1993, tư liệu <em>Hồ sơ
Katyn</em> được đăng tải trên Tạp chí khoa học "<em>Câu
hỏi của lịch sử</em>" (Вопросы истории); đồng
thời, Nhà nước Nga tạo điều kiện cho các nhà khoa học
nghiên cứu Hồ sơ<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn44"
name="_ednref44">[44]</a>. Cũng từ thời điểm đó, các nhà khoa
học Nga và Ba Lan nỗ lực điều tra, làm rõ nhiều vấn đề
xung quanh vụ thảm sát Katyn. Tháng 8-1993, những kết quả điều
tra ban đầu được công bố trong công trình "<em>Nước Nga và
Katyn</em>" (Nxb. Karta, Ủy ban Khoa học toàn Ba Lan tài trợ)<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn45"
name="_ednref45">[45]</a>. Năm 1995, các nhà khoa học Liên bang Nga và
Ba Lan xuất bản ấn phẩm "<em>Katyn: Tư liệu tội ác</em>"<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn46"
name="_ednref46">[46]</a>. Năm 1999, toàn bộ những tư liệu quan
trọng tiếp tục được công bố trong cuốn "<em>Katyn: Những
tù binh của cuộc chiến không tuyên bố. Hồ sơ và tư
liệu"</em><a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn47"
name="_ednref47">[47]</a>.

Những năm 1990-2004, Viện Kiểm sát quân sự tối cao Liên Xô
(từ năm 1992 là Viện Kiểm sát quân sự tối cao Liên bang Nga)
thực hiện nhiệm vụ điều tra thảm họaKatyn; trong quá trình
đó, Viện Công tố đã tiến hành 18 cuộc khảo sát, nghiên
cứu hơn 1.000 đối tượng, khai quật 200 thi thể và phỏng vấn
hơn 9.000 nhân chứng<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn48"
name="_ednref48">[48]</a>. Kết quả điều tra được lưu giữ trong
183 tập hồ sơ, song chỉ có 116 tập được công bố đầy
đủ. Ngày 11-3-2005, Viện Kiểm sát Quân sự tối cao Liên bang
Nga chính thức tuyên bố chấm dứt điều tra, xem vụ Katyn là
tội phạm thông thường, "không đủ cơ sở để coi vụ thảm
sát ở Katyn là diệt chủng" vì tính chất của nó không nhằm
vào sự phân biệt đối xử với người dân Ba Lan và đã quá
thời hạn hiệu lực hồi tố<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn49"
name="_ednref49">[49]</a>. Ngày 10-4-2010, nguyên Tổng thống Ba Lan
Lech Kaczynski cùng phu nhân và 94 quan chức đã tử nạn bởi một
tai nạn máy bay ở Smolensk, khi thực hiện chuyến công du dự
lễ tưởng niệm Katyn. Trong một động thái chia sẻ nỗi đau
vì cái chết của Tổng thống Ba Lan và Đoàn quan chức tháp
tùng, ngày 8-5-2010, Tổng thống Nga D.Medvedev trao cho người
đồng cấp Ba Lan B. Komorowski 67 tập tài liệu mật về vụ
thảm sát Katyn, hứa sẽ trao tiếp tài liệu và những thông tin
liên quan. Năm 2010, trong <em>Lễ kỷ niệm 65 năm chiến thắng
phát-xít</em>, Tổng thống Nga D.Medvedev đã nhắc đến "tội
ác Katyn", gọi đây là một "trang đen tối của lịch sử".

Ngày 25-11-2010, với tỉ lệ ủng hộ là 342/450, Quốc hội Liên
bang Nga bỏ phiếu thừa nhận vụ thảm sát hàng chục ngàn công
dân và sĩ quan Ba Lan là do lực lượng công an Liên Xô thi hành<a
sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn50"
name="_ednref50">[50]</a>. Quyết định của Quốc hội Nga được
người dân Ba Lan đánh giá cao, coi "Nghị quyết lịch sử"
này không chỉ quan trọng đối với người Ba Lan, mà còn đối
với quan hệ Nga – Ba Lan, cũng như với bản thân người Nga.

Ngày 21-10-2013, tương tự như trong phán quyết cấp sơ thẩm
năm 2012, trong một phán quyết chung cuộc về vụ thảm sát
Katyn, Tòa án Nhân quyền châu Âu (trụ sở tại Strasbourg) tuyên
bố không có thẩm quyền phán quyết về các trường hợp giết
người "xảy ra 58 năm trước khi Công ước Châu Âu về nhân
quyền có hiệu lực tại Nga từ năm 1998"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn51"
name="_ednref51">[51]</a>. Tuy nhiên, 17 thẩm phán của thuộc Đoàn
thẩm phán tối cao Tòa án Nhân quyền châu Âu đã phê phán Nga
về tội "thiếu tường trình tích cực" đối với số phận
các tù nhân Ba Lan tại Katyn bị Liên Xô tử hình vào năm 1940;
nhất trí lên án: "Nga thiếu sót trong nghĩa vụ hợp tác với
Toà án Châu Âu, miễn cưỡng trong việc cung cấp đầy đủ các
chứng cứ cho việc xem xét vụ án"<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn52"
name="_ednref52">[52]</a>.

Nhìn chung, người dân Ba Lan không hài lòng và không thỏa mãn
với những tuyên bố của Viện Kiểm sát quân sự tối cao Liên
Xô cũng như Tòa án Nhân quyền châu Âu. Phía Ba Lan trước sau
nhất quán quan điểm: Vì tính chất giết người hàng loạt,
những cuộc thảm sát này thích hợp để quy vào tội ác chống
nhân loại; mong muốn nước Nga "có những cử chỉ thiện chí
và chân thành hơn", chính thức xin lỗi và bồi thường cho gia
đình các nạn nhân.

Có thể thấy rằng, Nhà nước Liên bang Nga chỉ dừng lại ở
mức độ công nhận vụ thảm sát Katyn là lỗi của "chế
độ toàn trị Stalin", không muốn đi xa hơn điều đó. Mặc
dù thừa nhận "đây là tội ác không có lời bào chữa",
song Nhà nước Liên bang Nga tìm cách lý giải làm nhẹ bớt vấn
đề<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn53"
name="_ednref53">[53]</a>, chỉ dừng lại ở những việc như giải
mật hồ sơ, công bố sự thật, thừa nhận là tội ác của
"chế độ toàn trị Stalin"…, coi đó như là những hành
động mang tính thực tế (đã thừa nhận).

Vẫn chưa có một kết cục cuối cùng cho "vấn đề Katyn"
– một kết cục vừa có thể xoa dịu nỗi đau, chữa lành
nỗi ám ảnh của thân nhân những người bị thảm sát, lại
vừa có thể thỏa mãn được nước Nga hiện đại đang có
những tranh luận khác nhau về quá khứ, nhằm cổ vũ cho những
giá trị trường tồn, khơi dạy lòng tự hào dân tộc, phục
vụ mục tiêu chấn hưng đất nước, khôi phục vị thế
cường quốc<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_edn54"
name="_ednref54">[54]</a>.

Có lẽ, không có cách nào khác hơn để chia tay với nỗi đau
bằng cách dũng cảm nhìn nhận/thừa nhận nó. Và trên hết,
<strong>không thể đầu cơ lịch sử</strong>! Với quá khứ, với
lịch sử, luôn cần sự <strong>thẳng thắn, công tâm</strong> và
<strong>trung thực</strong>.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref1"
name="_edn1">[1]</a> <em>Катынь.</em> <em>Март 1940 г. –
сентябрь 2000 г. Расстрел. Судьбы живых. Эхо
Катыни</em>. Документы. М., 2001, С. 387.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref2"
name="_edn2">[2]</a> <em>Катынь.</em> <em>Март 1940 г. –
сентябрь 2000 г.</em> Указ. Соч, С.388.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref3"
name="_edn3">[3]</a> <em>Развитие польско-советских
отношений после событий под Катынью</em>,
Библиотека иследователям Катынского
дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref4"
name="_edn4">[4]</a> <em>Бабий Яр под Катынью</em>? //
Военно-исторический журнал. 1990. № 12. С. 35.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref5"
name="_edn5">[5]</a> <em>Катынь</em>, Библиотека
иследователям Катынского дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref6"
name="_edn6">[6]</a> Е. Прудникова, И. Чигирин:
<em>Катынь. Ложь, ставшая
историей,</em>Библиотека иследователям
Катынского дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref7"
name="_edn7">[7]</a> <em>Катынь.</em> <em>Март 1940 г. –
сентябрь 2000 г.</em> Указ. Соч, С. 455.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref8"
name="_edn8">[8]</a> <em>Катынь.</em> <em>Март 1940 г. –
сентябрь 2000 г.</em> Указ. Соч, С. 455-456.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref9"
name="_edn9">[9]</a> <em>Расследование Катынской
трагедии немецкой комиссией,</em>
Библиотека иследователям Катынского
дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref10"
name="_edn10">[10]</a><a name="zapprop"></a> <em>Выписка из
протокола 3-огo заседания Политбюро ЦК
КПСС от 5 апреля 1976 год</em>, АПРФ по
катынскому делу

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref11"
name="_edn11">[11]</a> Người đứng đầu KGB từ tháng 12-1958 đến
tháng 11-1961.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref12"
name="_edn12">[12]</a> <em>Pукописная записка
председателя КГБ при СМ СССР А.Н. Шелепина
от 3 марта 1959 г</em>. № 632-Ш, Закрытый пакет
документов о катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17,
оп. 166, д.621,Л.139.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref13"
name="_edn13">[13]</a> <em>Pукописная записка
председателя КГБ при СМ СССР А.Н. Шелепина
от 3 марта 1959</em> г, Указ. Соч. Л.139

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref14"
name="_edn14">[14]</a> Troika NKVD là một Ủy ban đặc biệt gồm ba
người: Bí thư thứ nhất BCH Trung ương Đảng; Chủ tịch NKVD,
Công tố viên trưởng Viện kiểm sát liên bang Tối cao. Ủy ban
này có trong tay siêu quyền lực, xử lý những vấn đề về an
ninh không cần qua tiến trình xét xử theo luật pháp.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref15"
name="_edn15">[15]</a> <em>Pукописная записка
председателя КГБ при СМ СССР А.Н. Шелепина
от 3 марта 1959 г</em>, Указ. Соч. Л.139

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref16"
name="_edn16">[16]</a> <em>Выписка из протокола 3-огo
заседания Политбюро ЦК КПСС от 5 апреля 1976
год, </em>Указ. Соч.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref17"
name="_edn17">[17]</a> Медведев В.А. Распад: <em>Как он
назревал в "мировой системе
социализма</em>". М., 1994. С. 96.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref18"
name="_edn18">[18]</a>И. Яжборовская, А. Яблоков, B.
Парсаданова: <em>Катынский синдром в
советско-польских и российско-польских
отношениях</em>, Указ. Соч.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref19"
name="_edn19">[19]</a> <em>Декларация о
советско-польском сотрудничестве в
области идеологии, науки и культуры</em>. М.,
1987. С.9.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref20"
name="_edn20">[20]</a> <em>Декларация о
советско-польском сотрудничестве в
области идеологии, науки и культуры</em>,
Указ. Соч. С. 10.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref21"
name="_edn21">[21]</a> <em>Признание советскими
властями ответственности за Катынскую
трагедию</em>, Библиотека иследователям
Катынского дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref22"
name="_edn22">[22]</a> <em>Признание советскими
властями ответственности за Катынскую
трагедию</em>, Указ. Соч.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref23"
name="_edn23">[23]</a> Tuy thừa nhận trách nhiệm của Liên Xô trong
vụ thảm sát Katyn, nhưng trong Sắc lệnh "<em>Về kết quả
của chuyến thăm Liên Xô của Bộ trưởng Ngoại giao nước
Cộng hòa Ba Lan Skubiszewski</em>" (3-11-1990), tại Điều 9,
Gorbachev chỉ thị Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô dưới sự hỗ
trợ của Tòa án Tối cao, Bộ Quốc phòng và các cơ quan hữu
quan khác, nghiên cứu, làm rõ "những sự kiện lịch sử trong
quan hệ song phương Liên Xô – Ba Lan, mà phía Ba Lan có gây tổn
hại cho Liên Xô. Kết quả đó, trong những trường hợp cần
thiết, có thể đem ra trong các cuộc hội đàm về những
"vết đen" trong quan hệ hai nước" (Nguồn:
<em>Расположение Президентa Союза
Советских Социалистических Республик</em>,
3 ноября 1990 г, № РП-979, АПРФ по катынскому
делу).

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref24"
name="_edn24">[24]</a> Này 20-7-1991, Yeltsin ban bố Sắc lệnh phi
đảng hóa và tuyên bố nghiêm cấm hoạt động của các chính
đảng trong cơ quan nhà nước các cấp, cũng như các đoàn thể
quần chúng và doanh nghiệp cơ sở, chĩa mũi dùi vào Đảng
Cộng sản Liên Xô, dẫn đến sự sụp đổ của Đảng CS Liên
Xô và sự giải thế của Liên Xô.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref25"
name="_edn25">[25]</a> <em>Центр хранения современной
документации,</em> Ф. 89. Оп. 14. Д. 1-20.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref26"
name="_edn26">[26]</a> Секреты пакета № 1. С. 38.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref27"
name="_edn27">[27]</a> И. Яжборовская, А. Яблоков, B.
Парсаданова: <em>Катынский синдром в
советско-польских и российско-польских
отношениях, </em>Указ. Соч.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref28"
name="_edn28">[28]</a> <em>Главная военная
прокуратура</em>, Уголовное дело № 159. Т. 115.
Л. 4-29, 45-78.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref29"
name="_edn29">[29]</a> Phụ trách bộ máy an ninh quốc gia và cảnh
sát mật Liên Xô những năm 1946–1953.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref30"
name="_edn30">[30]</a> No 794/Б, đóng dấu của Ủy ban Nhân dân
Nội vụ Liên Xô – NKVD (tiếng Nga:НКВД).

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref31"
name="_edn31">[31]</a><em>Записка НКВД СССР № 794/B, о
польских военнопленных</em>, подписанная Л.
П. Берия, Закрытый пакет документов о
катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17, оп. 166, д.621,
Лист 130-133.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref32"
name="_edn32">[32]</a><em>Записка НКВД СССР № 794/B, о
польских военнопленных</em>, подписанная Л.
П. Берия, Указ. Соч, Л. 130.<em>.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref33"
name="_edn33">[33]</a> L.Beria đưa ra con số thống kê cụ thể về
thành phần14.700 tù binh người Ba Lan: Cấp tướng, đại tá và
trung tá: 295; thiếu tá, đại úy: 2.080; thượng úy, trung úy,
thiếu úy: 6049; cảnh sát, hiến binh, lính biên phòng: 1.030;
cảnh vệ, dân binh, điệp viên, cai ngục: 5.138; chức sắc, chủ
đất, linh mục, người nhập cư: 144 (Nguồn:З<em>аписка
Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), № 794/Б, АПРФ, ф. 3.
Закрытый пакет № 1,</em> Л.131).

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref34"
name="_edn34">[34]</a> L.Beria thống kê cụ thể về thành phần
18.632 tù binh như sau: Sĩ quan cũ: 1.207; cảnh sát, trinh sát,
hiến binh: 5.141; điệp viên, biệt kích: 347; chủ đất, chủ
xưởng, quan chức: 465; thành viên các tổ chức nổi dậy và
các thành phần khác: 5.345; người tị nạn: 6.127 (Nguồn:
З<em>аписка Л.Берии И. В. Сталину (3-3-1940), №
794/Б, АПРФ, ф. 3. Закрытый пакет № 1,</em> Указ.
Соч, Л. 131).

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref35"
name="_edn35">[35]</a> <em>Записка Л.Берии И. В.
Сталину (3-3-1940), </em>№ 794/Б, АПРФ, ф. 3. Закрытый
пакет № 1, Указ. Соч. Л.133<em>.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref36"
name="_edn36">[36]</a> <em>Записка Л.Берии И. В.
Сталину (3-3-1940), </em>№ 794/Б, АПРФ, ф. 3. Закрытый
пакет № 1<em>, </em>Указ. Соч. Л..132<em>.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref37"
name="_edn37">[37]</a> <em>Записка Л.Берии И. В.
Сталину (3-3-1940), </em>№ 794/Б, АПРФ, ф. 3. Закрытый
пакет № 1<em>, </em>Указ. Соч. Л..133<em>.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref38"
name="_edn38">[38]</a> Trong cuốn sách: "<em>Stalin: The Court of the
Red Tsar</em>" (Nxb. Vintage, 2005), tác giả Simon Sebag Montefiore có
chú giải: Con trai của Mikoyan là Stepan nói rằng, chữ ký của
cha mình trên tờ <em>Quyết định</em> này là "gánh nặng nặng
nhất đối với gia đình của chúng tôi" (p.94).

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref39"
name="_edn39">[39]</a> <em>Выписка из протокола № 13
пункт 144 заседания Политбюро ЦК ВКП(б),</em>
№ П13/144, 5 марта 1940 <strong>(</strong>В книге<strong>
"</strong>Катынь:Пленники необъявленной
войны", Под редакцией Р.Г.Пихои,
А.Гейштора, М. 1999), C.606.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref40"
name="_edn40">[40]</a> <em>Выписка из протокола №13
заседания Политбюро ЦК ВКП(б) "Особая
папка" от 5 марта 1940 г, </em>No.13/144, Указ. Соч,
Л.134.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref41"
name="_edn41">[41]</a> Còn được dịch là: "<em>C<em>hiến dịch
sơ tán nhà tù và trại giam</em></em>".

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref42"
name="_edn42">[42]</a> <em>Катынский расстрел —
официальные сведения и версии,
</em>Библиотека иследователям Катынского
дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref43"
name="_edn43">[43]</a> <em>Pукописная записка
председателя КГБ при СМ СССР А.Н. Шелепина
от 3 марта 1959 г</em>. №632-Ш, Закрытый пакет
документов о катынском деле, РГАСПИ, Ф. 17,
оп. 166, д.621,Л.138.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref44"
name="_edn44">[44]</a> <em>Секретные документы из
особых папок</em> / Подготовка публикации и
вступительная статья к ней М.И. Семиряги //
Вопросы истории. 1993. № 1. С.7-22

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref45"
name="_edn45">[45]</a> Orzeczenie Komisji ekspertów. Moskwa, 2 sierpnia 1993
// Rosja a Katyn. W-wa, 1994.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref46"
name="_edn46">[46]</a> Katyn. Dokumenty zbrodni. T. 1. Jeńcy nie
wypowiedzianej wojny. Sierpień 1939 — marzec 1940. W-wa, 1995; T. 2.
Zagłada. Marzec-czerwiec 1940. W-wa, 1998; Катынь: Пленники
необъявленной войны.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref47"
name="_edn47">[47]</a><em>Катынь. Пленники
необъявленной войны.Документы и
материалы</em>, Под редакцией Р.Г.Пихои,
А.Гейштора, М. 1999.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref48"
name="_edn48">[48]</a> <em>Расследование Катынского
убийства Главной военной прокуратурой
СССР</em>, Библиотека иследователям
Катынского дела, <em>РФ.</em>

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref49"
name="_edn49">[49]</a> Trong việc đánh giá sự kiện Katyn năm 1940,
phía Nga cho rằng phải xuất phát từ Bộ Luật Hình sự Liên
Xô năm 1926, theo đó, thời hạn hiệu lực của những hành vi
phạm tội như ở Katyn được xác định là 10 năm, đó là chưa
kể đến chuyện các thủ phạm của vụ thảm sát đều đã qua
đời (Nguồn: <em>Nhân tai nạn của vợ chồng tổng thống Ba
Lan: công lý trong vụ thảm sát Katyn đã được tái lập</em>?
Nhịp Cầu Thế Giới Online, 14-4-2010)

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref50"
name="_edn50">[50]</a> Mỹ Loan: <em>Nga thừa nhận Stalin ra lệnh
thảm sát Katyn,</em> Tuổi trẻ Online, 28-11-2010.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref51"
name="_edn51">[51]</a> <em>Европейский суд по правам
человека поставил точку в "катынском
деле": Россия оправдана</em><strong>,
</strong>Politikus.ru, 21-10-2013.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref52"
name="_edn52">[52]</a> <em>Европейский суд по правам
человека поставил точку в "катынском
деле": Россия оправдана,</em> Указ. Соч.

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref53"
name="_edn53">[53]</a> Phía Nga cho rằng, sở dĩ Stalin đưa ra quyết
định thực hiện thảm sát Katyn là nhằm trả thù cho thất
bại của Hồng quân Liên Xô năm 1920 (trong chiến tranh Ba
Lan-Liên Xô, đã có 32.000 Hồng quân Liên Xô bị phía Ba Lan
giết hại). Nước Nga cũng đưa ra quan điểm: Nhìn lại thấu
đáo lịch sử, không phải để gánh nặng lịch sử đè lên
quan hệ Nga – Ba Lan, cũng không phải đổ lỗi cho nhân dân Nga,
mà loại bỏ những thành kiến, thiếu tin cậy đã từng tồn
tại trong quan hệ Nga- Ba Lan do vấn đề thảm sát Katyn và để
đóng lại trang sử cũ, lật trang sử mới, viết những điều
tốt đẹp (Nguồn: <em>Максим Жapo</em>в, Судьба
Катыни, <em>Жyp. </em>Валовой внутренний
продукт (ВВП), № 5 (55), 2010).

<a sl-processed="1"
href="http://www.viet-studies.info/kinhte/MaiHoa_Katyn.htm#_ednref54"
name="_edn54">[54]</a>Một nước Nga trên con đường phục hưng,
khôi phục vị trí cường quốc đang rất cần sự thống nhất,
những giá trị tinh thần truyền thống, lòng tự hào dân
tộc…; do vậy; rất khó vượt qua ngưỡng để gọi chính xác
tên sự vật. Ở nước Nga hiện nay, dư luận xã hội cũng cho
rằng, lại một lần nữa, Nhà nước Liên bang Nga đang sử
dụng lịch sử và các khoa học xã hội vào cuộc chiến tư
tưởng (chứ không phải cuộc chiến ý thức hệ như trước
đây).

Xem thêm: <a sl-processed="1"
href="http://hieuminh.org/2010/04/12/katyn-va-kaczynski/">Katyn và
Kaczynski</a>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20140423/nguyen-thi-mai-hoa-katyn-giai-ma-bi-an-lich-su-ba-lan-lien-xo),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét