Nguyễn Hưng Quốc - Việt Nam: Mềm hay cứng?

Xin đừng hiểu lầm: Cả chuyện mềm hay cứng ở đây đều
liên quan đến quyền lực.

Trên thế giới, nói đến quyền lực mềm hay cứng, người ta
hay liên hệ đến quan hệ giữa nước này và nước khác. Bởi
vậy, trong rất nhiều trường hợp, hai khái niệm "quyền lực
mềm" (soft power) và chính sách "ngoại giao văn hóa" (cultural
diplomacy) được xem như đồng nghĩa với nhau. Tuy nhiên, khái
niệm quyền lực mềm và quyền lực cứng không phải chỉ
giới hạn trong phạm vi bang giao quốc tế mà còn cả trong chính
trị đối nội nữa.

Rất dễ thấy là ở hầu hết các quốc gia dân chủ, chính
phủ đều có khuynh hướng sử dụng quyền lực mềm. Không ai
dám sử dụng sức mạnh quân sự hay kinh tế để uy hiếp hay
thu phục quần chúng cả. Làm thế là vi phạm luật pháp và
hậu quả nhãn tiền là chính phủ chắc chắn sẽ bị sụp đổ
hay bị thay thế muộn nhất là trong kỳ bầu cử kế tiếp.
Mọi chính phủ dân chủ đều tìm cách thuyết phục quần
chúng: Giới lãnh đạo thường xuyên xuất hiện trước các cơ
quan truyền thông cũng như tiếp xúc trực tiếp với cử tri
để giải thích các chính sách cũng như thu phục nhân tâm.

Trong các chế độ độc tài, như Việt Nam, thì khác.

Trước đây, đặc biệt trước năm 1975, ở miền Bắc và
trước năm 1954, ở cả nước, chính quyền và đảng Cộng sản
sử dụng cả hai loại quyền lực mềm và cứng.

Cứng, họ sẵn sàng trấn áp tất cả những người phản kháng
hay bất phục tùng, thậm chí, cả những người có khả năng
bất phục tùng: thành phần địa chủ, tư sản, trí thức và
một số tôn giáo vốn có quan hệ không mấy hòa thuận với
họ (như Công giáo, Cao Đài, và Phật giáo Hòa Hảo). Bộ đội,
công an và mật thám được huy động triệt để, lúc nào cũng
có mặt để chờ lệnh. Tòa án được sử dụng như một công
cụ của chuyên chính vô sản. Án, không những giành cho người
bị xem là có tội mà còn cả cho con cháu của họ nữa: không
phải án chung thân mà là án truyền kiếp. Chính sách lương
thực được ra đời để quản lý bao tử của người dân: ai
vâng lời thì cho ăn đủ no; ai bất tuân thì bị bỏ đói.

Cả giáo dục và văn hóa cũng được sử dụng như một thứ
quyền lực cứng: thuộc thành phần "phản động" hay "khả
nghi" thì không được vào đại học và không được xuất
bản hay trình diễn dưới mọi hình thức. Y tế cũng vậy: có
bệnh viện riêng cho dân chúng và bệnh viện riêng cho cán bộ.
Giữa cán bộ cấp cao và cấp thấp cũng khác: bệnh viện khác,
bác sĩ khác, thuốc men khác, cách thức đối đãi cũng khác.

Cuối cùng, ngay cả nghĩa địa cũng trở thành nơi mặc cả
của quyền lực: giới lãnh đạo trung ương cũng như những
người được xem là có công với "cách mạng" được chôn
cất tử tế ở những nghĩa trang sang trọng hơn (như nghĩa trang
Mai Dịch, được xây dựng từ năm 1956 ở Hà Nội).

Nhưng bên cạnh quyền lực cứng, họ cũng không quên sử dụng
quyền lực mềm một cách thường xuyên với hệ thống truyền
thông đại chúng ra rả vào tai của từng người, từng người.
Trong cái gọi là quyền lực mềm ấy, chính quyền và đảng
cộng sản sử dụng chủ yếu ba thứ: một, truyền thống; hai,
lý tưởng; và ba, huyền thoại.

Về truyền thống, người ta viết lại lịch sử của dân tộc,
chỉ nhấn mạnh vào khía cạnh tích cực, phù hợp với những
điều nhà cầm quyền muốn tuyên dương. Trước năm 1975, Tố
Hữu có câu thơ rất tiêu biểu cho việc sử dụng truyền
thống ấy: "Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận". Khi sử dụng
truyền thống, người ta không những cổ vũ cho lòng yêu nước
mà còn cổ vũ cho cả tinh thần bài ngoại, đặc biệt bài Tây
phương: Tây phương đồng nghĩa với đế quốc và xâm lược.

Về lý tưởng, họ nhấn mạnh đến hai cấp độ khác nhau: Ở
bình diện quốc gia, đó là sự độc lập, thống nhất và tự
do; ở bình diện quốc tế, đó là sự bình đẳng, hòa bình và
thịnh vượng. Ở cả hai bình diện, lý tưởng nào cũng cao
cả. Vì chúng, người ta sẵn sàng hy sinh cả tính mạng và gia
đình của mình.

Về huyền thoại, có thể nói, trong lịch sử, không có chế
độ nào sản xuất ra nhiều huyền thoại như là chế độ
cộng sản. Xưa, cũng có huyền thoại, nhưng do điều kiện in
ấn cũng như truyền thông hạn chế, chỉ phổ biến qua tin
đồn, số lượng huyền thoại của mỗi hoàng đế cũng như
mỗi triều đại khá hạn chế. Trong khi đó, chủ nghĩa cộng
sản ra đời cùng với sự phát triển vượt bậc của các
loại hình truyền thông, từ sách và báo đến truyền thanh và
truyền hình. Tất cả đều được tận dụng để xây dựng
huyền thoại. Không phải chỉ có huyền thoại về đảng
(đỉnh cao trí tuệ và bách chiến bách thắng) mà còn có huyền
thoại về từng cá nhân trong giới lãnh đạo. Sức hấp dẫn
của chủ nghĩa cộng sản trước năm 1975 chủ yếu là sức
hấp dẫn của huyền thoại.

Sau này, đặc biệt trong khoảng một hai thập niên trở lại
đây, nhà cầm quyền Việt Nam vẫn cố gắng tuyên truyền nhưng
rõ ràng là vấn đề tuyên truyền của họ gặp rất nhiều khó
khăn. Người ta vẫn giữ độc quyền, hoàn toàn độc quyền
trong lãnh vực truyền thông, nhưng với sự phát triển của các
hình thức truyền thông xã hội mới gắn liền với internet,
như blog hay facebook, tính chất độc quyền ấy dần dần lộ ra
những vết thủng to lớn.

Mất độc quyền về truyền thông, người ta cũng mất cả
độc quyền trong việc viết lại lịch sử. Truyền thống không
còn đứng về phía nhà cầm quyền nữa. Ngoài ra, trong xu
hướng toàn cầu hóa hiện nay, cái gọi là truyền thống không
chỉ giới hạn trong nội bộ một quốc gia mà còn mở rộng ra
cả nhân loại. Nhưng truyền thống nhân loại lại gắn liền
với quá trình tự do hóa và dân chủ hóa, hầu như hoàn toàn
trái ngược với thực tại Việt Nam. Càng nói nhiều đến
truyền thống nhân loại, bộ mặt thật của chế độ lại
càng trở nên đen đúa.

Còn các lý tưởng, vốn là những điểm mạnh nhất để nối
kết mọi người lại với nhau, thì lại bị sụp đổ, thoạt
đầu, một phần, ngay từ tháng 4 năm 1975, khi người dân miền
Bắc đối diện với thực tế tương đối sung túc và có văn
hóa ở miền Nam và người dân miền Nam đối diện với thực
tế bần cùng ở miền Bắc; sau đó, hầu như sụp đổ hoàn
toàn khi các chế độ cộng sản ở Nga và Đông Âu lần lượt
cáo chung.

Sự cáo chung của chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi thế giới
cũng dẫn đến sự sụp đổ của các huyền thoại liên quan
đến đảng và lãnh tụ ở Việt Nam. Nhìn lại, trong giới lãnh
đạo cộng sản, chỉ có hai người còn ít nhiều lấp lánh hào
quang của huyền thoại: Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Điều
nghịch lý là sự tồn tại dai dẳng của các huyền thoại gắn
liền với hai nhân vật này không xuất phát từ tài năng hay
công lao của họ mà chủ yếu là từ tính chất nạn nhân của
họ: Cả hai đều được tô vẽ như những kẻ bị tước
đoạt quyền lực. Không những Võ Nguyên Giáp mà cả Hồ Chí
Minh nữa, ngay từ đầu thập niên 1960, đã bị Lê Duẩn và Lê
Đức Thọ tước hết mọi quyền lực. Họ không còn quyền
quyết định gì nữa. Một phần, nhờ thế, họ trở thành
những kẻ vô tội trước các sai lầm và các tội ác mà đảng
đã phạm phải từ đó về sau.

Không có truyền thống, lý tưởng và huyền thoại, nhà cầm
quyền Việt Nam hoàn toàn mất hết khả năng sử dụng quyền
lực mềm. Ngay cả những phương tiện, ở những nơi khác, vốn
gắn liền với quyền lực mềm, như truyền thông và giáo dục,
ở Việt Nam, những năm gần đây, cũng đều trở thành biểu
hiện của quyền lực cứng. Trong sinh hoạt truyền thông, những
buổi giao ban của họ được hình dung như những buổi đấu
tố; trên mặt báo hay màn hình, họ xuất hiện một cách hung
hãn với những lời lẽ đe dọa, vu khống, trấn áp đầy thô
bạo. Họ mở ra vô số các phiên tòa để kết tội những
người lên tiếng đòi hỏi tự do, dân chủ, hoặc thậm chí,
chủ quyền quốc gia.

Quyền lực cứng, thực sự cứng, lại càng được sử dụng
triệt để. Với dân chúng đòi đất hoặc chống lại lệnh
cưỡng chế ư? Họ xua công an đến đánh dập dã man. Với
những người xuống đường biểu tình chống lại Trung Quốc
ư? Họ cũng đạp vào mặt, còng tay, chụp mũ cho một cái tội
vớ vẩn gì đó để thẩy vào nhà tù. Với dân chúng bình
thường và vô tội khác, họ cũng không ngớt uy hiếp để
người ta phải sợ hãi. Thỉnh thoảng lại có tin người này
người nọ bị công an đánh chết.

Về phương diện kinh tế, người ta khăng khăng giữ lại thành
phần kinh tế quốc doanh chủ yếu để, ngoài việc làm giàu cho
cá nhân và gia đình, còn dễ dàng mua chuộc sự trung thành của
các thuộc hạ. Các chức vụ được sử dụng như hình thức
thưởng công và kết bè kết cánh.

Trong quan hệ quốc tế, người ta thấy rõ và càng ngày càng
thấy rõ quyền lực cứng rất ít có kết quả. Mạnh như Mỹ
mà vẫn không thành công ở Iraq và Afghanistan, ở Iran và Bắc
Hàn, ở Libya và Syria. Trong phạm vi quốc gia, với sự sụp đổ
của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu vào cuối thập niên 1980
và sự sụp đổ của nhiều chế độ độc tài ở Trung Đông
trong mấy năm vừa qua, người ta càng thấy rõ việc sử dụng
quyền lực cứng đối với dân chúng không những không có
hiệu quả mà còn không có triển vọng tồn tại lâu dài.

Số phận của những người chỉ biết sử dụng quyền lực
cứng là chui dưới hầm (như Saddam Hussein) hoặc dưới ống
cống (như Muammar Gaddafi).

Và vật cuối cùng họ được nhìn thấy là nòng súng hoặc
sợi dây thòng lọng.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131128/nguyen-hung-quoc-viet-nam-mem-hay-cung),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét