<div class="boxleft300"><img
src="http://gdb.voanews.com/98CF9C9A-EA09-483A-842D-F36A63F0D4A8_w640_r1_s_cx0_cy9_cw0.jpg"
/><div class="textholder">Từ trái: Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Nguyễn Sinh Hùng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đi thăm
lăng ông Hồ Chí Minh.</div></div>Trong sinh hoạt chính trị ở các
nước dân chủ, điều quan trọng nhất là sự tín nhiệm
(trust). Sự tín nhiệm trở thành một thứ bảo chứng cho quyền
lực: Quyền lực chỉ tồn tại và kéo dài nếu sự tín nhiệm
vẫn còn cao. Mất tín nhiệm cũng đồng nghĩa với việc mất
quyền lực (muộn nhất là trong kỳ bầu cử kế tiếp).
Đó là lý do tại sao trên báo chí Tây phương, người ta
thường xuyên đặt vấn đề tín nhiệm đối với chính phủ
hoặc người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ. Gần đây,
nhân danh sự tín nhiệm, ở Mỹ, nhiều người phê phán thái
độ lưỡng lự và bất nhất của Tổng thống Barack Obama đối
với việc sử dụng vũ khí hóa học tại Syria; nhiều người
khác phê phán thái độ cứng rắn của đảng Cộng hòa trong
các yêu sách về ngân sách khiến chính phủ Mỹ phải đóng
cửa trong vòng 16 ngày. Ở Úc, cũng vậy. Sau cuộc bầu cử vào
đầu tháng 9 vừa qua, nhiều bình luận gia chính trị cũng
thường xuyên đặt vấn đề tín nhiệm để nhắc nhở chính
phủ phải thực hiện các lời hứa của họ.
Ở Việt Nam, giới lãnh đạo cũng thường đề cập đến
chuyện tín nhiệm. Ông Nguyễn Phú Trọng, trong các buổi hội
thảo, kêu gọi mọi người hãy tin vào chủ nghĩa xã hội; ông
Nguyễn Tấn Dũng, trên diễn đàn quốc tế tại Singapore, kêu
gọi lòng tin chiến lược giữa các quốc gia trong khu vực cũng
như trên thế giới; ông Trương Tấn Sang, trong các buổi gặp
gỡ cử tri, kêu gọi mọi người hãy tin ông trong sạch và
quyết tâm chống tham nhũng, nếu không làm được đó, ông sẽ
từ chức, và nếu từ chức, ông sẽ trả dinh thự lại cho
chính phủ để về sống trong căn nhà nhỏ bé của mình. Và
cả ba đều, ở những thời điểm và khung cảnh khác nhau, kêu
gọi mọi người hãy tin… đảng.
Trong cuốn Trust Me: Australians and their politicians mới xuất bản
vào giữa năm nay, Tiến sĩ Jackie Dickenson, hiện dạy Chính trị
học tại trường Đại học Melbourne, cho sự tín nhiệm chính
trị không thể được hình thành bằng những lời nói suông hay
những lời hứa hẹn hão. Nó chỉ có thể được xây dựng
trên bốn nền tảng chính: năng lực (competence), sự công khai
(openness), sự lương thiện (honesty) và sự khả tín (reliability).
Năng lực được đo lường ở việc đối phó với những vấn
đề và những thách thức cụ thể mà cả nước phải đương
đầu, từ lãnh vực quốc phòng đến các lãnh vực chính trị,
kinh tế, y tế, xã hội, văn hóa, ngoại giao, giáo dục, v.v...
Sự công khai thể hiện ở tính chất minh bạch trong chính sách
cũng như trong quản lý, ở việc cho phép tự do báo chí cũng
như tự do ngôn luận.
Sự lương thiện thể hiện ở sự thống nhất giữa lời nói
và việc làm, không có chuyện nói một đàng làm một nẻo.
Tính chất khả tín bao gồm nhiều khía cạnh, không phải chỉ
ở việc chính phủ thực hiện các lời hứa mà còn ở chỗ
dân chúng có thể tiên đoán được các chính sách của chính
phủ dựa trên những nguyên tắc, cương lĩnh và niềm tin mà
giới lãnh đạo đã đưa ra. Ở Mỹ, với Tổng thống George W.
Bush trước đây, người ta có thể chê nhiều điểm (như nói
dở, có tầm nhìn chiến lược nhưng không có khả năng hay sở
thích đi sâu vào chi tiết, do đó, thường đơn giản hóa vấn
đề), nhưng có một điểm phần lớn đều khen: người ta biết
ông nghĩ gì và muốn gì, từ đó, biết cả các chiều hướng
chiến lược mà nước Mỹ sẽ theo đuổi. Ở Úc, cũng vậy,
đánh giá sự thành công của John Howard, vị Thủ tướng thứ 25
(từ 1996 đến 2007) và là vị Thủ tướng cầm quyền lâu thứ
hai trong lịch sử nước Úc (chỉ sau Sir Robert Menzies, vị Thủ
tướng thứ 12, cầm quyền tổng cộng 18 năm), nhiều nhà bình
luận cho: Không phải lúc nào người ta cũng đồng ý với John
Howard, nhưng bao giờ người ta cũng biết rõ là ông nghĩ gì và
muốn gì: Người ta xem đó là tính chất khả tín.
Áp dụng bốn tiêu chuẩn ấy vào Việt Nam, chúng ta thấy thế
nào?
Hai tiêu chuẩn giữa, sự công khai và lương thiện có lẽ không
cần phải bàn: Hầu như ai cũng thấy. Dân chúng lại càng thấy
rõ. Không phải ngẫu nhiên mà câu nói "Đừng nghe những gì
cộng sản nói, hãy nhìn những gì cộng sản làm" của ông
Nguyễn Văn Thiệu trước kia càng ngày càng được nhiều
người tán thành và nhắc nhở. Sau này, dân chúng thêm vào câu
nói đã thành "danh ngôn" ấy một chuyện cười khá ý vị,
đại khái:
"Cả thế giới đều sợ người Mỹ vì người Mỹ đã nói
là làm. Nhưng người Mỹ lại sợ người Nhật vì người Nhật
làm rồi mới nói. Còn người Nhật lại sợ người Trung Quốc
vì Trung Quốc không nói mà làm. Thế còn Trung Quốc sợ ai? Câu
trả lời: Trung Quốc sợ Việt Nam vì Việt Nam nói một đằng
làm một nẻo."
Không biết Trung Quốc có sợ Việt Nam vì chuyện đó hay không,
nhưng chắc chắn là dân chúng Việt Nam sợ. Sợ và khinh. Khinh
nên mới có một chuyện cười như thế.
Với tiêu chuẩn thứ tư, trong giới lãnh đạo cao nhất ở
Việt Nam, thành thực mà nói, người ta biết Nguyễn Phú Trọng
nghĩ gì và muốn gì: Ông vẫn tin tưởng vào chủ nghĩa xã hội
và muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Với Nguyễn Tấn Dũng, người ta có thể biết, biết rõ những
tham vọng cá nhân của ông, nhưng lại không ai có thể biết
được ông nghĩ gì và muốn gì về tương lai của đất nước.
Với Trương Tấn Sang, cũng vậy: Ông chỉ nói về những chuyện
nhỏ, như chuyện chống tham nhũng và tranh giành quyền lực,
nhưng một mô hình xã hội không tham nhũng mà ông mơ ước như
thế nào, người ta tuyệt đối không biết.
Tất cả những cái biết và không biết ở trên đều chỉ có
công dụng bào mòn sự tín nhiệm, nếu có, của dân chúng đối
với giới cầm quyền.
Nhưng tiêu chuẩn quan trọng nhất của sự tín nhiệm chính là
tiêu chuẩn thứ nhất: năng lực. Đối với Nguyễn Phú Trọng,
câu trả lời của dân chúng đã rõ qua cái hỗn danh mà người
miền Bắc đã đặt cho ông: "Trọng Lú". Với Nguyễn Tấn
Dũng, câu trả lời cũng tương đối rõ qua việc người ta hay
nhắc nhở đến gốc gác y tá của ông. Thật ra, một lãnh tụ
giỏi có thể xuất thân từ nhiều nghề nghiệp khác nhau, kể
cả những nghề lao động bình thường nhất. Nhưng việc dân
chúng cứ nhắc đi nhắc lại cái gốc y tá ấy chứng tỏ một
điều: người ta coi thường ông. Vậy thôi. Trương Tấn Sang may
mắn hơn, ít bị dân chúng dè bĩu về chuyện năng lực. Nhưng
điều đó không chứng tỏ là ông giỏi. Có thể lý do chính là
vì chức Chủ tịch nước của ông chỉ là một hư vị.
Tuy nhiên, gạt qua một bên chuyện cá nhân. Cứ nhìn giới lãnh
đạo Việt Nam hiện nay như một tập thể, điều dễ thấy
nhất vẫn là sự bất lực của họ trong mọi phương diện.
Nhìn đâu cũng thấy bế tắc. Nhìn ra biển đảo: bế tắc.
Nhìn vào thị trường: bế tắc. Nhìn ra đường với cảnh ùn
tắc triền miên và mức độ tai nạn giao thông khủng khiếp:
bế tắc. Nhìn vào các bệnh viện và trường học, ở đâu
cũng thấy suy đồi về đạo đức: bế tắc. Những bế tắc
ấy là bằng chứng rõ nhất của sự bất lực từ hàng ngũ
lãnh đạo.
Trước cả bốn tiêu chuẩn ấy, bạn có nghĩ là bạn nên tiếp
tục tín nhiệm nhà cầm quyền hay không?
<strong>Nguyễn Hưng Quốc</strong>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131126/nguyen-hung-quoc-su-tin-nhiem-chinh-tri),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét