5xu - Luận văn của ông Ngô Đình Nhu

<em>Dưới đây là bản tóm tắt luận văn tốt nghiệp trường
<a
href="http://en.wikipedia.org/wiki/%C3%89cole_Nationale_des_Chartes">École
Nationale de Chartes</a> năm 1938 của Ngô Đình Nhu (1910-1963). Luận
văn này có tên "Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au
xviie siècle". Quốc Anh bạn tôi đang dạy học ở Sciences Po
đã bớt thời gian gõ đầu trí thức Pháp mà vào thư viện
lục lọi và gửi về. Bạn Khiếu Anh cũng đã bớt thời gian
đi học để dịch bản luận văn này qua tiếng Việt với tên
"Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng
Ngoài thế kỷ XVII".</em>

<em>Nhưng trước hết là một chút thông tin về tác giả bản
luận văn.</em>

Năm 1970, tức là 7 năm sau khi chế độ Diệm-Nhu sụp đổ, ông
Trần Kim Tuyến, một người bạn và sau này là cộng sự thân
thiết của ông Nhu, cho biết ông Nhu có bằng cử nhân văn học
ở Sorbonne rồi học tiếp École de Chartes. Trong một tài liệu
khác thì nói rõ ông Nhu học ngành cổ tự học lưu trữ
(archiviste palégraphe). Ông Tuyến cho biết trường này rất kén
chọn, sinh viên phải qua hai năm dự bị ở một trường rất
danh tiếng là Henry Đệ Tứ rồi mới được nhập học, mỗi
lớp chỉ có 20 học viên, sử dụng tiếng Latin rất nhiều, và
chỉ có hơn một nửa số học viên này tốt nghiệp. Do đó có
từ "Chartistes" để chỉ các tinh hoa là học sinh của
trường này. Năm 1961, khi ở đỉnh cao quyền lực, ông Nhu có
đi qua Paris và gặp gỡ cá nhân với ngoại trưởng Pháp là
Couve de Murrville, đại sứ Pháp ở VN và Étienne Manach phụ trách
Châu Á của bộ ngoại giao Pháp. Cũng theo ông Tuyến thì nhờ
hào quang của trường Chartes cho các cuộc gặp chỉ là cá nhân
mà ông Nhu đã phá băng quan hệ Pháp Việt. Sau khi có ủng hộ
của Pháp, ông Nhu bắt đầu chống Mỹ mạnh hơn, dẫn đến
việc Mỹ quyết thay thế Diệm Nhu. Và theo như Phạm Xuân Ẩn
trong "Perfect Spy" thì một trong những lực lượng gây ra cái
chết của ông Nhu chính là CIA, đã can thiệp sâu vào đảo
chính, thông qua một người bạn CIA của ông Ẩn tên là Lou
Conein. Tuy nhiên, ông Ẩn tránh không nói đến ai trực tiếp ra
lệnh giết ông Nhu, có thể bởi người ra lệnh (Minh Cồ) lại
là bạn của ông Ẩn. Có vẻ như giữa ông Ẩn và ông Nhu chỉ
có một người bạn chung nổi tiếng: đại tá Edward Lansdale,
được cho nguyên mẫu của The Quiet American.

Trở về Hà Nội năm 1938 ngay sau khi tốt nghiệp (28 tuổi), ông
Nhu làm việc như một học giả trẻ cho đến khi bị lùng bắt
và phải bỏ trốn qua Lào rồi về Đà Lạt. Năm 1945 ông Nhu
đã kịp xuất bản cuốn khảo cứu " "La Fête de l'ouverture
du Printemps a Hanoi – Hội Khai xuân ở Hà Nội". Ông cũng lấy
vợ trong thời gian này, đám cưới được làm lễ ở Nhà thờ
lớn Hà Nội. Vợ ông là Trần Lệ Xuân, kém ông 14 tuổi, sau
này nổi tiếng với tên gọi "đệ nhất phu nhân" ở Việt
Nam, và với tên do tổng thống Kennedy đặt là Dragon Lady (bà
chằn) ở Mỹ. Trần Kim Tuyến mô tả bà Trần Lệ Xuân, một
thiếu nữ trẻ đẹp, sống trong nhung lụa, phải học tiếng
Việt qua gia sư là "một phụ nữ thuộc một giai cấp ở
Việt Nam không có". Bà Xuân đã "nuôi chồng" suốt thời
gian ông Nhu "thất nghiệp, chưa có sự nghiệp", ở Đà Lạt
và sau đó là Sài Gòn. Thời kỳ đó ông Nhu không có cả tiền
để mua thuốc lá và ăn sáng, phải có bạn bè cộng sự
"bao". Cuộc sống giản dị kiểu một trí thức khắc kỷ
này đã đi cùng ông Nhu đến hết cuộc đời.

Các tài liệu nói rất rõ sau Cách mạng tháng 19/8/1945 ông
Diệm bị bắt và được thả, nhưng về ông Nhu thì chỗ nói
bị bắt, chỗ nói không bị bắt. Tuy nhiên theo như tôi hiểu
qua câu chuyện tôi mới được nghe kể gần đây thì ngay sau
19/8 ông Hà đã đến gặp ông Nhu (lúc đó làm việc dưới
quyền bộ trưởng Võ Nguyên Giáp) rồi sử dụng xe của chính
phủ (đi mua gạo) để đưa ông Nhu trốn ra ngoại thành, rồi
đi Phát Diệm. Chi tiết này có lý vì ông Hà lấy bằng Tiến
sỹ Chính trị học ở ngôi trường danh tiếng <a
href="http://en.wikipedia.org/wiki/Sciences_Po">Sciences Po</a> năm 1937
rồi về nước hoạt động xã hội rất mạnh, trở nên nổi
tiếng và có rất nhiều quan hệ với các phe phái lực lượng.
Chắc ông Hà có quen ông Nhu từ lúc ở Paris, và ở thời điểm
sau 19/8 ông Hà có thể biết ông Nhu đang gặp nguy hiểm (hai
người anh của Nhu một bị bắt, một bị giết cùng thời kỳ
này) đã báo cho ông Nhu và giúp ông Nhu bỏ trốn. Cuộc gặp
giữa ông Hà và ông Nhu, tôi nghe kể: "nói bằng tiếng Pháp,
tôi chỉ nghe được câu mốt câu hai, nhưng chắc chắn là về
chính trị", có lẽ "chuyện chính trị" mà hai ông nói liên
quan đến việc tính mạng ông Nhu đang nguy cấp.

Trong quá trình chạy trốn, ông Nhu quen Trần Kim Tuyến, lúc này
là một thành niên trẻ mới học xong tú tài. Trần Kim Tuyến
sau trở thành trùm mật vụ của chế độ Diệm-Nhu trước khi
bị ông Nhu nghi ngờ và cách chức. Sau khi bị Nhu phế, ông
Tuyến sợ quá trốn ra nước ngoài. Sau sự kiện 1963 ông Tuyến
mới dám trở về Sài Gòn những cũng vẫn bị bắt. Người
cứu ông là Phạm Ngọc Thảo, một điệp viên của miền bắc,
và là đại tá quân đội VNCH lúc bấy giờ. Đến 30/4, một
lần nữa ông Tuyến lại được Phạm Xuân Ẩn, cũng là một
tay tình báo của miền bắc, cứu vào phút chót. Chưa hết, trợ
lý thân tín của ông Tuyến là Ba Quốc, cũng là tình báo của
miền bắc (thiếu tướng Đặng Trần Đức). Điều này thật
kỳ lạ. Nó cũng kỳ lạ như Phạm Ngọc Thảo sau chính biến
đã đem một toán quân xuống Chợ Lớn để cứu Diệm và đưa
Nhu ra nước ngoài nhưng bất thành. Việc đại tá Thảo và ông
Ẩn hai lần cứu cựu trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, đều do
ông Ẩn và chính bác sỹ Tuyến kể lại. Sau này, năm 1965,
Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ truy sát, bắn ở bờ suối, nhưng
không chết mà vẫn xin được giấy của học trò để viết tin
nhắn. Bức thư viết tay đẫm máu của ông Thảo hiện vẫn ở
Sài Gòn. Cách đây mấy hôm tôi đã ngồi cách nó chỉ độ 2
mét nhưng mà không được xem tận mắt.

Ông Nhu, vốn là con trai của một gia đình quan lại phong kiến
nhưng lại theo tây học, trở thành học giả trẻ uyên bác,
điều này lý giải cho việc sau nhiều năm ở ẩn ông bất ngờ
trở thành một chính trị gia mưu lược và bí hiểm. Các phát
biểu của ông Nhu cộng với nội dung cuốn sách, được coi là
của Ngô Đình Nhu, xuất bản sau khi ông bị giết (Chính đề
Việt Nam) hé lộ rất nhiều chi tiết cho thấy một học giả
cổ sử, am hiểu lịch sử Việt Nam và Châu Âu, đã nghiền
ngẫm tri thức trị quốc của nhà Nguyễn, của Châu Âu rồi
biến nó thành tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng
mình.

Cách ông Nhu sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ, dẹp yên các
tổ chức có vũ trang ở miền nam, xây dựng ấp chiến lược
… (theo thứ tự) cực kỳ giống những gì nhà Nguyễn đã làm
(theo thứ tự) với vương quốc cuối cùng của Chân Lạp (1832),
dẹp loạn Lê Văn Khôi (1832-1835), dẹp Mọi Đá Vách ở Quảng
Ngãi (1863). Trong Chính Đề Việt Nam (sử dụng bút danh Tùng
Phong) ông cũng không che dấu các bí quyết trị quốc phải
được truyền từ đời (vua) này qua đời khác, một cách nói
khéo rằng các ông đã học các bí quyết trị nước từ quá
khứ.

Ở một khía cạnh khác, ông Nhu học hỏi rất nhiều từ lịch
sử chính trị Châu Âu, và trở thành hình mẫu lãnh đạo chính
trị kiểu Machiavelli đầu tiên ở Việt Nam. Siêu điệp viên
Phạm Xuân Ẩn cho rằng ông Nhu là người tổ chức ám sát
Trình Minh Thế. Đại tá an ninh quân đội Đỗ Mậu và trùm
mật vụ Trần Kim Tuyến thì kể chi tiết cách ông Nhu xử lý
các vấn đề biên giới và xung đột sắc tộc với Khmer bằng
cách tổ chức ám sát Sihanouk và đảo chính ở Cambodia. Với
những kẻ có quyền lực yếu hơn, đôi khi ông Nhu cũng vẫn
Machiavelli nhưng theo kiểu ngược lại. Bác sỹ Tuyến kể việc
ông Nhu giải quyết các hộ kinh doanh bình dân sống bằng kinh
doanh vỉa hè rất lộn xộn bằng cách mời đại diện nghiệp
đoàn của họ vào Dinh để nói chuyện. Đó là ông Vượng,
người đã phát minh ra "bia cốc bờ Hồ" được ưa chuộng
cực kỳ ở Hà Nội trước 1954. Món "bia cốc" này, tôi
nghĩ, chính là tiền thân của bia hơi Hà Nội mà ngày nay chúng
ta vẫn nốc cùng thịt chó.

Cách hành xử thực dụng và máu lạnh kiểu Machiavelli đã
khiến ông Nhu trở thành chính trị gia bị sợ hãi và căm ghét;
từ đó người ta quên đi rằng ông này có lẽ là người đầu
tiên (và cũng có lẽ là duy nhất) biết cách và có chủ ý xây
dựng một quốc gia dân tộc (quốc gia = nhà nước) đúng nghĩa.
Một nation builder, nói theo kiểu tây, có kiến thức lịch sử
chính trị và địa lý vững chắc, nắm vững tình thế, hiểu
đại cục từ trong nước đến quốc tế, có tầm nhìn xa và
dự báo chiến lược khá chính xác. Ngày nay nhìn lại, có
nhiều cái ông Nhu tiên đoán, nhận định, chuẩn vãi chưởng.

Tôi đoán rằng, việc ông Diệm phế ông Bảo Đại và biến
Việt Nam thuộc Pháp từ thể chế quân chủ sang thể chế cộng
hòa hoàn là đường lối của ông Nhu. Hiến pháp của thể chế
này không thấy ở đâu nói là ai viết, nhưng chắc cũng có bàn
tay của ông Nhu. Ngày mà bản hiến pháp 1956 này được thông
qua cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Việt nam Cộng
hòa (sau được gọi là nền cộng hòa đệ nhất).

Cách cai trị độc tài của chế độ Diệm-Nhu, định hình
bởi bộ óc của ông Nhu và phong cách quan lại của ông Diệm
vốn là quan lớn của nhà Nguyễn. Phương pháp cai trị của ông
Nhu có thể đến từ việc ông đã nghiên cứu rất kỹ Hitler,
Gandi, Lenin, Mao cũng như am hiểu sâu sắc bản chất con người
Việt Nam. Trần Kim Tuyến cho biết ông Nhu mỗi năm đóng cửa 10
ngày chỉ để đọc sách. Đọc sách gì ông cũng có kế hoạch
sẵn, đọc cuốn nào cũng có ghi chú đầy đủ. Các nhân vật
mà ông Nhu thích đọc là Lenin, Mao. Phòng làm việc rất ngăn
nắp và tài liệu sắp đặt rất khoa học. Công cụ và lực
lượng dùng để cai trị của ông Nhu, rất giống nhà nước
cảnh sát của Hitler.

Sách ông Nhu đọc theo lời kể của bác sỹ Tuyến là các sách
ông đọc sau này, khi đã thành chính trị gia ở Sài Gòn. Còn
trước đó, khi ở ẩn trồng hoa lan trên Đà Lạt, hay thủa đi
học ở Paris ông đọc gì? Tôi đoán ông Nhu đã đọc các sách
cổ sử như kiểu Herodotus, hay các sách địa lý, tôn giáo thế
giới. Dấu vết của việc đọc này có thể tìm thấy trong
Chính đề Việt nam, khi tác giả của cuốn sách phân tích lịch
sử văn minh nhân loại, cùng với sự hình thành và suy yếu
của các đại đế quốc, từ La Mã đến Quốc Xã, từ Nga
đến Liên Xô, so sánh các thể chế trong lịch sử, giữa Anh và
Pháp. Tôi cũng đoán ông Nhu có đọc cả Gustave Le Bon khi ông
phân tích đặc tính tâm lý của dân tộc Việt Nam, mà ông dùng
từ tính khí, đó là yếu ớt và nhược tiểu, dẫn đến ứng
xử ngoại giao yếu kém do tính khí yếu ớt lại đặt dưới
áp lực đe dọa bởi ngoại xâm. Tất nhiên ông Nhu thuộc cổ
sử Việt Nam, và trong 2 trang của Chính Đề ông đã diễn giải
chính xác công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt trong 1000 năm
trở lại đây cũng như mổ xẻ chi tiết lý do/nguyên nhân Trung
Quốc luôn có khát khao xâm lược Việt Nam. Với cuốn sách hoàn
thành năm 1962 này, ông Nhu có lẽ là người đầu tiên đặt ra
nhiều câu hỏi sâu sắc cho dân tộc, ví dụ như tại sao
người Việt có bờ biển dài hàng ngàn cây số mà chưa bao
giờ họ khao khát đi ra biển, thậm chí cũng chưa một lần
tiến lên cao nguyên trong suốt quá trình Nam tiến ấy; cũng như
là người đầu tiên phát biểu và chứng minh được mở cửa
và hội nhập sâu (mà ông gọi là phương tây hóa, ngày nay gọi
là toàn cầu hóa) không làm mất đi cái gọi là bản sắc dân
tộc.

Là một nhà nghiên cứu cổ tự, ông Nhu sớm nhận ra giới
hạn nghèo nàn của tiếng Việt và danh từ tiếng Việt, cũng
như lợi thế của chữ quốc ngữ so với chữ nôm. Trong CĐVN,
ông dành hẳn một phần rất dài đưa ra các giải pháp làm
mạnh tiếng Việt.

Về tư tưởng, trong A history of the Vietnamese, nhà sử học K.W.
Taylor cho rằng ông Nhu từ chối cả hai ý thức hệ (tư bản và
cộng sản, quần chúng và cá nhân). Chính đảng do ông Nhu xây
dựng có tên là Đảng Cần Lao, nếu dịch ra tiếng Anh (Labor
Party) thì rất giống tên chính đảng cầm quyền ở miền bắc
lúc bấy giờ là Đảng Lao Động. Nhưng trong tiếng Việt thì
ông Nhu lý giải rằng chữ "động" trong "lao động" có
màu sắc cưỡng bức đám đông của Mao còn chữ "cần" trong
"cần lao" của ông Nhu thì có màu sắc tự nguyện. Sử gia
Taylor giải thích triết lý (ý thức hệ) Nhân Vị của ông Nhu
là do chịu ảnh hưởng triết lý "personalism" của triết gia
công giáo Emmanual Mounier (khi ông còn ở khu Latin, Paris), nhưng
ông Nhu đã nhấn mạnh chân giá trị của cá nhân trong bối
cảnh "hợp tác tập thể để tự cá nhân" rồi phát triển
nó thành học thuyết riêng của mình mang tên Nhân Vị. Taylor
khuyến nghị cách dịch Nhân Vị ra tiếng Anh là "personism".
Lập luận này của Taylor có lẽ đúng bởi chính ông Nhu phủ
nhận thuyết Nhân Vị của mình giống với Nhân Vị của Công
giáo. Với học thuyết Nhân Vị, nảy mầm vào khoảng thời gian
ông trốn khỏi Hà Nội, ông Nhu đã có tư tưởng chống Mỹ
(tư bản) nhiều hơn chống Pháp (theo lời Cao Văn Viên), hòa
hợp được nhiều tôn giáo (theo giải thích của ông Nhu)<i>,</i>
và là cơ sở đề cao sự tự quyết của dân tộc (không cho
Mỹ đưa quân vào, không cho tăng cường cố vấn quân sự,
không cho đặt cố vấn Mỹ bên cạnh các tỉnh trưởng, …là
những cái được chính quyền Sài Gòn chấp thuận sau khi Diệm
Nhu bị giết).

Hòa hợp tôn giáo cuối cùng thất bại, nỗ lực chống lại
can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt Nam cũng thất
bại. Cả hai đều dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ
Ngô. Can thiệp của người Mỹ vào đảo chính thì như trên đã
dẫn lời Phạm Xuân Ẩn. Còn xung đột với Phật Giáo, sách
của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến nói ngược nhau, nhất là về
việc thượng tọa Trí Quang trốn vào sứ quán Mỹ cho đến khi
xong đảo chính. Còn Phạm Xuân Ẩn, từ thời đó đã biết
đại tá Thảo là tình báo của Hà Nội, nhưng sau này có vẻ
như lờ đi, không nói về thượng tọa Trí Quang mà chính bạn
của ông Ẩn là bác sỹ Tuyến luôn cho là một ông sư marxist.

Sách của Trần Kim Tuyến và Đỗ Mậu cũng nói ngược nhau về
nguyên nhân của sự liên lạc của ông Nhu với Hà Nội. Dù
rằng việc liên lạc ấy là có vẻ như là thực và giống nhau
trong sách của cả ông Mậu lẫn ông Tuyến: thông qua ngoại
giao, bên ông Nhu bí mật vào rừng, hoặc bên miền bắc từ
rừng bí mật vào dinh tổng thống (chắc sử liệu ở Hà Nội
có ghi chi tiết). Người cán bộ cộng sản thư sinh bí mật vào
dinh gặp ông Nhu nhiều lần, được cho là Trần Độ. Sách của
Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến chỉ ngược nhau về cách giải
thích. Nhưng dù giải thích thế nào, thì việc ông Nhu bí mật
nói chuyện với Hà Nội cũng là một cái cớ nữa để người
Mỹ xuống tay. Việc ông Nhu đi Pháp như nói ở trên, cũng là
một nước cờ quan trọng nhằm kéo thêm ủng hộ (viện trợ)
của Pháp bù vào phần hụt mà Mỹ sẽ cắt đi, trong lúc tiếp
tục đàm phán bí mật để dẫn đến thỏa hiệp với Hà Nội
(mà nhiều người cho rằng nếu thành công thì sẽ thống nhất
đất nước bằng hòa bình, giữ được nền cộng hòa, và ông
Nhu có thể một ngày nào đó trở thành thủ lĩnh). Điều này
có vẻ cũng có lý, khi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình,
ông Nhu đã từng thực hiện thành công một việc tương tự,
khi ông gặp bí mật Bảo Đại trước khi ông vua trẻ này rời
Việt Nam qua Pháp đúng 10 năm trước (1953).

Trong một nghiên cứu ngắn cách đây chưa đến chục năm,
Nguyễn Gia Kiểng đã tiếp xúc và có tài liệu từ một chính
trị gia lão thành thuộc phe cánh tả của Pháp, ông Jaques Bénet.
Ông Bénet là bạn học cùng trường Chartes với ông Nhu, tham gia
kháng chiến, tham gia thành lập đệ tứ cộng hòa của Pháp, và
có quan hệ chính trị rộng rãi. Sau này ông Bénet là người
của Đảng Xã Hội Pháp. Ông Nhu có tiếp xúc bí mật với
Bénet trước khi Bảo Đại qua Pháp; và chính ông Bénet đã làm
đầu mối bí mật để vận động Pháp lặng lẽ chọn Ngô
Đình Diệm làm giải pháp thay thế Bảo Đại. Nhận định này
là do ông Kiểng đã gặp trực tiếp Bénet và đọc từ bức
thư riêng mà ông Nhu và Bénet trao đổi với nhau. Ông Kiểng
cũng phân tích rằng ông Nhu hoàn toàn không có quan hệ với
bất cứ ai ở Mỹ, cho đến khi ông Nhu có quyền lực ông mới
quen Lansdales ở Sài Gòn. Ông Diệm thì có một chút quan hệ
với Mỹ từ năm 1950, nhưng phải sau khi ông lên tổng thống,
qua thăm chính thức nước Mỹ, và sau khi chính phủ Pháp thời
De Gaule quay lưng lại với ông Nhu, thì người Mỹ mới chính
thức đứng sau ông Diệm. Ông Kiểng cũng cho rằng sau khi Diệm
Nhu bị lật đổ, nước Pháp đã quay về phía Hà Nội. Điều
này khá logic với việc ông Nhu không sử dụng nhóm ông Hà
(học giỏi, có uy tín, đã từng làm bộ trưởng ở Hà Nội),
ông Hãn (học giả lớn), ông Luyện (em ruột ông Nhu và là bạn
học của Bảo Đại) dù rằng chính nhóm này đã thuyết phục
Bảo Đại ký giấy bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Ông
Diệm phần nào giải thích việc không sử dụng các trí thức
lớn thiên tả Hà, Hãn, Tường trong thư riêng gửi ký giả
Joseph Buttinger năm 1956. Cả Đỗ Mậu vẫn Trần Kim Tuyến đều
nói các bài diễn văn quan trọng của ông Diệm đều do ông Nhu
viết bằng tiếng Pháp rồi cho người dịch ra. Lá thư gửi
Buttinger có thể cũng do ông Nhu viết.

Các lập luận của ông Kiểng cũng logic với việc một người
chống Pháp như ông Diệm mà chỉ trong năm 1955 đã dẹp sạch
những gì chịu ảnh hưởng của Pháp, kể cả quân đội BÌnh
Xuyên. Năm 1955 chính quyền ông Diệm sáp nhập vùng đất Hoàng
Triều Cương Thổ của Bảo Đại vào miền nam, cũng như dẹp
nguồn tài chính của Bảo Đại ở Chợ Lớn (sòng bài Đại
Thế Giới, xóm ăn chơi Bình Khang) do Bình Xuyên của Bảy Viễn
điều hành (Bảy Viễn được Bảo Đại phong tướng năm 1952,
một năm trước khi Bảo Đại qua Pháp). Chỉ dựa vào ủng hộ
của Mỹ mà không có đèn xanh từ Pháp thì sẽ không có giải
pháp thay thế ngoạn mục: nhanh và ít đổ máu như vậy. Thậm
chí chiến dịch Hoàng Diệu của Dương Văn Minh đánh vào rừng
Sác, cũng được cho là chiến dịch do ông Nhu dàn xếp sẵn
với Pháp chứ không hẳn là bắn nhau thật. Sau đó Pháp đã
đưa Bảy Viễn qua Paris. Trong các sách tôi đọc, thấy cũng ông
Nhu luôn chế diễu các phe phái chống cộng là "không có giải
pháp thay thế (thì chống để làm gì)" có lẽ là vì lý do bí
mật về "giải pháp thay thế Bảo Đại" mà ông Kiểng phát
hiện ra.

Sau khi chế độ Diệm Nhu bị hạ đổ, Sài Gòn rơi vào hỗn
loạn chính trị, đảo chính hạ bệ nhau liên tục, cho đến khi
Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống tình hình chính trị mới
bớt hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu được cho là người ra lệnh
giết Phạm Ngọc Thảo. Ông Ẩn không có nhận xét gì nhiều
về Diệm Nhu, nhưng với Thiệu ông mô tả ông tổng thống này
như một con khỉ nghiện thuốc phiện của người Hoa, ý nói
ông Thiệu là con khỉ nghiện viện trợ của Mỹ. Ông Ẩn, có
vẻ như hơi cay đắng khi trách người Mỹ đã lật đổ ông
Diệm mà không có "giải pháp thay thế".

Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946-1955 rất bí hiểm và rối
rắm. Mà <a
href="http://5xublog.org/2013/10/23/tu-chuyen-trai-tro-ve-chuyen-hong-bang/">lịch
sử</a> Việt Nam thời kỳ nào cũng thế. Nếu tất cả những
thông tin nói trên mà đúng, và chắc là đúng thôi, ít ra ở
sự logic các sự kiện và nhân vật, thì ông Nhu là một
trường hợp vô tiền khoáng hậu.

Từ một trí thức trẻ uyên bác, nghèo xác xơ, nói và viết
tiếng Việt rất kém, trong một bối cảnh xã hội phức tạp
vừa thoát khỏi thực dân phong kiến, dân trí thấp, thậm từ
vựng chính trị của tiếng Việt cũng vẫn còn nghèo nàn, ông
Nhu đã xây dựng được lực lượng chính trị của riêng mình,
với tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình (tuy
tổ chức còn lỏng lẻo, nghiệp dư và có nhiều bê bối). Rồi
từ đó ông Nhu đã trở thành một chính trị gia mưu lược,
rất giỏi ẩn mình. Ông dựng lên một tổng thống đầu tiên,
một thể chế chính trị cộng hòa mới mẻ, một nhà nước
với guồng máy cai trị thực dụng đến tàn nhẫn nhưng rất
hiệu quả.Cuối cùng ông Nhu chết cùng với vị tổng thống và
chế độ do chính mình dựng nên, để lại thể chế cộng hòa
còn non nớt. Ngày Diệm-Nhu bị lật đổ được lấy làm ngày
quốc khánh thứ hai cùng nền cộng hòa thứ hai (đệ nhị) và
bản hiến pháp thứ hai ở miền nam. Người lật đổ Diệm
(tổng thống đầu tiên của miền nam) sau này trở thành tổng
thống cuối cùng của miền nam và hàng tướng nổi tiếng nhất
thế kỷ 20.

Trước khi chuyển qua bản luận văn, xin trích vài đoạn trả
lời của ông Nhu, theo ghi chép của bác sỹ Tuyến và vài đoạn
trích từ chính đề:

<i>Câu hỏi: Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng
Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập?</i>

<i>Ông Nhu trả lời: Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu
xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể
áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương.</i>

<i>Đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn
năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng
tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của
quốc gia. </i>

<i>Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải dập khuôn
như họ…nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác…trong một
quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia
đang có chiến tranh. </i>

<i>Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân
chủ có nghĩa là (mô) phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng
(), ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ,
nạn kỳ thị phe phái…nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như
ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam
thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn. </i>

<i>Câu hỏi: Hình như Tổng Thống Kennedy muốn Miền Nam có sự
canh tân Hiến Pháp?</i>

<i>Ông Nhu trả lời: Không chính thức khuyến cáo như vậy
nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như
vậy.</i>

<i>Câu hỏi: Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn
Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi
mở?</i>

<i>Ông Nhu trả lời: Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc
tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và
Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài
với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng. Chẳng hạn
họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao
Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án
chúng tôi là độc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một
viện và do Quốc Hội không kiểm soát được Hành Pháp.</i>

<i>""Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số,
nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ
về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại. </i>

<i>Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được
biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa
vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị
chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các
nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa
liên tục của một cuộc ngoại xâm." </i>

<i>"Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã
chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng
thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây,
rồi lại phải chống Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào
hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam."</i>

<i>''Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung
Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận
với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc.
Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ
thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một
ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà
Trung Hoa coi như tạm mất''</i>

<i>"Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một
phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương
tiện sẽ không còn giá trị nữa. </i>

<i>Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp
đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội
Tây phương."</i>

<i>"Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục
kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này
đã thực hiện được việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong
gần 200 năm.</i>

<i>Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền,
là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh nghiệm và văn khố
làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có gì thay
thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường."</i>

<i>"Như trên đã trình bày, sự lãnh đạo quốc gia được
liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa mãn:
</i>

<i>1. Sự chuyển quyền được bình thường từ lớp người
trước cho tới lớp người sau. </i>

<i>2. Các bí mật quốc gia được truyền lại. </i>

<i>3. Thuật lãnh đạo được truyền lại và được cải
thiện càng ngày càng tinh vi. </i>

<i>4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng được xếp vào văn khố,
được truyền lại và có người biết sử dụng văn
khố."</i>

<i>"Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự
chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước
và lớp người sau. Bí mật lãnh đạo và bí mật quốc gia
đều mất. </i>

<i>Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ vãng
không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc.
Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ
quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời
kỳ Pháp thuộc."</i>

Tác giả của bản luận văn tốt nghiệp trường Chartes năm
1938 đã chết cách đây đúng nửa thế kỷ. Và lời giới
thiệu về tác giả như thế này là quá dài và hơi liên thiên.
Dưới đây là bản dịch tóm lược bản luận văn…

<h1>Những phong tục và tập quán của người An Nam ở Đằng
Ngoài thế kỷ XVII</h1>

<b>Ngô Đình Nhu</b>

<center>* * * </center>

<h2> Tài liệu tham khảo</h2>

<center>* * * </center>

<h2> Phần mở đầu</h2>

Không có bất cứ tài liệu nguồn gốc châu Á nào, do đó các
tài liệu châu Âu có vai trò đặc biệt quan trọng.

Các thầy tu dòng Tên (Jésuites): Baldinotti, Alexandre de Rhodes,
Marini, Tissanier. Các thầy dòng của Hội thừa sai: Deydier, Jacques
de Bourges, Belot, Guisain. Các nhà buôn: Baron, Dampier.

Văn khố của Hội thừa sai; tổng hợp và miêu tả.

<center>* * * </center>

<h2> Phần Một: Xã hội</h2>

<h3> Chương Một: Các nhóm dân cư</h3>

1. Làng xã. – bao gồm hai mươi đến bốn mươi ngôi nhà lợp
mái rơm rạ, dựng nên từ tre và đất sét. Không có công trình
kiến trúc lớn. Nước lấy từ ao.

Trưởng làng có nhiệm vụ thu thuế và chủ trì việc phân chia
phần đất chung theo kì hạn.

2. Chợ giữa các làng. – Chợ họp hàng tuần và thường là
giữa bốn đến năm làng, các làng thay phiên nhau làm chủ chợ.
Việc họp chợ giữa các làng là tế bào kinh tế của cả
vùng. Các đô thị quan trọng nhất là Domea (200 nóc nhà) và Hien
(2000 nóc nhà) thường xuyên có sự hiện diên của các nhà buôn
nước ngoài và Kien-lao (7000 giáo dân) trở thành lợi thế của
vùng để được hưởng các ưu tiên của triều đình

3. Ke-cho (Hanoi) – Kinh đô, nơi có các công ty xuất nhập khẩu
châu Âu. Sự phồn thịnh, 36 phố phường, bảy mươi hai khu
chợ, mỗi phố chỉ chuyên một ngành hàng, 20 000 nóc nhà.

<h3> Chương Hai: Nông nghiệp</h3>

1. Lúa gạo

a) Vị trí bậc nhất của cây lúa. Lí do.

b) Chế độ sở hữu: hợp đồng cầm cố (vente à réméré)
chỉ được chấp nhận đối với người ngoại quốc, ruộng
đất manh mún. Chiếm dụng đất theo dòng họ (groups de famille),
sự nhũng lạm của giới quý tộc.

c) Nông cụ: sử dụng cày. Tự điển của linh mục de Rhodes
cần được sử dụng cẩn trọng, có liên hệ tới cả Đàng
Trong cũng như Đàng Ngoài.

d) Canh tác: hai vụ lúa mỗi năm và tô (prix de revient) tăng cao.

e) Nạn đói: mười hai nạn đói từ năm 1681 đến 1721: tính
chất.

2. Trồng trọt thứ yếu. – Trồng cau, dâu tằm.

<h3> Chương Ba: Chăn nuôi, Đánh cá, Công nghiệp</h3>

1. Chăn nuôi. – Gia cầm và lợn thịt. Ít bò và trâu. Thiếu
đồng cỏ.

2. Đánh cá. – Tầm quan trọng đối với người Đàng Ngoài

a) Nước ngọt:

b) Trên biển: kém phát triển do giá tàu biển cao.

3. Làng nghề. – Có rất ít tài liệu liên quan đến chủ đề
này: văn khố của Hội thừa sai cung cấp một văn bản quý giá
cho phép định vị nghề dệt chiếu ở tỉnh Nam-dinh. Nghề sơn
và gốm sứ.

Kéo sợi và dệt lụa là nguồn cung xuất khẩu duy nhất: các
nhà buôn nước ngoài đến vào tháng bảy, đặt mối với các
thợ thủ công – luôn phải qua khâu trung gian - và chờ đợi
ít nhất sáu tháng để đơn hàng được hoàn thiện.

<h3> Chương Bốn: Tiền tệ</h3>

1. Các loại tiền tệ. – Duy nhất một loại tiền được lưu
hành: tiền đúc từ đồng. Tiền 10 đồng và 6 đồng được
nhập từ Trung Quốc và Nhật Bản, chỉ được dùng ở Ke-cho
và bốn tỉnh xung quanh.

2. Tỷ giá quy đổi. – Sự ổn định của đồng so với vàng,
sự bất ổn của tiền đồng trong đó có yếu tố trượt giá:
1 quan đổi ra 600 đồng năm 1666 và 1200 đồng năm 1715.

3. Cho vay nặng lãi. – Lãi suất hợp pháp từ 25% đến 30%
thường xuyên bị vượt qua, người ta cho vay lấy lãi 100% đến
240% rồi 3600%. Tình trạng khốn cùng cuối thế kỷ XVII và
đời sống đắt đỏ.

<h3> Chương Năm: Thương nghiệp</h3>

1. Nội thương

a) Các con đường giao thương: sông và kênh

b) Các phương tiện giao thông: không có máy móc vận tải,
chuyển chở trên ván thăng bằng, thuyền ba ván.

2. Ngoại thương. – Những con đường đến Đàng Ngoài: mọi
hoạt động ngoại thương đều qua đường biển. Thương nhân
Trung Quốc ngược lên Cua Luc-bô (Rokbo theo của Dampier) chính là
sông Đáy; người châu Âu qua Cua Lâ (Thai-Binh) dẫn đến Domea;
ngôi làng này chắc chắn không phải là Dôn-Minh, mà là
Dông-xuyên-ngoai: những tàu buôn châu Âu không đi xa thêm trong
khi thuyền mành (jonque) Trung Quốc ngược lên đến Hien.

Người ta không bao giờ chỉ ra rằng, bên ngoài Đàng Ngoài,
không có bóng dáng một con thuyền cũng như không có một nhà
buôn Đàng Ngoài nào, và những người châu Á khác cùng với
người châu Âu đã độc chiếm hoàn toàn ngoại thương của
vùng.

Thường xuyên thiếu lương thực, bị bỏ đói định kỳ,
người Đàng Ngoài nhận lấy một sự tồn tại khốn khó, bất
bênh và không thể nghĩ đến điều gì ngoài miếng cơm hàng
ngày.

<center>* * * </center>

<h2> Phần Hai: Cuộc sống gia đình</h2>

<h3> Chương Một: Tổ chức gia đình</h3>

1. Nền tảng của quan hệ họ hàng. – Quan hệ huyết thống,
địa vị vượt trội của họ hàng bên nội thể hiện qua
những cách gọi tên đặc biệt.

2. Cấu trúc gia đình. – Không có thị tộc (clan); bố mẹ và
con cái.

3. Tổ chức gia đình. – Người mẹ phụ thuộc vào quyền
quyết định của người cha, con cái bình đẳng.

<h3>Chương Hai: Hôn nhân</h3>

Nguồn bằng chứng châu Âu dồi dào trở nên đặc biệt quý
giá khi không có bất cứ tài liệu nào có xuất xứ An Nam.

1. Vai trò của đôi vợ chồng tương lai. – Không có quyền
được chọn người hôn phối; bố mẹ cưới gả con từ khi
còn nhỏ tuổi.

2. Ăn hỏi. – Người mối lái, sính lễ, thách cưới chàng
rể tương lai.

3. Đám cưới. – Trình của hồi môn, luôn là ruộng vườn và
được tặng bởi chú rể; nộp khoản phí bắt buộc cho các
chức sắc trong cộng đồng; cỗ cưới do chú rể chi trả; cô
dâu trình diện trước các ông thần bếp (ông Táo) và tổ tiên
của chồng

<h3>Chương Ba: Chấm dứt hôn nhân</h3>

1. Ly hôn. – Người phụ nữ hiếm khi có thể ly hôn và trong
trường hợp có thể thì phải bồi thường cho người chồng.

2. Bỏ vợ. – Người chồng luôn có rất nhiều cơ hội để
ruồng rẫy vợ.

3. Cách thức ly hôn và bỏ vợ. – Sự phá bỏ quan hệ hôn
phối được thể hiện công khai: "đồng tiền hay chiếc đũa
bẻ đôi"

4. Bât-dông hay dô-dông. – Các quý tộc có quyền lấy làm lẽ
những người phụ nữa góa chồng, bị chồng bỏ, ly hôn hay
những cô gái chửa hoang trong làng; những người này chỉ có
thể khước từ bằng cách nộp 1 quan tiền cho quý tộc và từ
đó không được phép lấy bất cứ ai. Tục lệ này chỉ còn
được lưu giữ trong văn khố của Hội thừa sai.

<h3> Chương Bốn: Sinh và Tử</h3>

1. Sinh

a) Ngày sinh: đặc biệt quan trọng

b) Tên riêng: không được là tên một đứa trẻ khác đã
chết; đặt tên xấu cho con để tránh bị ma quỷ quấy nhiễu.
Khi đứa con đầu tiên ra đời, cách gọi tên ông bà nội và
ông cậu họ nội sẽ được thay đổi, cách gọi tên người
con cả thay đổi khi người con thứ ra đời. Khi thôi nôi, đa
phần tên gọi cũ sẽ được thay thế bằng một cái tên đẹp.

Sự tôn kính một bậc bề trên thể hiện qua việc không bao
giờ gọi tên của người này cũng như tên của cha mẹ ông ta,
và người ta phải nói chệch đi bằng các từ đồng âm với
tên gọi; cũng từ đó mà một số gia đình có vốn từ đặc
biệt.

c) Tuổi trưởng thành: mười tám tuổi. Thông thường, trẻ em
được tính một năm tuổi khi vừa chào đời và được hai
tuổi vào Têt (đầu năm) sau.

d) Con nuôi: phổ biến, nhưng không được chứng thực bằng
giấy tờ và không công khai. Baron được một hoàng tử ở
Đàng Ngoài nhận nuôi để không phải chịu phiền toái và
những Thừa sai người Pháp nhận làm con trai danh dự của một
ái phi của Trinh Can để tự bảo vệ trong một phiên xử khó.
Nhận nuôi thường không chỉ là một sự tiến cử đơn thuần,
chỉ ra rằng ở Đàng Ngoài vào thế kỉ XVII không có tổ chức
xã hội nào khác ngoài gia đình và rằng người ta không thể
có người bảo hộ nào khác ngoài cha và mẹ.

2. Tử. – Người Đàng Ngoài sợ cái chết, nhưng có thái độ
chấp thuận, và sợ nhất là không có được một cỗ áo quan
đẹp. Thi hài được quàn trong mười đến mười lăm ngày
trước khi được an tang ở bản quán. Thời gian chịu tang: ba
năm cho con, hai năm, ba tháng và mười ngày cho góa phụ ; phải
sống khắc khổ trong thời gian chịu tang. Thờ cúng tổ tiên,
trong đó gia đình là đơn vị, tạo nên sự gắn kết và sức
mạnh.

<center>* * * </center>

<h2> Phần Ba: Đời sống cá nhân</h2>


<h3>Chương Một: Trang phục</h3>

Tóc thả dài, biểu tượng của tự do; việc cắt tóc là một
nhục hình hoặc là dấu hiệu của tang gia. Trán rộng được
cạo nhẵn, răng được nhuộm lúc mười sáu hay mười bảy
tuổi. Mũ, quần áo. Dân cư chủ yếu ở trần.

<h3> Chương Hai: Thức ăn</h3>

Gạo là thức ăn chính; thịt, nhất là thịt chó; các loại cá
và nuoc-mam. Chỗ ở và đất đai. Một chế độ ăn thiếu thốn
giải thích cho việc các tín đồ Cơ Đốc ở Đàng Ngoài đều
không ăn chay.

<h3> Chương Ba: Tính cách</h3>

Có sự tương thích giữa các lời chứng. Người Đàng Ngoài
cởi mở, nhạy cảm với tình bạn, ý tứ, ít gây gổ, ngăn
nắp nhưng cũng tham ăn (có lẽ đơn giản là do bị bỏ đói),
lười nhác và trộm cắp. Mại dâm thế kỷ XVII.

<center>* * * </center>

<h2> Kết luận</h2>

Nhìn chung, các tập quán ở Đàng Ngoài không có nhiều thay
đổi từ thế kỷ XVII và không có gián đoạn nào trong sự
tiếp nối tâm lý. Tuy nhiên, ta nhận thấy ở người Đàng
Ngoài một sự thích nghi đáng lưu ý: những phong tục khắc
nghiệt biến mất không để lại dấu vết và nhận định này
khiến chúng ta cần thật sự cẩn trọng trong những giả
thuyết về các nguồn gốc của văn minh Đàng Ngoài.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20131120/5xu-luan-van-cua-ong-ngo-dinh-nhu),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét