Nguyễn Hưng Quốc - Quốc Khánh

<center><img
src="http://farm4.static.flickr.com/3124/2820895533_94196aa9a2.jpg?v=0"
/></center>

Kỳ trước, trong bài <a
href="http://www.voatiengviet.com/content/ban-tat-ca-tru-huyen-thoai/1739870.html"
title="bán tất cả trừ huyền thoại">"Bán tất cả, trừ
huyền thoại"</a>, tôi đã giới thiệu một bài thơ cụ thể
của Lê Văn Tài. Nhân dịp ngày Quốc khánh của Việt Nam (2
tháng 9), chúng ta thử "đọc" một bài thơ khác, có nhan đề
"Quốc khánh", của anh:

Khác với bài "Những tác phẩm tiêu biểu Đại Cồ Việt từ
truyền thống đến hậu Cộng sản (Triển lãm tại World Trade
Centre, New York, 2009)", bài này hoàn toàn không có chữ (trừ
nhan đề). Chỉ có hình. Người ta gọi đó là thơ tạo hình
(visual poetry), một thể loại khá phát triển, thoạt đầu, ở
Brazil và Đức, sau, lan rộng khắp nơi. Đặc điểm nổi bật
của thơ tạo hình là: một, tận dụng yếu tố hình ảnh trong
văn hóa thị giác; hai, kết hợp thơ với hội họa: vừa để
đọc vừa để nhìn; ba, loại bỏ yếu tố tuyến tính vốn
gắn liền với các phương thức tự sự trong văn học truyền
thống; và bốn, đưa thơ đến gần với nghệ thuật ý niệm
(conceptual art), ở đó, cái hay của tác phẩm chủ yếu nằm ở
ý tưởng và cách thức diễn tả ý tưởng ấy (Sol LeWitt:
"conceptual art is good only when the idea is good").
Nhìn vào bài thơ trên, chúng ta thấy gì?

Thấy, trước hết, là hình ảnh. Hình được chia thành hai
nhóm: phía dưới, thấp, nhỏ và mờ, là phố xá; phía trên,
cao, lớn và đậm nét, là một bầy chim đang bay. Những con chim
ấy, thật ra, là hình ảnh của những chiếc máy bay được
cách điệu hoá. Thì ở buổi lễ mừng quốc khánh nào mà lại
không có diễu hành, diễu binh và những màn trình diễn bằng
máy bay trên không?

Nhưng nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy, tất cả những con chim / máy
bay ấy, thật ra, đều là những dương vật đang bay. "Dương
vật" chỉ là một uyển ngữ. Lê Văn Tài không muốn dùng cái
uyển ngữ ấy. Anh cũng không muốn người đọc nghĩ đến cái
uyển ngữ ấy. Bằng hai chữ "C" ngoặc vào nhau ở đuôi các
con chim, anh muốn gợi cho người đọc liên tưởng đến một
chữ khác: c…c. Nói cách khác, hình ảnh nổi bật nhất trong
ngày lễ quốc khánh này, với Lê Văn Tài, chỉ là hình ảnh
những con c…c đang bay rợp trời.

Nhìn, chúng ta hiểu ngay, điều Lê Văn Tài muốn diễn tả là
một lời văng tục của anh trước cái gọi là "quốc
khánh", ngày lễ quan trọng nhất của một quốc gia. Cần
phải nhấn mạnh ngay: quốc khánh không phải là quốc gia. Quốc
khánh chỉ là biến cố được một chế độ chọn xem là tiêu
biểu nhất trong việc định hình bản sắc của chế độ ấy.
Có thể giải thích sự văng tục này như một thái độ của
anh trước tình hình chính trị Việt Nam, một thứ chính trị
dựa trên bạo lực, ở đó, chiến tranh được huyền thoại
hoá như một thứ bùa hộ mệnh cho chế độ. Đã có nhiều nhà
thơ đặt nghi vấn về điều đó. Sau năm 1975, trong bài "Hòn
đá làm ra lửa" sáng tác trong trại cải tạo, Trần Dạ Từ
viết:

<em>Sự ăn nằm dại dột đẻ ra đứa con khờ khạo
Tên nó là chiến tranh. (1)
Nguyễn Duy, trong bài "Đá ơi", sáng tác năm 1989, cũng nghĩ
như thế:
Nghĩ cho cùng
Mọi cuộc chiến tranh
Phe nào thắng thì nhân dân đều bại…(2)</em>

<strong>Như vậy, sự phê phán của Lê Văn Tài cũng không phải
là điều gì bất thường.
</strong>
Tuy nhiên, theo tôi, trong bài thơ trên còn một khía cạnh khác,
sâu sắc hơn: quốc khánh là để tôn vinh dân tộc tính; dân
tộc tính lại được định hình chủ yếu từ chiến tranh;
chiến tranh là bạo lực, mà bạo lực lại gắn liền với nam
tính. Quốc khánh, do đó, không phải chỉ là ngày lễ biểu
dương của một chế độ mà còn là một cuộc biểu dương
của giống đực. Nếu hình ảnh những toà nhà nằm phía dưới
gợi liên tưởng đến một người phụ nữ đang nằm với
những đường nét nhấp nhô kiểu "Một đèo, một đèo, lại
một đèo" (Hồ Xuân Hương), hình ảnh những con chim / máy bay
trên trời chính là hình ảnh của những gã đàn ông đang uy
hiếp cả không gian. Chúng sắp hàng đâm thẳng về phía
trước. Chúng xé toạc cả bầu trời. Chúng là những con c…c
biết bay.

<strong>Có hai điều cần nói thêm về cái chữ dễ bị xem là
tục tĩu này.</strong>

Thứ nhất, gần đây hầu như mọi nhà phê bình và nghiên cứu
đều đồng ý với nhau một điểm: Trong ngôn ngữ không có
chữ nào là thanh hay tục hơn chữ nào cả. Vấn đề là cách
sử dụng và mục đích sử dụng. Một số tiếng chửi thề
vang lên, đây đó, trong thơ Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn
Công Trứ và Cao Bá Quát (ở một số câu thơ trong giai thoại),
được khen là thấm thía và độc đáo. Hiện tượng giới cầm
bút văng tục trong sáng tác như vậy sau này càng lúc càng
nhiều. Nó chỉ là biểu hiện của những bức bối mà họ đang
chịu đựng đồng thời cũng là cách diễn tả những phản
kháng âm thầm trong lòng họ. Mở đầu cuốn Ðộ không của
lối viết, Roland Barthes đã nhắc đến Hérbert, một nhà cách
mạng, người thường văng tục trên tờ báo Le Père Duchêne.
Barthes nhận xét: "Những lối văng tục ấy chẳng có nghĩa gì
cả, nhưng chúng báo hiệu. Chúng báo hiệu bằng cách nào? Bằng
cách diễn tả cả một tình thế cách mạng." (3)

Thứ hai, nhìn ở bình diện khác, sâu hơn, chúng ta cần quay
lại với lý thuyết Ngôn-dương vật luận (phallogocentrism) của
Jacques Derrida: theo ông, lịch sử văn minh Tây phương được xây
dựng trên nền tảng của Ngôn tâm luận (Logocentrism), một quan
điểm cho từ (word), đặc biệt khía cạnh ngữ âm của từ,
đóng vai trò quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ, và từ đó,
trong lịch sử văn minh của nhân loại. Nhấn mạnh vào khía
cạnh ngữ âm cũng có nghĩa là hạ thấp vai trò của chữ
viết. Chữ viết, như vậy, trở thành biểu tượng của ngôn
ngữ nói, là ký hiệu của ký hiệu, nghĩa là một cái gì
thuộc thứ yếu. Tính đẳng cấp ấy phản ánh rõ nét trong
siêu hình học Tây phương: Đó là khuynh hướng tư tưởng dựa
trên nam tính (masculinist/phallic) và phụ hệ (patriarchal), điều
được Derrida gọi là Duy dương vật luận (phallocentrism). Kết
hợp Logocentrism và Phallocentrism lại với nhau, Derrida sáng tạo
nên một chữ mới: Phallogocentrism mà tôi tạm dịch là
Ngôn-dương vật luận.

Khai triển quan niệm này của Derrida, các nhà nữ quyền luận
cho lịch sử nhân loại được viết bởi nam giới và văn hoá
nhân loại cũng được sáng tạo bởi nam giới: Nam giới không
những chiếm ưu thế về phương diện kinh tế, chính trị và
xã hội mà còn chiếm ưu thế cả trong ngôn ngữ, và qua ngôn
ngữ, sáng tạo văn học, viết và viết lại lịch sử, từ
đó, khuynh loát cả khung tư duy và toàn bộ hệ quy chiếu cũng
như các bảng giá trị của loài người: ở đó, dương vật là
ngòi bút (pen = penis), là biểu tượng và là nguồn suối của
quyền lực, hay nói cách khác, nam giới bao giờ cũng thống
trị.

Ở Việt Nam, giới nghiên cứu lịch sử và văn hoá thường cho,
khác với Tây phương, người Việt vốn coi trọng phụ nữ với
hai biểu hiện chính là, một, vai trò của nữ giới qua hình
ảnh của Âu Cơ, Trưng Trắc, Trưng Nhị và Triệu Ẩu, và hai,
Đạo Mẫu trong tín ngưỡng dân gian. Nhưng, cả hai biểu hiện
ấy, một là rất xưa, chủ yếu là thời nguyên thuỷ, như một
di tích của nền văn minh Nam Á, trước khi tiếp xúc với Trung
Hoa; hai là rất mờ nhạt, chủ yếu ở dân gian. Trong nền văn
hoá chính thống, với sự hỗ trợ của giới cầm quyền, văn
hoá Việt Nam thực chất vẫn là một thứ văn hoá duy dương
vật. Người ta hay nói câu "nhất nam viết hữu, thập nữ
viết vô" là của Trung Hoa, nhưng, không nên quên, tục ngữ
Việt Nam cũng có một câu tương tự, thậm chí còn nặng nề
hơn: "Một trăm đứa con gái không bằng hòn dái đứa con
trai".

Trở lại với bài thơ "Quốc khánh" ở trên, theo tôi, Lê
Văn Tài không phải chỉ muốn bày tỏ thái độ của anh đối
với một ngày lễ, và qua ngày lễ ấy, điều mà một chế
độ muốn tuyên dương, mà anh còn nêu lên nhận xét của anh
về lịch sử nói chung, một thứ lịch sử (history), nói theo
cách chơi chữ của các nhà nữ quyền luận trong tiếng Anh,
của ông ấy / gã ấy / thằng ấy (his-story).

Cũng cần nhấn mạnh: Lịch sử không phải là quá khứ. Lịch
sử chỉ là cái người ta viết về quá khứ. Những cái viết
ấy, như nhiều lý thuyết gia hậu hiện đại đã chứng minh,
bao giờ cũng chịu sự tác động của phái tính, của ý thức
hệ và của những ý đồ chính trị cụ thể. Chính vì thế,
lịch sử, thứ nhất, tự bản chất, có tính chủ quan, và thứ
hai, luôn luôn được viết lại. Có lẽ Lê Văn Tài không có
tham vọng viết lại lịch sử. Anh chỉ muốn nhìn lại lịch
sử một cách khác, từ góc nhìn của anh, góc nhìn của một
người muốn giải hoặc, muốn vạch trần các huyền thoại.

<strong>Mà huyền thoại ở Việt Nam thì nhiều vô cùng.</strong>

<strong>Nguyễn Hưng Quốc</strong>
***
<em>Chú thích:
Trần Dạ Từ (1990), Quê hương Bạn hữu Tù đày, Stuttgard: Trung
tâm Độc Lập, tr.123.
Nguyễn Duy (1990), Quà tặng, Hà Nội: nxb Văn Học, tr. 78.
<a
href="http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=6456"
title="văn hóa
tục">http://tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=6456</a></em>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130903/nguyen-hung-quoc-quoc-khanh), một
số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét