<b>Vấn đề</b>
Khái niệm về thẩm quyền lập hiến ra đời đầu tiên qua
luận thuyết <em>"Qu´est ce que le Tiers état?"</em> của Emmanuel
Joseph Sieyès vào tháng giêng năm 1789 tại Pháp. Áp dụng khái
niệm này trong bối cảnh sôi sục của Cách mạng đã gây
nhiều biến động liên tục với kết quả là chế độ quân
chủ sụp đổ, kéo theo đủ loại trưng cầu dân ý và nhiều
Hiến pháp mới thành hình. Qua thời gian, chính sự lắng đọng
hơn, các nước phương Tây đều lần lượt công nhận giá trị
khái niệm này và đưa vào áp dụng. Đây là kinh nghiệm quốc
tế mà chúng ta cũng cần tìm hiểu để góp ý trong việc sửa
đổi Hiến Pháp hiện nay. Để góp phần khiêm tốn trong việc
thảo luận chung, bài viết sau đây sẽ tìm hiểu thành tựu
của khái niệm này trong hai khía cạnh lý thuyết và thực tế.
<b>Định nghĩa</b>
<div class="boxright300"><img src="https://danluan.org/files/u23/suytu.jpg"
/></div>
Hiến Pháp là một văn bản quy định về nguyên tắc tổ
chức nhà nước và có uy lực tối thượng trong hệ thống
luật pháp. Hiến Pháp có hai chức năng chủ yếu. Một là tạo
ra thẩm quyền hiến định cho các cơ quan nhà nuớc và quy
định mọi luật thủ tục cho các cơ quan hiến định thực
hiện quyền này. Hai là quy định những luật lệ, thí dụ như
dân quyền và nhân quyền, để cho các cơ quan hiến định phải
tôn trọng. Nhưng ai có quyền lập hiến? Luật Hiến Pháp của
Pháp đã lý giải cho vấn đề này.
Bất cứ một loại luật nào, trước khi áp dụng cũng cần
có hiệu lực pháp lý về hình thức và nội dung. Hình thức có
nghiã là luật được thông qua đúng theo thủ tục, nội dung
được hiểu là lập luận được chấp nhận là hợp pháp. Khi
luật có hiệu lực sẽ tạo cho người dân có tố quyền khi
quyền lợi luật định bị vi phạm. Khi tòa án quyết định
tranh chấp sẽ có hiệu lực cưỡng chế.
Trong một hệ thống pháp luật, các văn bản phải căn cứ
vào nhau để tạo hiệu lực, thí dụ một nghị định của môt
Bộ phải dựa vào một bộ luật để ban hành và một văn bản
địa phương căn cứ vào quy định của trung ương làm cơ sở.
Luật giới gọi đây là trình tự quy chiếu mà nó tạo nên
một giá trị nội tại cho pháp luật và đỉnh cao của hệ
thống quy chiếu này là Hiến Pháp.
Hiến Pháp có một giá trị tự tại vì không cần quy chiếu
hay trưng dẫn vào các luật khác để tạo giá trị. Đặc thù
này có thể được giải thích qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Sử gia tìm hiểu nguồn gốc lịch sử và giải thích sự thành
hình Hiến Pháp qua các diễn biến của thời gian. Các nhà lý
thuyết về luật học cho rằng nguyên tắc triết học tạo giá
trị nội dung cho Hiến pháp. Họ hướng về các chuyên đề như
tính chính thống, tính hợp pháp của thể chế, thẩm quyền
lập hiến và thẩm quyền hiến định. Hiến pháp có giá trị
cao cả vì là một lý tưởng, một giá trị quy phạm ràng buộc
cho đất nước và con người. Đặc điểm chính của luật
Hiến pháp là có động lực chính trị thúc đẩy, do ý chí
chính trị của toàn dân quyết định chung sống trong trật tự
và công bình xã hội. Vì tầm vóc chính trị của các quyết
định liên quan đến đất nước, chính quyền, xã hội và con
người mà luật Hiến pháp vượt ra khỏi phạm vi luật học và
đi vào lĩnh vực chính trị.
Khái niệm về thẩm quyền lập hiến của toàn dân có hai
sắc thái vừa Cách mạng và dân chủ. Cách mạng vì mục đích
của Sieyès là chống đối lại quyền lực cai trị của Hoàng
gia và các định chế quân chủ, một quyền lực nguyên thuỷ
và tối cao cho mọi sinh hoạt của nước Pháp. Dân chủ vì
Sieyès, vốn là một nhà thần học, đưa ý niệm thẩm quyền
lập hiến vào Thần học Thiên Chúa giáo. Thần học có nội
dung chính trị dân chủ. Từ nay, đất nước không phải là
một trật tự thiên nhiên do Thiên Chúa sắp đặt ra mà do ý
chí cuả con người trong quyết định tối thượng để làm
chủ vận mệnh. Toàn dân là một chủ thể luật pháp có thẩm
quyền quyết định về trật tự cho đất nước và là tác
giả của công trình lập hiến.
Sieyès phân biệt khái niệm thẩm quyền lập hiến (pouvoir
constituant) qua đó mà Hiến Pháp thành hình và quy định quyền
lực cho các cơ quan nhà nước. Quyền của các cơ quan này ông
gọi là thẩm quyền hiến định (pouvoir constitué) vì nằm trong
phạm vi của Hiến Pháp và bị ràng buộc bởi Hiến Pháp.
Tổng hợp các chiều hướng giải thích này chúng ta có thể
định nghĩa thẩm quyền lập hiến là một sức mạnh, môt
quyền lực chính trị của toàn dân nhằm lập ra hay thay đổi
Hiến Pháp để làm căn bản cho sự chung sống trong một đất
nuớc. Thẩm quyền lập hiến không đồng nghiã với quyền lực
nhà nước mà là điều kiện tiên quyết để tạo ra quyền
lực nhà nước. Tùy theo hình thức thể hiện mà thẩm quyền
lập hiến tác động đến nội dung của quyền lực nhà nước.
Thẩm quyền lập hiến của toàn dân không bị giới hạn và
không thể chuyển nhượng. Toàn dân và kể cả thế hệ tương
lai không bị ràng buộc vào bất cứ một luật thủ tục hình
thức nào khi hành sử thẩm quyền lập hiến.
<b>Truyền thống Anh </b>
Khái niệm quyền lực lập hiến thuộc về toàn dân đã có
trong truyền thống của Anh trước khi Cách mạng Pháp bùng nổ.
Trong thời kỳ nội chiến ở nước Anh vào năm 1647 có một
phong trào đấu tranh đòi dân chủ của Levellers. Ông đề nghị
du nhập Hiến Pháp mới có tên là <em>Ageement of the People</em>,
một hình thức tạo ra một hợp đồng giữa dân và chính
quyền, một đạo luật tối cao nhằm quy định nền tảng cho
quyền lực nhà nước và không phải là quyết định của Quốc
hội. Dự thảo về <em>Agreement of the People</em> được tu chỉnh
và đệ trình Quốc hội vào năm 1648 nhưng không được phê
chuẩn.
Đến năm 1653 trong thời kỳ của Oliver Cromwell, ông đề ra
một Hiến pháp thành văn được gọi là <em>Instrument of
Government</em>. Đặc điểm của Hiến pháp này là không được
thay đổi và Quốc hội cũng không được tu chỉnh. Cromwell lập
luận rằng Hiến Pháp có tính ràng buộc vì dân chúng đã
đồng thuận. Năm 1657 Quốc hội nhận được bản dự thảo
Hiến Pháp. Đây là một Hiến Pháp thành văn duy nhất trong
lịch sử lập hiến của Anh. Năm sau Cromwell từ trần. Năm 1660
Quốc hội không phê chuẩn mà quyết định đưa đất nước
trở lại chế độ quân chủ. Từ đó, khái niệm Hiến pháp
thành văn không đóng vai trò quan trọng. Truyền thống tư duy ở
Anh cho là quyền tối thượng thuộc về Hoàng gia và Quốc hội.
Dân quyền luôn sẳn có trong xã hội mà nhiệm vụ của nhà
nước là phải tìm những thiết chế hữu hiệu hơn để bảo
vệ.
<b>Truyền thống Hoa Kỳ</b>
Một biểu hiện khác tương tự là năm 1776 khi các thuộc
địa của Anh tại Bắc Mỹ tuyên bố độc lập. Tuyên ngôn này
dựa vào quyền dân tộc tự quyết và thẩm quyền lập hiến
tối thượng. Trước đó, Bắc Mỹ đã có những Hiến chương
quy định về tự do và tổ chức nhà nước. Các Hiến chương
này do Vương quốc Anh chuẩn nhận như một đạo luật cơ bản
cho toàn dân thuộc địa và là một thành phần trong luật của
Anh. Trong khuôn khổ này các tiểu bang thuộc điạ có quyền ban
hành luật. Toà án Anh chỉ xét tính phù hợp luật tiểu bang
với luật của Anh. Trước khi giành được độc lập dân chúng
trong thuộc địa Anh coi sự ràng buộc luật tiểu bang với
luật của mẩu quốc Anh là hiển nhiên.
Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 4.7.1776 đề cao quyền dân tộc tự
quyết và thẩm quyền lập hiến. Tư tưởng này bị ảnh
hưởng từ lý thuyết luật Hiến pháp của châu Âu, mà chủ
yếu là John Locke. Thomas Jefferson thể hiện đặc điểm này qua
trích đoạn sau:
<blockquote>"Chúng tôi cho rằng những chân lý này là hiển
nhiên, tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng, được
tạo hoá ban cho một quyền không thể chuyển nhượng, đó là
quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Để bảo đảm cho
những quyền này chính quyền được lập ra cho con người, bắt
nguồn từ quyền lực hợp pháp do sự đồng thuận của người
bị trị. Khi nào hình thức của chính quyền tác hại đến
cứu cánh này, dân có quyền thay đổi hay bỏ chính quyền và
thay một chính quyền mới, đặt ra nền tảng hay nguyên tắc
tổ chức quyền lực theo hình thức phù hợp nhất để mang
lại an ninh và hạnh phúc".</blockquote>
Trong hiến pháp mới của các tiểu bang tuyên bố độc lập
có đề ra nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết, nguyên tắc
phân quyền và giới hạn quyền lực nhà nước. Bản văn Hiến
pháp gồm có hai phần. Phần thứ nhất quy định cách tổ chức
quyền lực cơ quan nhà nước và phần thứ hai là dân quyền,
Bill of Rights, xác định quyền của người dân mà nhà nước
phải tôn trọng. Trong Hiến pháp Liên bang Hoa Kỳ công bố 1787
không quy định các quyền cơ bản của người dân vì hai lý do.
Một là Hiến pháp các tiểu bang đã có quy định truớc đó và
hai là trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã minh thị vấn đề.
Đến cuối năm 1791 một thủ tục tu chỉnh ra đời để quy
định mười quyền cơ bản này thành các điều khoản phụ
thuộc và được chuẩn nhận.
<b>Cách mạng Pháp</b>
Để tránh khủng hoảng chính trị, vua Louis XVI đề ra những
cải cách nhằm chống lại giới quý tộc vào tháng năm 1789.
Ông đề nghị triệu tập một Đại hội Toàn Dân mà từ năm
1614 chưa hề tập hợp được. Trong xã hội có quá nhiều vấn
đề sôi nổi cần giải quyết, mà chủ tâm của công luận là
cần mở rộng tầm ảnh hưởng cuả tư sản thành thị và nông
dân, trong khi giới tu sĩ và quý tộc đang còn chiếm ưu thế
trong chính quyền.
Lúc chính trường càng giao động và chính giới đang hoang mang
thì học thuyết của Sieyès được công luận đón nhận nồng
nhiệt. Ông cổ vũ rằng vị trí của đất nước và dân tộc
là cao cả, chỉ bị ràng buộc theo luật tự nhiên. Đất nước
hiện hữu trước tất cả, nguồn gốc của mọi sự. Ý muốn
của đất nước bao giờ cũng là hợp pháp. Đất nước tự nó
là một loại luật. Trước và trên đất nước chỉ có luật
tự nhiên. Luật pháp thành văn được hình thành chậm trể hơn
thông qua sự phát triển của xã hội. Thể hiện ý chí của
đất nước không bị ràng buộc vào một luật hình thức nào.
Ông giải thích đất nước là một nơi tập hợp của toàn
dân để chung sống trong tinh thần tự nguyện. Để đạt đuợc
mục tiêu này tất cả mọi người cần thông báo cho nhau ý
nguyện chung sống này. Ý chí từng cá nhân sẽ kết hợp thành
một ý chí chung cho toàn xã hội, qua đó xã hội sẽ nhân danh
toàn thể để hành động. Khi các thành viên xã hội quá đông
và sống phân tán thì việc thể hiện một ý chí chung sẽ khó
khăn hơn. Từ bước đầu tiên này mà xã hội sẽ ủy nhiệm
cho một cơ chế đại diện cho toàn dân điều hành và giải
quyết những nhu cầu chung. Cơ chế này có thẩm quyền hành
động trong phạm vi mà xã hội đồng ý ủy nhiệm. Ý chí thực
sự của toàn dân từ nay được thể hiện qua ý chí của các
đại biểu của cơ chế đại diện.
Do đó, vấn đề nguyên tắc tổ chức và thủ tục được
đặt ra mà trước hết và trên hết là Hiến pháp. Sieyès cho
là có hai loại thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền hiến
định. Do thẩm quyền lập hiến của toàn dân mà Hiến pháp
mới thành hình, không có một hình thức nào khác như quân
quyền có thể thay thế. Thông qua Hiến pháp mà các cơ quan nhà
nước được tạo lập. Sở dĩ các cơ quan này có được
quyền là vì do hiến pháp ban cho, vì thế nên ông goị là thẩm
quyền hiến định. Ba cơ quan được Hiến pháp trao quyền là
Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp, cả ba bị ràng buộc bởi
luật Hiến pháp.
Ý chí của nhà lập hiến là việc thi hành quyền lực nhà
nước không gây thiệt hại xã hội. Trước tình trạng khủng
hoảng của đất nước hai giai cấp qúy tộc và tu sĩ không
đủ túc số là đại diện cho toàn xã hội và sẽ không giải
quyết được vấn đề. Sieyès cho rằng phải có một cuộc
triệu tập toàn dân để lập Quốc hội Lập Hiến. Theo ông
thì thành phần thứ ba gồm có nông dân và tư sản thành thị
mới có thẩm quyền và tư cách triệu tập Đại hội đại
biểu toàn quốc.
Tác phẩm của Sieyès gây vang động khắp nước Pháp. Cách
mạng bùng nổ. Ngày 17.06.1789 đúng theo đề nghị của Sieyès,
Đại hội Toàn Dân tuyên bố tự triệu tập Quốc hội Lập
Hiến và tự nhận là có thẩm quyền lập hiến. Sau một thời
kỳ tham vấn các đại biểu quyết định đưa ra Bản Tuyên
Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền vào ngày 26.08.1789. Bản Tuyên
Ngôn này được ghi lại trong Hiến pháp Cách mạng đầu tiên.
Hai Hiến pháp sau đó có lập lại với một vài tu chỉnh. Sau
một thời kỳ dài thảo luận, tháng chín năm 1791 Quốc hội
Lập Hiến chung quyết Hiến pháp mới để quy định chế độ
quân chủ lập hiến cho Pháp. Dù Hiến pháp tháng chín được
ghi nhận như là một mô hình cho các nước Tây Âu, nhưng tại
Pháp lại không có hiệu lực, sau đó bị thay đổi.
Một đặc điểm của Hiến pháp tháng chín 1791 là không phân
biệt giữa thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền tu chỉnh. Các
đại biểu giải thích là họ có ý thức vấn đề, nhưng tin
rằng công trình lập hiến là hoàn chỉnh và muốn tránh việc
thay đổi trong tương lai, cho dù họ công nhận là trên lý
thuyết toàn dân có quyền thay đổi. Một vấn đề khác là nên
thay đổi từng phần hay toàn bộ Hiến pháp. Các đại biểu cho
rằng việc thay đổi một phần chi tiết có thể được Quốc
hội đảm nhận, nhưng thay đổi toàn bộ phải thuộc về toàn
dân.
Điều 1 phần VII Tu chỉnh Hiến pháp quy định: Quốc hội
Lập Hiến tuyên bố rằng đất nước có một quyền bất khả
thời tiêu về việc thay đổi Hiến pháp. Tuy nhiên, khi xét
rằng sẽ thích hợp hơn với quyền lợi quốc gia với những
phương tiện do chính Hiến pháp đề ra, thì có quyền thay đổi
những điều khoản nào kinh nghiệm cho thấy là không phù hợp,
Quốc hội đề ra những thủ tục tu chỉnh Hiến pháp theo hình
thức quy định sau đây… Để thực hiện mục tiêu này, Quốc
hội Lập Hiến đưa ra một thủ tục nghiêm nhặt hơn với
việc tu chỉnh Hiến pháp.
Ngoài vấn đề soạn Hiến pháp mà cả việc thay đổi chế
độ quân chủ cũng được thảo luận kể từ năm 1792. Tranh
luận xảy ra khi một Đại biểu tuyên bố là Hiến pháp mới
là một căn bản pháp lý cho việc huỷ bỏ chế độ quân chủ.
Chủ tịch Quốc hội phản bác là hủy bỏ Hoàng gia là vi
hiến, nhưng quan điểm này không được toàn thể Quốc hội và
dân chúng đồng tình. Ngày 10.08.1792 Hoàng triều bị sụp đổ.
Đại hội bầu ra một Quốc hội Lập Hiến để soạn thảo
Hiến pháp mới. Ngay phiên họp đầu tiên 21.09.1792 Quốc hội
đồng thanh phê chuẩn việc truất bỏ chế độ quân chủ và
Hiến pháp không được ban hành nếu không có sư đồng thuận
của toàn dân. Tháng 7 năm 1793 Hiến pháp mới ra đời với sự
chuẩn nhận của đa số dân chúng.
Vì chiến tranh trong thời Robespierres nên Quốc hội Lập Hiến
dời việc phê chuẩn Hiến pháp mới cho đến khi có hoà ước.
Sau khi chế độ Robespierres sụp đổ, Hiến pháp mới ra đời
vào tháng tám năm 1795. Nhưng khủng hoảng Hiến pháp liên tục
xảy ra kéo theo nhiều xáo trộn chính trị. Tháng 11 năm 1799
Napoleon Bonaparte lên nắm quyền, một Hiến pháp mới ra đời và
được dân chúng chuẩn nhận. Qua trưng cầu dân ý vào năm 1802
Napoleon nắm quyền Tổng Tài trọn đời và năm 1804 được toàn
dân tôn vinh làm vua nước Pháp.
<b>Truyền thống Đức</b>
Dù Cách mạng Pháp có ảnh hưởng sâu đậm đến công luận
và khái niệm về thẩm quyền lập hiến được học giới
thảo luận, nhưng những Hiến pháp đầu tiên vào đầu thế
kỷ XIX tại Đức đã không minh thị thẩm quyền lập hiến
thuộc về toàn dân, mà chỉ nêu lên Hiến pháp là sự tương
thuận giữa Hoàng gia và đại biểu dân chúng, đặc biệt là
các hoàng tộc điạ phương, một hình thức nhằm tránh các
phong trào đòi hỏi dân chủ. Phong trào Cách mạng vào năm 1848
bắt đầu gây ý thức vấn đề này khi kêu gọi soạn thảo
Hiến pháp toàn nước Đức mà không cần sự hợp tác của
Hoàng gia. Quốc hội Lập Hiến triệu tập tại Frankfurter
Paulskirche vào tháng năm 1848 và biểu quyết Hiến pháp (Deutsche
Reichsverfassung) vào 28.3.1849. Hiến pháp 1849 tuy đề cao một vài
yếu tố dân chủ nhưng lại không công nhận quyền dân tộc
tối thượng như Pháp. Thoạt đầu các tiểu bang không chuẩn
nhận Hiến pháp này, nhưng về sau do áp lực của dân chúng mà
Hiến pháp được chấp nhận và Quốc hội Lập Hiến giải
tán.
Nước Đức (Das Deustche Reich) thành hình vào năm 1871 do việc
quyết định mở rộng các lãnh thổ ở Bắc Đức với sự
đồng thuận của các lãnh chúa địa phương và đại biểu dân
chúng. Việc kết ước này không đề cập tới thẩm quyền
lập hiến. Luật Hiến pháp của Đức hình thành trong một bối
cảnh lịch sử và truyền thống tư duy khác biệt. Chủ thuyết
lập hiến của Đức không theo truyền thống chung của các
nước phương Tây. Lập luận chính cho là không phải dân chúng
mà nhà nước có quyền tối thuợng. Hiến pháp cũng giống như
các loại luật khác và được hiểu là một hành vi bày tỏ ý
chí của nhà nước. Tất cả luật pháp đều có thể bị thay
đổi, nhưng luật Hiến pháp phải qua thủ tục khó khăn hơn.
Georg Jellinek là học giả luật Hiến pháp có đề cập đến
thẩm quyền lập hiến qua tác phẩm Allgemeine Staatslehre. Đây là
một sách giáo khoa chuẩn mực nhất trong thời kỳ Cộng hoà
Weimar. Jellinek giải thích nhà nước và dân tộc là hai khái
niệm đồng nghiã, luận thuyết này thuộc lý thuyết cổ điển
nhất. Từ suy luận này mà khái niệm về quyền dân tộc tự
quyết và ý chí nhà nước có tính đồng nhất. Cách hoà đồng
hai ý chí này có ảnh hưởng đến sự phát triển học thuyết
thẩm quyền lập hiến về sau.
Sai lầm của Jellinek là đồng hóa tất cả các cá nhân sống
trong xã hội vào một hình thức dân tộc thống nhất, một
tập thể thống nhất. Đúng hơn, cá nhân là một thành viên
của dân tộc, một khuôn khổ xã hội có tổ chức với một
hệ thống luật lệ chung. Với hình thức này thì việc bày tỏ
ý chí của toàn dân là điều khả thi. Thực tế cho thấy không
bao giờ có một ý chí thống nhất cuả toàn dân, mà ý chí này
là một khái niệm luật pháp tương đối. Nguồn gốc của
quyền lực không tự nhiên có sẳn trong một dân tộc khi nhà
nước chưa thành hình, ý chí của dân tộc được thể hiện
sau khi nhà nước được tổ chức nề nếp. Tùy theo hình thức
tổ chức về cơ chế đại diện toàn dân mà thẩm quyển
quyết định tối cao của nhà nước được quy định và có
thể thuộc về Hoàng gia.
Jellinek cho rằng giá trị cuả luật pháp tùy vào mức độ tin
tưởng của dân chúng, mà phần lớn do khả năng thuyết phục,
một vấn đề thuộc về hiện tượng tâm lý đại chúng trong
xã hội, đặc biệt hướng về các thành phần trung lưu ít
hiểu biết về luật lệ. Về ảnh hưởng của Quốc hội trong
thời Cách mạng Pháp ông giải thích là những người làm Cách
mạng cũng tin là nhà nước quân chủ có dựa vào nguyên tắc
quyền dân tộc tự quyết và nhà vua là công chức để thực
hiện ý chí chung. Nhưng qua hành động Cách mạng của toàn dân
và không có sự chống đối mà niềm tin này trở thành thực
tại luật pháp.
Năm 1909 Egon Zwieg cho ra đời một tác phẩm với chuyên đề
Cách mạng Pháp và thẩm quyền lập hiến. Zwieg cho là thẩm
quyền lập hiến là một giai đoạn khởi đầu soi sáng cho
luật Hiến pháp. Cuối cùng quyền lực đem tư cách pháp nhân
cho nhà nước.
Sau thế chiến thứ nhất Quốc hội Lập Hiến thành hình.
Hiến pháp được Quốc hội soạn thảo và chuẩn nhận vào
ngày 11 tháng 8 năm 1919. Thủ tục lập hiến của Hiến pháp
Weimar (WRV) dựa vào nguyên tắc thẩm quyền lập hiến của toàn
dân. Sự phúc quyết của toàn dân không cần thiết. Điều 1
Khoản 2 WRV quy định: <em>"Quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân"</em>. Điều 181 WRV ghi: <em>"Thông qua Quốc hội nhân dân
Đức biểu quyết và chuẩn y Hiến pháp này. Hiến pháp này có
hiệu lực kể từ ngày công bố."</em>
Dù Hiến pháp dựa thẩm quyền lập hiến của toàn dân làm
cơ sở, nhưng học giới kéo dài việc tranh luận giá trị khái
niệm này. Quan điểm đối nghịch nổi bật nhất là Gehard
Anschütz. Khi bình luận về luật Hiến Pháp Weimar, ông lập
luận rằng phân biệt thẩm quyền lập pháp và thẩm quyền
lập hiến là hoàn toàn xa lạ trong truyền thống luật Đức.
Không giống như tại Bắc Mỹ, thẩm quyền lập hiến tại
Đức không thể cao hơn thẩm quyền lập pháp; Hiến pháp không
thể đứng lên trên Lập pháp; Hiến pháp là một phương tiện
mẩu mực để Lập pháp có nghĩa vụ chấp hành theo đúng hình
thức quy định việc thay đổi Hiến pháp.
Điều 76 WRV quy định Hiến pháp có thể thay đổi qua thủ
tục trưng cầu dân ý hay qua sự đồng thuận với đa số
tuyệt đối của hai cơ quan Reichstag và Reichsrat. Túc số cần
thiết là 2/3 đại biểu. Theo quan điểm chung của luật giới
chính túc số 2/3 này làm cho việc thay đổi Hiến pháp có giá
trị pháp lý, nên không cần quy định vấn đề thay đổi Hiến
pháp hay ghi vào trong Hiến pháp. Để đạt được túc số này
là khó khăn trong thực tế và thay đổi luật thông thường
không cần túc số này.
Giải thích điều 76 WRV đem lại nhiều tranh luận, nhưng
thuyết phục nhất là ý kiến của Carl Schmitt. Trong hai tác
phẩm <em>Chế độ Độc Tài</em> năm 1921 và <em>Lý thuyết Luật
Hiến pháp</em> năm 1928 Schmitt đã đào sâu vấn đề thẩm
quyền lập hiến. Ông cho rằng khái niệm này nhằm giới hạn
cho mọi thay đổi Hiến pháp. Hiến pháp chỉ có giá trị khi
nào chính toàn dân thể hiện ý chí lập hiến. Ý nghĩa của
Hiến pháp không nằm trong một vài điều khoản của Hiến pháp
mà Hiến pháp là một toàn bộ bản văn và là một quyết
định cơ bản về một trật tự chính trị cho cả nước. Thủ
tục lập hiến đòi hỏi điều kiện tiên quyết là có sự
thống nhất về ý chí chính trị, một quyết định có ý thức
của toàn dân về thẩm quyền này.
Ông phân biệt Hiến pháp, Verfassung (G), Constitution (E), và
luật Hiến pháp Verfassungsgesetzte (G), Constitutional law (E). Hiến
pháp phản ảnh ý chí chính trị lập hiến của toàn dân trong
việc quy định cấu trúc và thẩm quyền của các cơ quan nhà
nước. Đây là điều kiện tiên khởi để Hiến pháp ra đời
và có gía trị tối thượng. Hiến pháp tạo nên giá trị cho
luật Hiến pháp. Luật Hiến pháp thành văn chỉ là những
điều khoản quy định để thi hành ý chí lập hiến qua Hiến
pháp. Thẩm quyền lập hiến không thể được coi là mất đi
sau khi Hiến pháp ra đời, mà nó tồn taị mãi bên cạnh và bên
trên Hiến pháp. Bất cứ lúc nào Hiến pháp cũng có thể bị
thay đổi bởi một Hiến pháp mới khi toàn dân quyết định
sử dụng thẩm quyền lập hiến.
Khi Hiến pháp có quy định thủ tục thay đổi Luật Hiến
pháp, thì vấn đề thẩm quyền được đặt ra. Theo Schmitt,
nếu không có các điều khoản thẩm quyền này, thì thẩm
quyền lập hiến của toàn dân sẽ quyết định. Ngược lại,
khi có điều khoản quy định thẩm quyền này, thí dụ như
Điều 76 WRV, vấn đề sẽ khác đi. Điều 76 WRV ủy quyền cho
thay đổi luật Hiến pháp nhưng toàn dân vẫn phải bảo lưu
về thẩm quyền lập hiến. Schmitt giải thích là điều 76 WRV
đã không phân biệt được sự khác nhau giữa Hiến pháp và
Luật Hiến pháp. Thẩm quyền thay đổi ở đây chỉ là thay
đổi Luật Hiến pháp, không phải thay đổi Hiến pháp; Hiến
pháp phải luôn được bảo tồn. Cơ quan chức năng không
được ủy quyền chung quyết Hiến pháp mới và đề ra những
nguyên tắc về thẩm quyền tu chỉnh. Tất cả các điều khoản
quy định tu chỉnh không thể bị thay đối trong bất cứ hoàn
cảnh nào.
Sieyès và Schmitt giải thích về khái niệm thẩm quyền lập
hiến khác nhau. Sieyès cho là thẩm quyền này bắt buộc phải
thuộc về toàn dân, không ai khác hơn và Schmitt cho là không
nhất thiết mà giải thích rộng hơn. Thẩm quyền này thuộc
về ý chí của cơ quan nào có đủ quyền lực để đưa ra một
quyết định toàn bộ về một trật tự chính trị chung cho
đất nước. Ý chí này trước tiên thuộc về toàn dân, mà
cũng có thể thuộc về Hoàng gia, một nhóm người hay một tổ
chức. Đối với Hiến pháp Weimar, Schmitt cho là thẩm quyền
lập hiến thuộc về toàn dân.
Ngày 24 tháng 3 1933, để khởi đầu chế độ Đức Quốc Xã,
Quốc hội Đức với một đa số đã áp dụng điều 76 WRV để
ủy quyền cho chính phủ ra luật (Ermächtigungs-gesetz). Từ nay,
chính phủ có quyền ban hành luật và thay đổi những điểu
khoản của Hiến pháp mà không cần thông qua Quốc hội. Về
phương diện hình thức, Hiến pháp Weimar vẫn còn giá trị trong
suốt thời kỳ Đức quốc xã, nhưng Hiến pháp không có hiệu
lực trong thực tế. Học thuyết vể thẩm quyền lập hiến
được sống lại và thảo luận sau 1945.
Đến năm 1949 Luật Căn Bản của Cộng Hoà Liên Bang Đức ra
đời, đây là một loại Hiến pháp, nhưng do tình thế lịch
sử mà không thể có chính danh Hiến pháp. Nhà lập hiến chấp
nhận giá trị học thuyết thẩm quyền lập hiến của toàn
dân. Ngay trong phần mở đầu nhà làm luật đã ghi thẩm quyền
lập hiến thuộc về toàn dân, đây là một bằng chứng.
<b>Hình thức thể hiện</b>
Thẩm quyền lập hiến có đặc tính nguyên thuỷ, trực tiếp
và cơ bản để thể hiện ý chí chính trị và mang một tầm
vóc lịch sử. Nhưng nó thể hiện bằng cách nào trong thực
tế?
Hiến pháp không thể quy định và giới hạn cách thể hiện
này, vì đây là một thực tế chính trị sinh động nên luật
giới dè dặt hơn. Tiên đoán và giải quyết mọi diễn biến
chính trị không thuộc phạm vi của họ. Họ lại không thể
luật hoá mức độ một ý chí Cách mạng có hậu quả pháp lý
là hủy bỏ hay tu chỉnh Hiến pháp. Dù không thể quy định
một luật thủ tục cho hậu quả thẩm quyền lập hiến, nhưng
luật giới có thể tiên đoán một số hình thức thể hiện cơ
bản nhất có thể xảy ra. Hai phương cách chính để thể hiện
thẩm quyền lập hiến là soạn thảo hay tu chỉnh Hiến pháp.
Toàn dân có điều kiện thuận lợi hơn để thể hiện thẩm
quyền lập hiến khi sống trong một nước dân chủ. Việc phát
triển và thực hành các thủ tục dân chủ dễ dàng gây ảnh
hưởng này, dù là gián tiếp. Ngược lại, việc thể hiện này
quá khó khăn trong một đất nước toàn trị.
Theo Sieyès, quan trọng nhất là cần phân biệt hai khái niệm
thẩm quyền lập hiến và thẩm quyền hiến định. Thẩm quyền
lập hiến có tầm vóc chính trị quy mô và tác động việc thay
đổi Hiến pháp, nên cần phải đưa ra khỏi khuôn khổ giá
trị tự tại của Hiến pháp. Giới hạn này đã có trong lý
thuyết, nhưng để bảo đảm hơn nửa trong thực tế thì thẩm
quyền lập hiến cần phải tách biệt với thẩm quyển lập
pháp. Muốn đạt mục tiêu này thì giá trị quy phạm của luật
Hiến pháp phải được nâng cao. Các cơ quan hiến định và
tất cả mọi quyền hiến định của các cơ quan này phải
đặt dưới Hiến pháp.
Khác với Sieyès, Schmitt đề ra bốn thủ tục tiêu biểu khi
dựa vào thành quả Cách mạng Pháp và truyền thống Đức.
<b>Một là</b> toàn dân bầu ra Quốc hội Lập Hiến. Quốc
hội có hai nhiệm vụ dự thảo và chung quyết Hiến pháp. Theo
cách này thì không cần đưa ra dân chúng để phúc quyết hay
trưng cầu dân ý. Tại Đức Quốc hội Lập Hiến Weimar soạn
thảo và chung quyết Hiến pháp và kết qủa là Hiến pháp Weimar
1919 ra đời. Do ảnh hưởng thời kỳ Cách mạng vào tháng 11 và
12 năm 1918, Quốc hội chung quyết chống lại chế độ quân
chủ, đề ra chế độ cộng hoà dân chủ và nguyên tắc dân
chủ đại nghị.
<b>Hai là</b> toàn dân bầu ra Quốc hội Lập Hiến, nhưng chỉ
có nhiệm vụ soạn thảo bản văn Hiến pháp mà không có quyền
chung quyết và toàn dân quyết định. Các Hiến pháp tiểu bang
tại Đức sau năm 1945 đã theo cách này. Tại các tiểu bang
Bayern, Baden-Württemberg, Rheinland-Pfalz, Bremen và Nordrhein-Westfalen
Quốc hội soạn thảo ra Hiến pháp và dân chúng chuẩn nhận
Hiến pháp.
<b>Ba là</b> hình thức trưng cầu dân ý, một hình thức dân
chủ trực tiếp. Một số dân chúng tự nguyện tập hợp lại
và đề xuất việc soạn thảo hay tu chỉnh Hiến pháp hoặc thay
đối cấu trúc một cơ quan hiến định. Thủ tục này áp dụng
rộng rải nhất tại Thụy Sĩ. Điều 119 của Hiến pháp Thụy
Sĩ quy định vấn đề dân có quyền duyệt xét lại Hiến pháp
và không quy định một giới hạn nào về nội dung hay hình
thức. Tại hai tiểu bang của Đức là Bayern và Baden-Württemberg
có quy định chặt chẻ hơn về trưng cầu dân ý; đề xuất
trưng cầu dân ý chỉ làm thay đổi một vài điều khoản trong
luật Hiến pháp, nhưng không được thay đổi toàn bộ Hiến
pháp.
<b>Bốn là</b> thủ tục trưng cầu dân ý về tính hơp hiến
của một điều khoản hay một đạo luật mà chính quyển đã
ban hành. Thủ tục này được thực hiện nhiều lần dưới
thời Napoleon vào những năm 1799, 1802, 1804, 1815 và 1852. Đây là
một hình thức mà chính phủ Cách mạng muốn lấy lòng dân
nhanh chóng hơn, mà về sau tướng De Gaulle cũng áp dụng vào
thời Đệ Ngũ Cộng Hoà.
Ngoài bốn thủ tục trên còn một cách khác để chuẩn bị
cho việc thể hiện thẩm quyền lâp hiến, mà điển hình là
tích cực tham gia của toàn dân trong việc dùng quyền tự do
hội họp, tự do baó chí và ngôn luận. Khi người dân ý thức
về vai trò công dân trong tiến trình dân chủ hoá, đặc biệt
nhất là quan tâm đến về các vấn đề xã hội và thay đổi
luật pháp, thì điều kiện thể hiện này thuận lợi hơn.
<b>Kết luận</b>
Vì bối cảnh lịch sử và trình độ phát triển dị biệt
nên kinh nghiệm quốc tế trình bày ở đây không có cơ sở
để so sánh với thực tế Việt Nam. Nếu chấp nhận giá trị
phổ quát của khái niệm từ các nước phương Tây làm chuẩn
thì chúng ta thấy nguời dân Việt chưa hề có cơ hội thể
hiện thẩm quyền lập hiến vì bốn nghịch lý hiển nhiên.
<b>Một là</b>, dù công nhận nhân dân là tác giả của Hiến
pháp, nhưng nền tảng của nhân dân là liên minh giai cấp công
nhân với nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo.
Khẳng định này không phân biệt hai phạm vi nhà nước và xã
hội trong mô hình hiện đại.
<b>Hai là,</b> sửa đổi Hiến pháp có mục đích thể chế hoá
kịp thời chính sách của Đảng. Hiến pháp phải bám sát các
cương lĩnh, nghị quyết của Đảng và ghi nhận những thành
tựu đất nước do Đảng khởi xướng. Kết luận này không
tôn trọng ý chí lập hiến của toàn dân.
<b>Ba là</b>, nhân dân thực hiện quyền làm chủ Hiến pháp
thông qua Quốc hội. Quốc hội là một cơ chế Đảng cử dân
bầu, nên thẩm quyền chỉ là gián tiếp và phụ thuộc. Do
Đảng đứng trên Hiến pháp và có thẩm quyền tối thượng và
nguyên thuỷ tạo hình cho Hiến pháp, nên Hiến pháp không phải
là công trình của toàn dân.
<b>Bốn là</b>, để bổ túc cho khiếm khuyết này, nhân dân
cần có luật về trưng cầu dân ý để có cơ hội quyết
định trực tiếp các vấn đề hệ trọng của đất nước. Nhu
cầu này chưa được Đảng quan tâm nên triển vọng là mơ hồ.
Dù thông tin của cộng đồng mạng và trào lưu đòi hỏi dân
chủ hoá đang đóng góp đáng kể, nhưng còn rất nhiều yếu
tố khác tác động đến hình thức thể hiện thẩm quyền lập
hiến trong tương lai cần tìm hiểu và vượt khỏi giới hạn
của bài viết này.
<i>Cùng một tác giả, sách đã xuất bản:</i>
- Quan điểm của Phật giáo trước các vấn đề hiện đại
- Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay 126, Nxb Hồng Đức 2012
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130509/do-kim-them-khai-niem-ve-tham-quyen-lap-hien-cua-toan-dan),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét