Nguyễn Hữu Liêm - Những Nguyên tắc Hiến Pháp (1)

<em>(Trích từ "Dân Chủ Pháp Trị: Luật Pháp, Công Lý, Tự Do
và Trật Tự Xã Hội.")</em>

<div class="boxright200"><img
src="https://danluan.org/files/u28/img_0243.jpg" /><div class="textholder">LS
Nguyễn Hữu Liêm</div></div>Bản chất hiến pháp của một quốc
gia thể hiện những bận tâm mà xã hội và chính trị phải
đương đầu. Tùy vào bối cảnh lịch sử, mỗi quốc gia phải
kiến tạo hiến pháp để xây dựng những định chế chính
trị, xã hội và luật pháp thích nghi với hoàn cảnh của mình.
Những nguyên tắc hiến pháp là những khí cụ để giải quyết
những mối bận tâm đó. Chúng ta thử nhìn một vài thí dụ
điển hình: Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 được kiến tạo trên hai
mối bận tâm hàng đầu của các nhà lập hiến thời đó. Thứ
nhất, vấn đề quốc phòng và thương nghiệp. Khi mà dân thuộc
địa Mỹ phải chịu luật lệ khắt khe và bất công từ Anh
quốc. Từ mối bận tâm này, nguyên tắc liên bang (federalism) ra
đời. Chế độ liên bang bảo đảm quyền tự do buôn bán giữa
các tiểu bang, nhưng đồng thời công nhận quyền tự trị của
mười ba tiểu bang nguyên thủy. Thứ hai, tự do cá nhân đối
với sự lạm dụng quyền lực của chính quyền là nguyên nhân
của nguyên tắc phân quyền (seperation of powers). Vấn đề quyền
hạn công dân vẫn chưa phải là mối quan tâm hàng đầu cho
đến hơn cả thập niên sau (1791), người Mỹ mới cộng thêm
những tu chính hiến pháp bảo vệ quyền công dân, gọi là
"Bill of Righs".

Trong khi đó hiến pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) 1949
thể hiện mối kinh hoàng của giai đoạn lịch sử độc tài
Hitler và chiến tranh khủng khiếp của Đệ Nhị Thế Chiến
cũng như mặc cảm bị chiếm đóng của quân đội Đồng Minh
và thảm trạng phân chia của đất nước. Những mối bận tâm
này là nguyên nhân của nguyên tắc dân quyền được đặt lên
hàng đầu và không thể được tu chính; cũng như sự nhấn
mạnh đến tính chất tương quan của chính quyền địa phương
(lander governments) đối với chính quyền trung ương quôc gia.

Hiến pháp Nhật Bản 1947, dưới sự chiếm đóng của Mỹ, vì
bận tâm đến nạn quân phiệt và tham vọng quân sự viễn
chinh, đã giảm thiểu tối đa vai trò quân đội (điều 9) đặt
hoàn toàn dưới thẩm quyền dân sự, và không cho sử dụng
quân đội ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.

Hiến pháp Đệ tứ cộng hòa Pháp 1958 thể hiện sự bất mãn
với tình trạng bất nhất, thiếu hiệu năng của cơ chế nghị
viện, điển hình là từ vị khủng hoảng ở thuộc địa
Algeria, đã kiến tạo nguyên tắc trọng hành pháp với nhiều
quyền năng cho phía hành pháp; trong khi đó đánh nhẹ những
nguyên tắc dân quyền vì dân Pháp đã nằm lòng và nội dụng
hóa Bản Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền 1789 trong đời
sống chính trị của họ.

Hiến pháp của Cộng hoà liên bang Sô Viết 1936 và 1977 bận tâm
đến quyền lực chính quyền trung ương thể hiện trên hai
nguyên tắc thẩm quyền nhà nước Liên bang và "dân chủ trung
ương" ("democratic centralism") (Điều 108 và 3). Cũng tương
tự như thế, Hiến pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam 1980 thể hiện mối bận tâm trung ương tập quyền và đảng
trị cũng có "Đảng Cộng sản Việt Nam,... là lực lượng,
duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội," (Điều 4),
và nguyên tắc "tập trung dân chủ." (Điều 6).

Hiến pháp là một văn kiện chính trị thể hiện tình cảm và
ước vọng của quốc dân ở một thời điểm với những vấn
nạn quốc gia và xã hội liên hệ. Văn kiện này mang tính chất
luật pháp để biểu thị được chức năng hiệu quả hầu
hiện thực hóa tình cảm và ước vọng đó. Lawrence H. Tribe,
một học giả luật Hiến pháp của đại học Harvard, Hoa Kỳ
trong cuốn <em>American Constitutions Law</em> (Luật Hiến Pháp Mỹ)
có kể lại một hí họa diễn tả hai chàng tiền phong đến
xứ Mỹ từ Âu châu hai thế kỷ trước trên chuyến tàu lịch
sử May Flower. Cả hai người đang đứng trên boong tàu, nhìn về
phía chân trời Mỹ đang hiện ra. Một chàng nói, "Tự do tôn
giáo là mục đích tức thời của tôi, nhưng kế hoạch lâu dài
của tôi là đầu tư về địa ốc."(156) Tribe phân tích câu
nói trên tượng trưng cho cái nền tảng giá trị nhị nguyên
(duality) trong lịch sử hiến pháp, không những của Hoa Kỳ, mà
ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Bởi lịch sử, Tribe nói tiếp,
chứa đựng hai năng động khác biệt hẳn nhau: Thứ nhất, năng
động của khát vọng nhân bản của cá nhân, đạo đức và
tự do; năng động thứ hai là của những quan tâm về những
vấn đề vụn vặt và thực tế như lãnh thổ, biên giới và
định chế chính trị và xã hội.(lỗ7) Những bận tâm, về
hoàn cảnh và lịch sử, như đã nói ở trên, đã thúc đẩy
những nhà lập hiến thiết kế những nguyên tắc hiến pháp
như những guồng máy cai quản chiều hướng và vận tốc của
con thuyền quốc gia trên chuyến viễn hành vô định giữa đại
dương bão tố.

Những nguyên tắc hiến pháp nổi bật nhất trong các quốc gia
theo mô hình chính trị dân chủ pháp trị của Tây phương,
đặc biệt nhất là Hoa Kỳ, gồm [1] Nguyên tắc xác định và
phân quyền [2] Nguyên tắc tư pháp ưu thế (judicial supremacy), [3]
Nguyên tắc công dân quyền, và [4] Nguyên tắc tu chính hiến
pháp, để đương đầu với đổi thay. Dĩ nhiên, mỗi quốc gia
phải đương đầu với một hoàn cảnh địa lý, địa phương,
lãnh thổ, dân tộc riêng mà hiến pháp của họ phải đương
đầu. Như hiến pháp Hoa Kỳ và Nga Xô thì có nguyên tắc Liên
Bang (federalism), hay hiến pháp Anh quốc và Nhật Bản thì có
nguyên tắc vương quyền biểu tượng.
<strong>
NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN QUYỀN</strong>

Căn bản tư tưởng được chấp nhận sâu rộng nhất cho chính
trị dân chủ là quyền lực quốc gia phải bắt nguồn từ dân
để phục vụ dân. Nhưng đây là một tư tưởng có tính chất
khẩu hiệu biểu trưng hơn là thực tế nếu quốc gia đó không
có một cơ chế chính trị hữu hiệu, đặc biệt là hiến
pháp, để giới hạn sự lạm dụng của quyền lực nhà nước
đối với tập thể công dân. Chính cái thực tế mâu thuẫn
giữa lý tưởng dân chủ và thực tế nô lệ đã thúc đẩy
những triết gia Âu châu các thế kỷ trước lên tiếng phác
họa những cơ bản lý thuyết cho sự kiến tạo một guồng máy
chính trị đặt trên văn kiện hiến pháp. Rousseau của Pháp,
giữa thế kỷ thứ XVIII, phải kêu lên, "Nhân loại sinh ra tự
do nhưng thật ra họ phải bị gông cùm khắp nơi". Rousseau
không thể giải thích được tại sao nhưng ông ta cho rằng vấn
đề có thể biện minh hóa bởi một lý thuyết chính trị mới
- đạo đức và biện minh của quyền hạn quốc gia phải có
từ ý lực toàn dân. Nhưng Rouseau không đi xa hơn về một thực
thể cấu trúc cho lý tưởng chính trị đó. Cuối thế kỷ thứ
XVII, John Locke của Anh quốc đã nói như Rousseau; nhưng còn đi xa
hơn nữa, "Không có ai sinh ra tự do cả!"(158) Triết học
luật pháp của Locke, cũng như của Rousseau và Thomas Hobbes, đặt
trên quan niệm căn bản rằng luật pháp quốc gia là kết quả
của những quyết định của ý lực quốc dân. Nhưng chiếc
cầu để bắc ngang được giữa ý lực quốc dân và định
chế luật pháp là vãn kiện hiến pháp - một nền tảng căn
bản xác định vị trí lý tưởng và giá trị tổng quát để
nhà nước căn cứ khi hành xử quyền lực quốc gia. Hiến pháp,
theo Locke, là nơi quyền hạn tối cao của quốc gia (sovereignty)
được xác định, và phân quyền cho ba nhánh: Lập pháp, hành
pháp và tư pháp. Locke nhấn mạnh quyền lập pháp vì nhánh này
được đặt căn bản quyền hạn trên nền tảng giá trị luật
tự do. Trong khi đó, Montesquieu của Pháp trong cuốn <em>Tinh Thần
Luật Pháp</em> xuất bản năm 1748 đặt trọng tâm của chính
trị để giải quyết những vấn nạn công lý của xã hội mà
quốc gia là một cơ chế luật pháp. Tuy nhiên, Montesquieu ý
thức được cái hiểm họa của sự tập trung quyền hành vào
trong tay một cá nhân, một cơ quan hay một phân nhánh chính
quyền. Muốn giảm thiểu mối hiểm họa này, Montesquieu chủ
trương nguyên tắc phân quyền chính trị của guồng máy nhà
nước với chủ trương liên hệ hỗ tương trên căn bản độc
lập mà người Mỹ hệ thống hóa thành lý thuyết chính trị
quen thuộc "Kiểm Soát và Quân Bình" (check and balance); tự do
công dân có thể được bảo đảm bằng những định chế
chính trị để phân tán quyền lực, nhánh này kiểm soát nhánh
kia và đòi hỏi một liên hệ hỗ tương cần thiết khi hành
xử quyền lực quốc gia có ảnh hưởng đến quyền lợi chung.

Cái liên hệ hỗ tương nhưng độc lập được phác họa bởi
James Madison trong <em>The Federalist Papers</em> rằng quyền hạn của
một chi nhánh đều được bắt nguồn và tùy thuộc vào phân
nhánh khác. Ví dụ trên phương diện hình luật, lập pháp làm
luật, hành pháp truy tố, tư pháp xử án.(159) Chánh án được
bổ nhiệm bởi hành pháp (nhiều quốc gia đòi hỏi lập pháp
chấp thuận sự bổ nhiệm này). Tức nhiên là mỗi phân nhánh
phải được tách biệt và độc lập tuy nhiên trên sự hành
xử chức năng mặc dù vai trò và cấu trúc của quyền hạn
phải nằm trong phạm trù liên hệ hỗ tương. Vấn đề là mức
độ độc lập và định chế hỗ tương nhằm bảo đảm chức
năng hành sự để một nhánh không thể áp chế phân nhánh kia
đi theo ý lực của mình. Ví dụ điển hình là chánh án tối
cao pháp viện Hoa kỳ được bổ nhiệm suốt đời, được
miễn tố từ vai trò của mình, và hành pháp và lập pháp không
được cắt lương bổng hay quyền lợi của các chánh án này.
Trường hợp Hoa Kỳ, vấn đề phân quyền không những chỉ ở
phương diện chiều ngang ở mức độ quốc gia với định chế
"tam quyền phân lập" - hành pháp, lập pháp, tư pháp - mà còn
ở chiều dọc - Liên bang kiểm soát tiểu bang, tiểu bang cai
quản độc lập đối với liên bang.

Một số quốc gia khác, nguyên tắc phân quyền chiều dọc còn
có đến vị thế của vương quyền như Nhật Bản - hoàn toàn
biểu trưng, không mang ý niệm "Thiên Tử" sau Thế Chiến
Thứ Hai khi mà uy tín của nhà vua đã bị tiêu hao nặng nề
bởi chính sách quân phiệt và xâm lăng trong giai đoạn thế
chiến thứ Hai đối với các nước Á châu và Thái Bình Dương
với những hậu quả tai hại; hay trường hợp Anh quốc khi vì
Vua là Quốc Trưởng nhưng chức năng thì chỉ có tính cách
biểu trưng và lễ nghi.

Nguyên tắc phân quyền hàng dọc bao gồm vị thế vương quyền
là một nỗ lực để duy trì truyền thống và tính cách biểu
tượng của lịch sử; tuy nhiên, cái kết quả chính yếu của
nguyên tắc này là tước đoạt tất cả quyền hành từ vị vua
và đem trao cho ba phân nhánh của một chế độ dân chủ hiện
đại. Do đó, một cái nhìn tổng hợp của các vấn đề phân
quyền là [1] Thiết lập cơ chế chính trị để chia sẻ và
kiểm soát quyền lực hòng bảo vệ thế quân bình cần thiết,
tránh khỏi sự lạm dụng quyền lực từ một cá nhân hay một
phân nhánh của chính quyền, và [2] Sự phân phối chức năng
để hiệu năng hóa quyền hành và quản trị được bảo đảm
hơn. Một thí dụ cho mục tiêu thứ hai này là phía lập pháp
sẽ không đáp ứng nổi nhu cầu hành pháp được trên hầu
hết tất cả các lãnh vực từ quân sự đến hình luật đến
thuế má. Lập pháp cũng không thể có tư thế lãnh đạo hiệu
quả và hiệu năng như hành pháp; cũng như không mang bản chất
độc lập đối với dư luận công chúng, hay có giá trị lâu
dài của vai trò tư pháp. Hơn nữa, nếu lập pháp đóng vai trò
hành pháp thì ai sẽ giám sát vấn đề thi hành chính sách và
luật pháp vì chính mình không thể giám thị mình với mức
độ ngay thẳng và năng động đúng mức được.

Định chế luật hiến pháp Hoa Kỳ, còn có truyền thống "Tư
Pháp Ưu Thế" (Judicial Supremacy). Định chế này phát xuất từ
quan niệm chính trị bao gồm hai phạm trù: [1] Đối với nguyên
tắc phân quyền, nó cho phép tư pháp đóng vai trò quyết định
tối hậu để phán xét và quyết định tính cách hợp hiến
của hai phía lập pháp và hành pháp, và [2] Đối với giá trị
dân chủ, nó cho phép những định chế phản đa số, phản dân
chủ đương thời được làm chủ và quyết định hòng đạt
được những mục tiêu lâu dài mà hiến pháp quốc gia đã
vạch ra. Thứ nhất, đây là quan niệm cho rằng tư pháp là một
phân nhánh "ít nguy hiểm nhất" theo quan niệm của Alexander
Hamilton của Hoa Kỳ, vì tư pháp không làm được luật, không
có tự túc về ngân sách, không có sức mạnh tổ chức hay vũ
lực như phía hành pháp có quân đội. Tư pháp có bản chất
độc lập, vô tư và không bị áp lực quần chúng nhất thời.
Vì thế, tư pháp đã dần dần được công nhận đóng vai trò
tối hậu về phán xét tính chất hợp hiến của hành vi nhà
nước, chính quyền. Ý niệm "tư pháp ưu thế" bắt nguồn
từ thế kỷ XVII ở Anh quốc khi mà tư pháp đóng vai trò quan
trọng trong việc chế ngự lập pháp bằng cách tạo án lệ mang
bản chất làm luật từ phía các chánh án khi đối đầu với
các vấn đề pháp lý đang được tuyên xử. Tuy nhiên, cán cân
phân quyền và biên giới xác định giữa hai phía không được
đánh dấu rõ ràng cho đến năm 1803 trong án lệnh Marbury V.
Madison Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, mới vạch rõ chủ thuyết
judicial review (quyền duyệt xét của tư pháp), trong đó, chánh
án Marshall sử dụng lời của giám mục Anh Hoadly cả thể kỷ
trước đó rằng, "Tư cách duyệt xét luật pháp thực ra mới
đóng vai trò làm luật, với tất cả những mục đích và chủ
ý, chứ không phải kẻ làm ra luật chính nó," và tuyên án
rằng, "tất cả luật làm nên bởi lập pháp và hành pháp
phải hợp hiến mà sự quyết định tối hậu của tính chất
hợp hiến nằm ở trong phạm vi quyền hạn của tư pháp." Án
lệ Mabury V. Madison này nói lên cái thực tế của chính trị
phân quyền của hiến pháp mà hơn thế kỷ sau một người Mỹ
Charles E. Hyphes có nói, "Tất cả chúng ta đều phải tôn
trọng hiến pháp, nhưng hiến pháp mang ý nghĩa, nội dung hay tác
động nào tùy vào vị chánh án giải thích mà thôi."(160)

Chủ thuyết <em>judicial review </em>được tồn tại vì nhờ phía
tư pháp Hoa Kỳ đóng vai trò khiêm tốn chỉ sử dụng khi cần
thiết và với một nền tảng biện minh bằng lý luận pháp lý
vững chắc. Từ đó, chủ thuyết này là kết quả của niềm
tin vào lý trí vì hơn ai hết, tư pháp có thì giờ, tư cách
để nhìn một bộ luật vượt lên trên những áp lực xã hội,
chính trị và văn hóa nhất thời hòng nhằm phục vụ một lý
tưởng cao đẹp và lâu dài hơn.

Phạm trù liên quan đến nguyên tắc phân quyền trên cũng nằm
trộn lẫn trong một chủ thuyết chính trị cao hơn về vai trò
của hiến pháp: Tất cả luật đều phải xây dựng trên nền
móng hiến pháp vì hiến pháp đại diện cho một lý tưởng lâu
dài, nhân bản và căn bản hơn. Điều này có nghĩa là hiến
pháp mang thẩm quyền vô hiệu hóa những bộ luật dân chủ đi
ngược lại một lý tưởng lớn hơn mặc dù lý tưởng này có
thể đã lỗi thời hay là phản dân chủ. Đây là quan niệm
nòng cốt để đề phòng hiểm họa quan trọng nhất của chính
trị dân chủ, cái mà Alexis de Toqueville gọi là <em>tyrany of the
majority </em>(Tính chuyên chế của Đa Số).(161) Nhưng chủ
thuyết chính trị này mâu thuẫn với tiền đề chính trị dân
chủ căn bản rằng ý lực tổng thể của quốc dân, tức là
đa số trong chính trị dân chủ, là quyết định tối hậu.
Vậy thì, tư pháp, đứng trên vị thế chính thống nào để
phán định rằng đa số là sai khi họ làm luật trái với tinh
thần hiến pháp?

Tại sao, ví dụ ở Hoa Kỳ, thế hệ của thập niên 1990-2000
lại phải bị trói buộc bởi những quy tắc hiến pháp đã
được đặt ra cho họ hơn 200 năm trước? Câu trả lời nằm
trong vấn đề giá trị phổ quát được công nhận và kinh
nghiệm lịch sử đối với những giá trị đó. Khi công nhận
hiến pháp là một thực thể giá trị có quyền hạn tối cao,
căn bản thì quốc dân phải chấp nhận tính bền vững lâu dài
của nó. Nhưng nếu giá trị của tập thể công dân, ý lực
tổng thể - như Rousseau nói - đã đổi thay đến một mức độ
quan trọng, thì hiến pháp cũng có thể đổi thay - nhưng khó
khăn hơn để bảo đảm cái tính vững bền - hòng đáp ứng
với giá trị mới. Bởi vậy, hiến pháp nào cũng phải có phân
định quy luật tu chính để giải quyết vấn nạn đổi thay
này. Hiến pháp là cơ chế quan trọng nhất để đương đầu
với khủng hoảng và quản trị đổi thay. Hiến pháp không
những là một văn kiện tối cao và căn bản, nó còn là một
tuyên ngôn giá trị mà quốc gia phải dựa vào đó để tìm cho
mình biện minh lịch sử và quốc tế. Hiến pháp phải được
bảo vệ như là một định hướng cho quốc dân trong cơn bão
tố của tình cảm và quyền lợi nhất thời .
<strong>
NGUYÊN TẮC CÔNG DÂN QUYỀN</strong>

Quyền công dân, hay dân quyền, là những quyền hạn của công
dân được quy định bởi hiến pháp để thỏa mãn cái mà
chánh án Mỹ Cardozo gọi là "nguyên tắc quyền hạn căn bản có
gốc rễ từ truyền thống và lương tri của con người,"(162)
trước sự đe dọa của bạo lực và lạm dụng quyền hành
của nhà nước và chính quyền. Đi tìm một căn bản biện minh
cho dân quyền mới đầu gần như là một sự thừa thải. Tại
sao cá nhân, với mỗi ý lực riêng biệt, với tư cách là chủ
nhân của quốc gia, giao quyền hạn tổng thể cho nhà nước
lại phải phân định những quyền hạn của họ, trên căn bản
của mỗi công dân như là một sự ban bố quyền lợi và cho
phép từ phía quốc gia? Đây là một luận đề có tính cách lý
thuyết vì thực tế thì công dân tính ra đời sau khi quốc gia
tính đã được thiết kế. Khi chưa có cơ bản quốc gia, cá
nhân chỉ mang được những quyền hạn tự nhiên - nhưng quyền
hạn tự nhiên đối với ai? Đối với láng giềng? Với thiên
nhiên? Tôn giáo? Chính mình? Thomas Paine, một lý thuyết gia cực
đoan của nhân quyền và dân quyền thời cách mạng Pháp 1787
xác định trong cuốn <em>Quyền Hạn Con Người</em> (<em>The Rights
of Man</em>) rằng cá nhân trong xã hội có hai phạm trù quyền
hạn: quyền tự nhiên (natural rights) và dân quyền (civil rights).
Paine giải thích:

Quyền tự nhiên có căn bản trên sự hiện hữu của con
người. Ví dụ như quyền tư duy, quyền tư tưởng, và những
quyền hạn theo đuổi đời sống và hạnh phúc cá nhân mà
không có ảnh hưởng tiêu cực đến quyền tự nhiên của
người khác. Còn dân quyền thì được đặt căn bản trên tư
cách là một thành viên của xã hội. Mỗi quyền hạn trên
phạm trù dân quyền đều đặt nền móng trên quyền tự nhiên
đã có sẵn nhưng sự hưởng đạt của nó không được bảo
đảm.(163)

Có nghĩa rằng, dân quyền là những quyền hạn cá nhân mà tự
mỗi chính họ không thể hoàn tất hay bảo đảm được, ví
dụ quyền chính trị, như bầu cử, chẳng hạn. Vì thế mỗi
cá nhân, thể hiện quyền hạn cá nhân, quy nạp sức mạnh
tổng thể, để tái xác nhận một tầm mức quyền hạn cao
hơn, đặt căn bản trên tập thể - đó là công dân quyền. Câu
hỏi được đặt ra ở đây là cá nhân phải dựa trên căn
bản quyền hạn nào để ủy thác quyền tập thể cho quốc gia?
Paine trả lời, trong dòng thác tư tưởng của Hobbes và Rousseau
rằng, tập thể công dân, tự chính họ thiết lập một cơ
chế khế ước tổng thể để ủy thác quyền lực cho quốc
gia. Nếu thế thì tại sao hiến pháp lại phải minh định
quyền của họ vì họ, công dân và tập thể chung, chưa ủy
giao phạm trù dân quyền cho quốc gia? Đây là tiền đề chính
trị hiến pháp căn bản và khó giải quyết nhất. Hiến pháp
của Hoa Kỳ phải đương đầu với vấn nạn này trên một
bối cảnh khác trong tu chính số Mười vào năm 1791: "Quyền
hạn không được ủy thác cho chính quyền Liên bang bởi hiến
pháp, cũng không bị ngăn cấm bởi hiến pháp Liên bang khi ủy
thác cho các Tiểu bang, đều được hành xử bởi các Tiểu
bang, hay bởi quốc dân. Trong khi đó, Tu chính án số Chín xác
định rõ là những quyền hạn không được minh định đều
vẫn là của quốc dân (retained by the people). Tu chính án số
Mười chỉ làm sáng tỏ điều I, khoản 8 đối với enumerated
powers (quyền hạn đã được minh định) cũng như giới hạn
quyền làm luật của quốc hội phải đặt căn bản trên sự
cần thiết và thích đáng ("necessary and proper") mà thôi. Vì
quan niệm cũng như niềm tin vào tiền đề và giá trị của
nguyên tắc ủy quyền trên mà các nhà lập hiến Mỹ không minh
xác dân quyền một cách rõ ràng cho đến mấy năm sau bằng
một loạt những tu chính án dân quyền (The Bill of Rights).

Một vấn đề nữa của nguyên tắc pháp lý là "Những gì mà
luật pháp không cấm là không bất hợp pháp." Điều này
không có nghĩa là những gì không cấm là hợp pháp hay được
tự do hành động. (Ví dụ tự tử không phải là một quyền
hạn hay là hợp pháp; nhưng nó chỉ không bất hợp pháp mà
thôi). Nguyên tắc pháp lý này tái xác nhận quyền hạn tối
thượng của công dân mà từ đó luật pháp được thiết kế.
Hơn nữa, thực tế không cho phép luật pháp liệt kê hết tất
cả, ví dụ, những gì bạn có thể làm ở trong nhà bạn, mà
chỉ có thể liệt kê những gì bị cấm đoán mà thôi. Từ
đó, trên nguyên tắc dân quyền của hiến pháp, văn kiện này
phải xác nhận cái tiền đề chính trị căn bản trên; nghĩa
là, những gì không được minh định là quyền hạn của quốc
gia là quyền của công dân.

Trong cuốn <em>Reflections On the Revolution in Europe</em> (<em>Suy
Tưởng Vê Cuộc Cách Mạng Ở Ầu Châu</em>), xuất bản năm
1990, Ralf Dahrendorf viết thư cho một người bạn ở Ba Lan về
cuộc cách mạng 1989-1990 ở Đông Âu, Dahrendorf nói rằng sau hơn
40 năm xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, về phương diện chính
trị hiến pháp, Đông Âu không đạt được một điều nào cả
vì tất cả những quyền xã hội, ví dụ như quyền làm việc,
đều không mang thực chất pháp lý. Vì không có chánh án nào
có thể ra lệnh cưỡng chế cái quyền làm việc được; mặc
dù, quyền có công ăn việc làm là một ưu tiên chính trị kinh
tế cần thiết. Ông quan niệm rằng quyền không làm việc có
lẽ có lý hơn để bảo vệ công dân khỏi sự lao động
cưỡng bách.(164) Thực ra điều này hiến pháp Hoa Kỳ đã có
minh định rõ trong tu chính án số Tám năm 1865 hủy bỏ chế
độ nô lệ và cưỡng bách lao động.

Ngoài việc liệt kê những quyền hạn có tính chất tích cực,
hiến pháp phải đồng thời quân bình với những quyền hạn
có tính chất thụ động - như quyền tự do báo chí tích cực
phải cân bằng với quyền được miễn tiếp nhận truyền
thông từ bất cứ của ai, chính quyền hay cá nhân. Quyền này
rất quan trọng nhất là trong các quốc gia mà chính quyền
cưỡng bách dân chúng phải học tập, lắng nghe tuyên truyền,
và nhất là phải đọc những khẩu hiểu lố lãng và vô nghĩa
trên đường phố, thôn xóm, hay phải chịu loa phóng thanh phát
ra inh ỏi ở các nơi bất cứ giờ phút nào. Quyền không
được cưỡng bách lao động phải cân đối với quyền tự do
lao động; quyền không phải là đảng viên của một đảng
phái chính trị đối với quyền tự do đảng phái; quyền tự
do đi lại, hội họp, phải quân bình bằng quyền tư riêng
(privacy right) như trong những phát triển gần đây của luật
hiến pháp Hoa Kỳ. Hay là một nguyên tắc quân bình mới hơn là
quyền phá thai, nếu có, phải quân bình bằng quyền được sinh
ra đời cho các thai nhi. Hoặc thí dụ khác, hiến pháp Nigeria,
Phi Châu 1960, điều 32 cân bằng quyền tự do ngôn luận, ý
kiến bằng quyền tiếp nhận tư tưởng và ngôn luận mà không
bị ngăn cản. Do đó, khi chính quyền duyệt một bài báo, một
bản tin không phải chỉ quyền ngôn luận của người làm báo
bị đe dọa (quyền tích cực) mà quyền được tiếp nhận,
đọc, nghe (thụ động) cũng bị vi phạm. Kinh nghiệm của
nhiều nền dân chủ chưa trưởng thành cho thấy, như trường
hợp của Negeria sau khi Anh quốc trả độc lập, cần nhu cầu
chi tiết hóa những định chế về truyền thông để bảo đảm
tự do ngôn luận cho quần chúng. Chính quyền ở các nước
chậm tiến thường độc quyền về vô tuyến truyền thanh và
truyền hình, những tờ báo lớn bị đặt dưới ảnh hưởng
của nhà nước, và loại bỏ hết hệ thống báo chí và các
phương tiện truyền thông tư nhân. Đây chính là vấn nạn lớn
cho chiều hướng củng cố dân chủ hiến pháp vì có quyền mà
không có thế và phương tiện để thực thi quyền đó thì chỉ
là những văn tự trừu tượng thiếu thực chất.

Chúng tôi không muốn nêu hết tất cả những quyền hạn của
công dân phải được minh định bởi hiến pháp. Nhưng những
nguyên tắc và lý luận trên chỉ nêu lên những điểm quan
trọng trong cái nhìn chính trị hiến pháp dưới con mắt pháp
lý. Nói theo Charles Mcllwain thì bản chất hiến pháp có một
chức năng nổi bật nhất - đó là một giới hạn pháp chế
đối với chính quyền và nhà nước.(165) Nhưng quan niệm này
phải được dàn xếp ổn thỏa trên căn bản ý thức rằng
chính quyền và quốc gia sinh ra bởi và từ dân là sản phẩm
tổ chức mang tính chất pháp chế mà chủ nhân của cơ chế
này là quốc dân. James Madison, một người đóng vai trò quan
trọng trong việc kiến tạo hiến pháp Hoa Kỳ, lúc đầu đã
phản đối mạnh mẽ việc bao gồm những quyền hạn công dân
trong văn kiện hiến pháp vì lẽ rằng như thế không cần
thiết và hơn nữa, như đã nói ở trên, hiến pháp không thể
liệt kê hết tất cả những quyền hạn. Mà nếu đã liệt kê
thì phải chi tiết, dài dòng và không hoàn toàn. Khi đó, những
quyền hạn không được liệt ra có thể bị coi là không
được tôn trọng và bảo vệ.(166) Nhưng sau đó, Madison cũng
phải ủng hộ sự minh định quyền hạn công dân bằng những
Tu Chính Án Dân Quyền (Bill of Rights) vì theo ông, thứ nhất, dù
không hoàn toàn liệt kê, những quyền căn bản của hiến pháp
khi nêu ra sẽ tạo một nền tảng giá trị đối diện với
sức mạnh và bản chất lạm dụng của chính quyền. Thứ hai,
sự minh định này kiến tạo một giá trị giáo dục công dân
ý thức được quyền hạn của quốc dân và giới hạn của
nhà nước. Hiến pháp chỉ là "mảnh giấy lộn" nếu giới
lãnh đạo nhà nước không ý thức và không có tinh thần tôn
trọng; hay nếu văn hóa và bối cảnh chính trị và xã hội
chưa đủ tầm mức cho một cơ chế hiến pháp dân chủ thực
thi. Madison nói đến cái thảm trạng giấc mơ và sự quyến rũ
quyền lực "là cái năng lực cao độ nhất nhì trong những
trái tim của con người mà "ít người có thể vượt qua nếu
có cơ hội để lạm dụng nó."(167) Ông nói tiếp, "Trong sự
kiến tạo một chính quyền để con người quản trị con
người, cái khó là ở chỗ: Trước hết, chính quyền có khả
năng cai trị; nhưng cái khó hơn là khả năng tự chế và tự
giới hạn bởi chính nó".(168) Tự chế và tự giới hạn đòi
hỏi truyền thống văn hóa và chính trị mà trong đó, cái mà
Alexis De Tocqueville gọi là civil society (cơ chế dân sự) đã
trưởng thành để tạo một đối lực khả thể cũng như tạo
sự tương kính và tin tưởng của các nhà lãnh đạo. Để từ
đó, lịch sử chính trị quốc gia không phải bị tan rã vì sự
sụp đổ của một chế độ như trường hợp Nam Việt Nam năm
1963 tổng thống Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: "Sau ta (nếu
không có ta) là hồng thủy".

(còn tiếp)

<strong>Chú thích:</strong>

[1] Anh quốc không có hiến pháp thành văn mà chỉ có một hệ
thống pháp lý tổng hợp của truỳên thống và tiên lệ pháp
chế mà thôi.

[2] Những đặc thù của hiến pháp Hoa Kỳ là sự ngấn gọn,
tổng quát để cho phép sự diễn giải được linh dộng theo
thờỉ gian và hoàn cảnh.

[3] Hans Kelsen dề nghị trong cuốn <em>General Theory of State and
Law</em> (Lý Thuyết Đại Cương Về Quốc Gia và Pháp Luật)
(1945) rằng nên có một tòa án hiến pháp, chỉ định bởi lập
pháp, để duyệt xét tính hợp hiến của một đạo luật quốc
gia. Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa Miên Nam Việt Nam (1957-1963)
có điêu 86 quy định "Viện Bảo Hiến" cho mục đích này. Nhưng
"Viện Bảo Hiến" cũng như Quốc Hội là những cơ chế mang
bản chất năng động chính trị nhất thời cao độ khó mà
giữ được vị thế dộc lập, thuần pháp lý. Tôi đề nghị
là chỉ có Tối Cao Pháp Viện - như mô thức Hoa Kỳ - có quyền
cứu xét tính hợp hiến của Đạo Luật; nhưng, muốn phán
quyết một đạo luật là bất hợp hiến phải cần toàn thể
hay ít nhất là ba phần tư chánh án - hơn là da số đơn giản.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130228/nguyen-huu-liem-nhung-nguyen-tac-hien-phap-1),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét