Cao Huy Thuần - Hiến pháp là gì ?

<div class="boxleft200"><img
src="http://tiasang.com.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/ImageHandlerLarge.ashx?width=215&height=242&HomeDirectory=%2fPortals%2f0%2fVietTotal.Articles%2fChinhtrixahoi%2f&fileName=Montesquieu.jpg&portalid=0&i=6061&q=1"
/><div class="textholder">Montesquieu</div></div>
Trước hết, tôi xin bày tỏ tình cảm đặc biệt của tôi
đối với các trí thức, nhân sĩ, bạn bè đang bàn luận sôi
nổi về hiến pháp ở trong nước và ngoài nước. Trong tình
cảm liên đới đó, và ý thức rằng đây là vấn đề có liên
quan đến sự tồn vong của đất nước, tôi xin có đôi lời
góp ý vào quan tâm chung, với tư cách của một người làm
nghề dạy học, không biết gì nhiều hơn là chút kiến thức
trường ốc phổ thông. Tôi cố tránh mọi lý thuyết rườm rà,
duy nhất hạn chế vào một câu hỏi thôi, câu hỏi đầu tiên
của mọi câu hỏi khác: <strong>hiến pháp là gì?</strong>

Tôi biết: trong thế giới ngày nay, hầu như nước nào cũng có
hiến pháp, càng độc tài hiến pháp của họ lại càng hay,
càng đầy mơ ước, càng đậm triết lý, càng rộng mở ra
nhiều lĩnh vực "hiện đại" - xã hội, môi trường, sinh
thái... Chính vì vậy mà tôi phải lấy lập trường trước khi
đi vào đề: tôi đứng ở đâu mà nói chuyện, đứng trong thế
giới văn minh hay lạc hậu hằng mấy thế kỷ? Chẳng lẽ tôi
đi ngược lại khẩu hiệu của nước ta là một nước "văn
minh"? Bởi vậy, tôi quyết định đứng trong thế đứng của
một người dân trong một nước văn minh để gạt ra khỏi đề
tài mọi chuyện hoa lá cành chẳng có liên quan gì đến việc
định nghĩa hiến pháp trong bước đi đầu tiên của lịch sử
đã hình thành ra khái niệm văn minh này. Từ đó, mỗi nước
có thể hiểu theo cách hiểu của họ về hiến pháp, tùy hoàn
cảnh lịch sử riêng biệt. Nhưng đã gọi là "hiến pháp" thì
đương nhiên không thể không biết nguồn gốc của nó, ý nghĩa
nguyên thủy của nó, tinh túy của nó. Nhân loại học văn minh
của nhau là chuyện bình thường của mọi xã hội văn minh.

Vậy thì, ý nghĩa nguyên thủy của hiến pháp là gì? Ai cũng
biết câu trả lời: nguồn gốc của nó nằm trong hai Cách
Mạng, của nước Pháp và nước Mỹ.

Trước hết là nước Pháp. Thật ra, danh từ
"<em>constitution</em>" - mà ta dịch là hiến pháp - đã có từ
lâu, ngay dưới thời Trung cổ, nhưng không mang ý nghĩa như sẽ
có về sau. Cho đến Cách Mạng 1789, nước Pháp sống dưới
chế độ quân chủ, với ông vua có toàn quyền, nhưng ngay từ
trong lý thuyết, quyền của ông gặp phải một hạn chế: ông
phải tuân theo những "luật căn bản của vương quốc". Các
luật này rất hiếm, và hồi đó chưa có phương thức gì cụ
thể để buộc ông phải tuân theo, nhưng trên thực tế, chế
độ quân chủ ở Pháp không đến nỗi "tuyệt đối" như ta
nghĩ, và ngay cả ông vua đã từng tuyên bố "Quốc Gia là Trẫm"
- Louis 14 - so với các nhà độc tài ngày nay hãy còn nhẹ ký
lắm. Ngoài những "luật căn bản của vương quốc" mà quan
trọng nhất là sự thỏa thuận của dân chúng về thuế má,
quyền hành "tuyệt đối" của ông vua còn gặp phải một vài
giới hạn khác do sự hiện diện của một vài định chế phong
kiến nằm trung gian giữa vua và dân: các hội đoàn, đoàn thể
nghề nghiệp, các thành phố... mà tập tục cổ truyền đã trao
cho những đặc quyền, và những đặc quyền ấy được sử
dụng một cách bền bỉ, dai dẳng, đối kháng với quyền của
vua. Hơn nữa, các Tòa Án cũng có một quyền đặc biệt, từ
đó mà dần dần phát triển lên thành quyền chính trị: đó là
quyền đăng bạ những sắc dụ của ông vua; sắc dụ chiếu
chỉ chỉ được thi hành sau khi được đăng bạ. Các ông Tòa
không do vua bổ nhiệm nên vua không áp đảo được họ; cái
chức vị ấy là họ mua. Đồng tiền ban chức tước, nhưng
đồng tiền cũng ban độc lập mà họ cực lực bảo vệ để
trở thành một quyền thực sự. Cuối cùng, tập tục buộc ông
vua phải được sự thỏa thuận của một cơ quan thực sự
đại diện của dân, một Đại Hội đại biểu tập hợp ba
giai tầng xã hội: tăng lữ, quý tộc, bình dân. Dù cho Đại
Hội này không được triệu tập từ 1614 đến 1789, trên lý
thuyết, sự thỏa thuận vẫn là nguyên tắc mà quân quyền
không chối bỏ.

Vậy thì, trong thời gian tiền Cách Mạng, nước Pháp ở trong
cái thế tranh chấp dai dẳng, tuy chẳng quân bình, giữa ông vua
và các cơ quan đối trọng mà quan trọng nhất là các Tòa Án.
Ông vua xác quyết chủ quyền tuyệt đối của mình; các nhà
luật học tiến bộ nhấn mạnh trên sự thỏa thuận để cai
trị. Họ nói: thỏa thuận có nghĩa là ông vua không được
đứng trên luật pháp, và do đó quyền của ông vua không phải
tuyệt đối mà là có giới hạn. Nói một cách khác, nước
Pháp ở trong cái thế tranh chấp giữa chủ thuyết quyền tuyệt
đối của vua và chủ thuyết hiến pháp, hiến định. Trong tranh
chấp lý thuyết đó, bên nào cũng viện dẫn "hiến pháp quân
chủ", nhưng một bên nhấn mạnh quân chủ, một bên nhấn mạnh
hiến pháp, chính sự dằng co giữa hai quyền lực, của vua và
của Tòa Án, diễn tả bản chất của hiến pháp lúc đó. Ngã
hẳn về phía vua chăng? Vua sẽ thành chuyên chế. Ngã hẳn về
phía các Tòa Án chăng? Ông vua sẽ không hơn gì vua nước Anh,
có tiếng mà không có miếng. Trên thực tế, mặc dầu cố
gắng của các nhà luật học, nước Pháp đã không đi vào
được con đường hạn chế quyền lực thực sự như ở Anh
hồi thế kỷ 17. Các Tòa Án, cũng như Đại Hội đại biểu ba
thành phần, không đủ sức để vượt qua quyền của vua. Nhưng
đặc tính dằng co vẫn được duy trì kể cả trong lý thuyết,
ngay cả về phía các lý thuyết gia chính thống của quân
quyền. Jean Bodin, cực lực thuyết minh chủ quyền của vua là
thế, mà cũng không diễn dịch "hiến pháp quân chủ" như là
độc đoán, độc tài, cũng phân biệt "quân chủ vương giả"
khác với quân chủ "bạo ngược", cũng nói rõ "quyền lực
tuyệt đối" không phải là "quyền lực tùy tiện".

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Montesquieu, khái niệm
"hiến pháp" gắn liền với ý tưởng tự do và phân quyền mà
ông suy ra và sáng tạo thêm từ chế độ chính trị của nước
Anh.<img class="quoright" src="/misc/quoright.png"/> <br
class="quoteclear"></div></div>
Chính trong bối cảnh chính trị của một nước Pháp quân chủ,
hạn chế trên thực tế nhưng vẫn tuyệt đối trên lý thuyết,
mà tác phẩm "Tinh yếu của luật pháp" ("Esprit des lois") của
Montesquieu ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quyết định
trong lịch sử của khái niệm hiến pháp. Từ đây, từ năm
1748, danh từ "hiến pháp" mới thực sự có ý nghĩa hiện đại.
Điểm đầu tiên phải lưu ý là Montesquieu xây dựng một lý
thuyết tự do trong một không khí quyền lực tuyệt đối. Tự
do là bà mẹ trong tác phẩm. Nhưng, như ông nói, tác phẩm không
được sinh ra từ một bà mẹ tự do. Đó chính là điểm đặc
sắc tuyệt cú của Montesquieu. Với Montesquieu, khái niệm "hiến
pháp" gắn liền với ý tưởng tự do và phân quyền mà ông suy
ra và sáng tạo thêm từ chế độ chính trị của nước Anh.
Chương 11 của tác phẩm ghi rõ trong tiêu đề: "Về những luật
tạo nên tự do trong mối tương quan giữa tự do và hiến pháp".
Tương quan gì? Chỉ có tự do khi hiến pháp hạn chế quyền
lực. Không ai không biết câu viết này, sáng chói như chân lý,
ngọn hải đăng của thế kỷ 18: "Kinh nghiệm muôn thuở cho
biết bất cứ ai có quyền lực đều có khuynh hướng lạm
dụng quyền lực; lạm dụng cho đến mức gặp phải giới
hạn". Vậy vấn đề là phải đặt ra giới hạn. Phân quyền
nhắm mục đích ấy, bởi vì, lại một chân lý nữa, "quyền
lực ngăn chận quyền lực" để quyền lực không nằm trọn
trong một nắm tay.

Vậy, với Montesquieu, hiến pháp mang một ý nghĩa chính trị:
hiến pháp tổ chức nhiều quyền lực trong nhà nước và tương
quan giữa các quyền lực đó với nhau để quyền lực, một
hiện tượng đáng sợ, trở thành ôn hòa. Một chính thể ôn
hòa là một chính thể tốt nhất, như Aristote đã quan niệm từ
thời cổ đại Hy Lạp.

Tác phẩm của Montesquieu làm dấy lên cả một trào lưu trí
thức nâng danh từ "hiến pháp", từ chỗ chưa có ý nghĩa rõ
ràng, lên địa vị vinh quang của khái niệm, đề tài của mọi
tranh luận, mục tiêu của mọi tranh đấu nhắm hạn chế quyền
hành. Sau 1750, các Tòa Án ở Pháp tận dụng quyền phản biện
(droit de remontrances) sẵn có để bày tỏ ý kiến về các sắc
dụ chiếu chỉ của vua và để bảo vệ những quyền căn bản
mà họ không còn xem như của vương quốc nữa mà là của cả
dân tộc và chính họ là cơ quan nắm giữ. Trong một phản
biện của Tòa Án Rennes năm 1757, quyền của vua và quyền của
các Tòa Án được diễn tả trong ý nghĩa mới đó của "hiến
pháp": "Do một quyền thiêng liêng có sẵn nơi địa vị của
Hoàng Thượng, bất khả truyền, bất khả trao cho ai khác, Hoàng
Thượng là nguồn gốc của mọi pháp chế. Nhưng do một hiến
pháp căn bản của nền quân chủ, Tòa Án của Hoàng Thượng là
hội đồng cần thiết để luật được kiểm tra, là cơ quan
để luật được ban hành, là người bảo đảm cho sự minh
triết của luật, là nơi đăng bạ để duy trì và thi hành
luật, bởi vì từ xưa đến nay Tòa Án là người cộng sự
thiết yếu của Hoàng Thượng, nhờ đó việc cai trị được
văn minh và gìn giữ".

Cùng với quan niệm mới về hiến pháp của Montesquieu, các Tòa
Án nới rộng phạm vi của những "luật căn bản" và định
nghĩa như là "những luật liên quan đến việc tổ chức các
quyền trong chế độ quân chủ". Một tác giả quý tộc - marquis
d'Argenson - dám so sánh ví von thế này: "Dân tộc ở trên các
ông vua như Nhà Thờ công giáo ở trên giáo hoàng". "Luật căn
bản", "hiến pháp", "quyền của Dân Tộc", các yếu tố đó
trộn lẫn với nhau trong một luận thuyết nhằm chống lại
luận thuyết quyền lực tập trung của vua. Từ "hiến pháp"
càng ngày càng được dùng trong tranh luận, với ý nghĩa chính
trị như đã nói ở trên, "như là một dụng cụ có khả năng
giới hạn vương quyền để bảo vệ một trật tự siêu việt
vương quyền".Tòa Án có mặt từ lâu trong lịch sử nhưng bây
giờ mới cố gắng nâng mình lên trong thử thách để hiện
diện như là đối trọng của vương quyền. Ý niệm đối
trọng dần dần đi vào ý nghĩa của hiến pháp.

Tuy vậy, tất cả những tranh luận lý thuyết và thử thách
thực tế trên đây vẫn không làm lung lay được một vương
quyền cứng rắn. Khái niệm hiến pháp thay đổi, nhưng vẫn
mang ý nghĩa chính trị, chưa được diễn dịch cụ thể ra
thành ngôn ngữ luật pháp có khả năng tạo nền móng cho những
quyết định pháp lý. Khác với nước Anh mà tập tục chính
trị dần dần được thay đổi để chế độ quân chủ đổi
mới trong ôn hòa, ở Pháp, cánh cửa không mở ra được vì
vương quyền khóa chốt. Các Tòa Án nại quyền của Dân Tộc?
Ông vua trả lời Ta đây, và chỉ Ta đây mới có quyền bảo
vệ những "luật của lịch sử". Một bên là hiến pháp trong
nghĩa tự do của Montesquieu, một bên là những "luật căn bản
của vương quyền" diễn dịch theo điệp khúc cũ. Để ý nghĩa
chính trị của hiến pháp có được nội dung pháp lý hữu
hiệu, phải đợi 1789. Thế thôi, có ai bao giờ đoán trước
được Cách Mạng sẽ đến đâu? Ai đoán trước được ông vua
toàn quyền thế kia - Louis 16 - có ngày mất tiêu cái chỗ đội
mũ - đội vương miện?

Với Cách Mạng 1789, một lý thuyết gia lừng lẫy khác, Sieyès,
giải quyết tranh chấp giữa "hiến pháp" và "những luật căn
bản của vương quyền" một cách trọn vẹn và cách mạng. Ông
giải quyết bằng cách từ bỏ luận cứ quyền lịch sử để
lập luận trên quyền thiên nhiên. Từ đây, tranh luận lý
thuyết không còn xoay quanh giữa quyền "tuyệt đối" và quyền
"tùy tiện" nữa, mà tập trung trên "chính thể hiến pháp" và
"quyền bính chuyên chế": một bên có giới hạn do hiến pháp
định, một bên vô giới hạn. Từ đây, hiến pháp có thêm
một nội dung luật pháp để cụ thể hóa ý nghĩa chính trị.
Biến chuyển này xảy ra được một phần lớn là nhờ ảnh
hưởng của Cách Mạng Mỹ. Mười ba thuộc địa của Anh ở
châu Mỹ nổi dậy giành độc lập, xây dựng một chế độ
chính trị riêng, ghi nhận long trọng trong một văn bản được
chấp thuận năm 1787 ở Đại Hội đại biểu Philadelphia. Đứng
về phương diện khái niệm hiến pháp mà nói, họ nổi dậy
chống lại cái gì cụ thể? Chống lại một số luật bất
công, nhất là luật thuế má, của Quốc Hội Anh mà họ cho là
trái với các hiến chương thuộc địa. Để chống lại các
luật đó, họ nảy ra cái tư tưởng này: có các quyền không
thể sửa đổi được, các quyền đó phải được ghi rõ trong
một thứ luật khác cao hơn, tức là hiến pháp thành văn, có
hiệu lực pháp lý, nghĩa là bắt buộc. Đừng quên rằng trong
thời gian ấy, mẫu quốc của họ là nước Anh, và nước Anh
chỉ có một thứ luật thôi là luật do Quốc Hội làm ra, không
có hiến pháp thành văn. Làm luật được thì sửa đổi luật
cũng được. Bởi vậy, cái ý nghĩ phải có một thứ luật cao
hơn mọi luật khác, được ghi chép hẳn hoi thành văn bản, là
ý nghĩ cách mạng, đưa khái niệm hiến pháp vào thời đại
mới. Ý nghĩ đó bay ngược qua Đại Tây Dương, hạ cánh xuống
Cách Mạng Pháp, giải quyết rốt ráo tranh chấp giữa "hiến
pháp" và "những luật căn bản của lịch sử". Cả hai khái
niệm được trộn lẫn với nhau thành một trong một văn bản,
được soạn thảo và chấp nhận một cách đặc biệt, văn
bản ấy luật hóa một khái niệm trước đây còn mang tính
chính trị.

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>"Hiến pháp là một văn
bản không phải của chính quyền mà là của dân chúng tạo ra
một chính quyền, và một chính quyền không có hiến pháp là
một chính quyền không có luật".<img class="quoright"
src="/misc/quoright.png"/> <br class="quoteclear"></div><div
class="quoteauthor">» Thomas Payne</div></div>

Ngày nay, ta khó thấy ý nghĩ đó là tuyệt tác vì đã quá quen
với cái từ "hiến pháp". Lúc đó, từ "hiến pháp" hãy còn
lẫn lộn với từ "chính phủ", "chính quyền", hai bên không
khác nhau cho đến trước ngày Cách Mạng Mỹ. Một nhân vật
quý tộc Pháp, trong một thư viết cho vua, đã thốt ra một câu
tiêu biểu: "Làm sao người ta có thể đồng thời vừa là bạn
của chính quyền vừa là kẻ thù của hiến pháp được?" Từ
đây, gió lốc cách mạng thổi bay từ "gouvernement" ra khỏi từ
"constitution". Yêu vợ không phải là yêu bồ. Hai vợ không phải
đều là vợ cả. Thomas Payne, lý thuyết gia nổi bật của Cách
Mạng Mỹ, nói rõ: "Hiến pháp là một văn bản không phải của
chính quyền mà là của dân chúng tạo ra một chính quyền, và
một chính quyền không có hiến pháp là một chính quyền không
có luật". Ông nhắc lại lần nữa: "Một hiến pháp là một
điều có trước chính quyền, và một chính quyền chỉ là con
đẻ của một hiến pháp. Hiến pháp của một nước không
phải là văn bản của một chính quyền mà là của dân chúng
tạo ra một chính quyền".

Giữa hai bờ Đại Tây Dương, khái niệm hiện đại về hiến
pháp thành hình nhờ ảnh hưởng qua lại giữa Montesquieu và
Cách Mạng Mỹ. Montesquieu ngại quyền lực. Các thuộc địa ở
Mỹ, ngay từ hồi nổi dậy, cũng đã nhìn quyền lực như thế
qua ông vua George III, tuy rằng hồi đó vua đã bắt đầu mất
thực quyền trong chế độ chính trị nước Anh. Cũng từ
Montesquieu, lý thuyết phân quyền được thực hiện tại Mỹ,
và áp dụng chặt chẽ hơn cả ở châu Âu vì Quốc Hội không
thể buộc Tổng Thống từ chức, Tổng Thống không thể giải
tán Quốc Hội. Ngược lại, từ Mỹ, việc luật hóa lý thuyết
chủ quyền thuộc về toàn dân ảnh hưởng trên tư tưởng của
Sieyès. Chủ quyền đã thuộc về dân thì việc làm ra hiến
pháp không phải là việc của một cơ quan nào mà là việc của
toàn dân: từ đó lý thuyết về một "quyền lập hiến" được
chế ra thành luật. Sieyès tóm tắt: "Hiến pháp bao gồm đồng
thời: việc thành lập và tổ chức nội bộ các quyền lực
khác nhau của nhà nước, mối tương quan tất yếu và sự độc
lập giữa các quyền lực đó, và cuối cùng, những cảnh giác
chính trị phải cẩn thận xây dựng chung quanh, để các quyền
lực đó lúc nào cũng có ích lợi nhưng không bao giờ trở
thành nguy hiểm. Đó là ý nghĩa chính xác của danh từ hiến
pháp; ý nghĩa đó liên quan đến toàn thể quyền lực của nhà
nước và sự phân chia những quyền lực đó".

Từ đầu, ý tưởng của Montesquieu đã liên hệ rõ ràng khái
niệm hiến pháp với khái niệm quyền lực hạn chế để
chống lại quyền hành tuyệt đối, nghĩa là vô giới hạn và
tùy tiện. Đến đây, việc phân quyền được xây dựng thành
những nguyên tắc thành văn, tối thượng, mà mục đích là
thiết lập những giới hạn minh bạch, ai cũng biết, về quyền
lực của người cầm quyền. "Nếu quyền lực không có giới
hạn, quyền lực tất yếu trở thành tùy tiện, và không có gì
trực tiếp đối chọi với một hiến pháp bằng bạo quyền",
Mounier đã phát biểu như thế trong diễn văn đọc ngày 7-7-1789
trước Hội Đồng Lập Hiến. Ông là đại biểu lừng danh của
giai cấp bình dân. Tư tưởng đó được viết chắc nịch như
đinh đóng cột trong điều 16 của Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền: "<em>Bất cứ xã hội nào trong đó các quyền không
được bảo đảm và sự phân quyền không được tôn trọng,
xã hội đó không có hiến pháp</em>".

Tác giả bài này muốn nói gì khi nhắc lại những kiến thức
phổ thông trên đây? Duy nhất điều này thôi: lịch sử của
khái niệm hiến pháp bắt đầu từ một khao khát: tự do; khao
khát đó sẽ không bao giờ thực hiện được trước một
quyền lực tuyệt đối; để quyền lực không phải là bạo
lực, phải phân quyền; để sự phân quyền được rõ ràng,
minh bạch, phải ghi thành luật, luật đó là tối thượng, là
mẹ của mọi thứ luật khác. Nghĩa là: để định nghĩa hiến
pháp là gì, đừng quên rằng bắt đầu quá trình là một ý
tưởng chính trị và kết thúc là một văn bản luật pháp, từ
đó mà quyết định cái gì là hợp pháp, cái gì là bất hợp
pháp trong mọi hành động lập pháp và lập quy của các cơ quan
nhà nước. Chỉ một ý đó thôi mà tác giả đã lặp đi lặp
lại bao nhiêu lần: Hiến pháp là một ý tưởng chính trị
được luật hóa vào một giai đoạn quan trọng nào đó của
lịch sử để một trật tự chính trị trở thành chính đáng.
Điều này bao gồm hai ý nghĩa: thứ nhất, trật tự chính trị
nào cũng mượn danh nghĩa luật để trở thành một trật tự
pháp lý; nhưng thứ hai, không luật pháp nào ban tính chính đáng
cho một trật tự chính trị nếu luật đó không xuất phát từ
nguyện vọng đích thực của nhân dân.
<center>°°°</center>
Hơn một thế kỷ rưỡi sau Cách Mạng, nước Pháp có ông tổng
thống De Gaulle làm một hiến pháp mới - hiến pháp hiện tại -
để chấm dứt một trật tự chính trị cũ, lập một trật
tự chính trị mới, mở đầu Đệ Ngũ Cộng Hòa. Trong một
cuộc họp báo quan trọng ngày 31-1-1964, ông định nghĩa hiến
pháp trong một câu nổi tiếng: "Hiến pháp là một tinh thần,
những định chế, một thực tiễn". Quá đúng. Và bộc lộ ra
được những gì tôi vừa trình bày ở trên.

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Bất cứ hiến pháp nào
trên thế giới đều có thể được đặt dưới một câu hỏi:
"hiến pháp này được làm ra để thể hiện cái tinh thần gì
vậy?" Dân chúng chỉ cần biết cái tinh thần ấy một cách tỏ
tường và chân thật là đã có thể phát biểu ngay đó là
hiến pháp của mình hay của ai.<img class="quoright"
src="/misc/quoright.png"/> <br class="quoteclear"></div></div>
Một thực tiễn? Tất nhiên, vì hiến pháp phải được áp
dụng để trở thành luật nói, nếu không thì là luật câm.
Những định chế? Hiển nhiên, khỏi cần nói. Tôi chú trọng
mấy chữ đầu: "một tinh thần". Vậy tinh thần này là gì trong
bối cảnh lịch sử đã làm hình thành hiến pháp ở Pháp và
ở Mỹ? Tự do! Tinh thần này quyết định tất cả. Quyết
định việc thành lập các định chế. Quyết định thực tiễn
của pháp luật, cả luật mẹ lẫn luật con. Bất cứ hiến
pháp nào trên thế giới đều có thể được đặt dưới một
câu hỏi: "hiến pháp này được làm ra để thể hiện cái tinh
thần gì vậy?" Dân chúng chỉ cần biết cái tinh thần ấy một
cách tỏ tường và chân thật là đã có thể phát biểu ngay
đó là hiến pháp của mình hay của ai.

Vậy thì dân chúng Việt Nam chờ đợi cái tinh thần gì được
luật hóa trong hiến pháp? Một tinh thần phù hợp với giai
đoạn hòa bình của đất nước, sau nhiều năm chiến tranh đòi
hỏi con người phải hy sinh nhiều thứ, kể cả thứ quý nhất
trong đời là tự do. Chiến tranh là tình trạng bất thường,
hòa bình là chấm dứt tình trạng bất thường, là phải trả
lại cho con người cái khao khát bức thiết nhất của con
người ở muôn thuở và muôn nơi, là phải trả lại cho con
người Việt Nam cái giá đã mua bằng máu, là phải thực hiện
lời cam kết chói lọi trong Tuyên ngôn độc lập vinh quang: ai
cũng biết, đó là "quyền tự do". "Không có gì quý hơn độc
lập, tự do": đó là tinh thần mà người dân chờ đợi luật
hóa trong hiến pháp, một hiến pháp hoàn toàn mới, phù hợp
với giai đoạn mới, giai đoạn hòa bình.

Tinh thần là như vậy, định chế sẽ thế nào? Tất cả những
gì tôi nói trong bài này có thể tóm gọn trong hai chữ: ôn hòa.
Quyền lực phải biết ôn hòa. Chính thể ôn hòa là chính thể
tốt nhất. Đó là văn minh mà Âu châu thừa hưởng từ tư
tưởng của Hy Lạp cổ đại. Montesquieu cũng chỉ là tiếp nối
tư tưởng Aristote. Nhưng đó cũng chính là văn minh của Việt
Nam, của tư tưởng Việt Nam, không hề độc đoán.

Đảng Cộng sản đã nhiều lần nêu vấn đề định nghĩa lại
lãnh đạo. Đúng vậy, nhưng thế này thì hợp với mong mỏi
hơn: định nghĩa lại lãnh đạo là thế nào để phù hợp với
thời bình, thế nào để thực hiện lời cam kết "quyền tự
do". Đó là cứu cánh của chính trị. Đó là cứu cánh của
quyền lực. Một quyền lực ôn hòa trong thời bình, khác với
thời chiến tranh, khác với thời tranh đấu bí mật trước mùa
Thu tháng Tám. Đó là tinh thần mới phải có trong hoàn cảnh
mới của đất nước, cần thực sự đoàn kết toàn dân. Tinh
thần đó sẽ quyết định tất cả mọi điều khác trong hiến
pháp. Tinh thần đó, người dân khao khát chờ đợi từ lâu
để được là tác giả của hiến pháp mới.

<blockquote>Dưới ảnh hưởng đó của tư tưởng luật hóa hiến
pháp đến từ Mỹ, từ ngữ "luật căn bản" của Pháp được
ngôn ngữ luật đưa lên địa vị tối thượng: hiến pháp là
luật tối thượng, nghĩa là, rất cụ thể, cao hơn tất cả
các luật khác và làm vô hiệu tất cả luật nào trái lại.
Đây cũng là một sáng tạo tuyệt tác bắt nguồn từ một sự
việc bình thường trước Tòa Án Tối Cao của Mỹ. Ông Marburry,
được bổ nhiệm thẩm phán nhưng chờ mãi đến đáo hạn mà
vẫn không nhận được giấy tờ bổ nhiệm. Ông kiện tổng
thống Adams (mà người đại diện là bộ trưởng Madison) đòi
gửi công văn bổ nhiệm. Ông Tòa Marshall xử rằng: kiện là
đúng, nhưng đạo luật được viện dẫn ra để kiện là không
hợp với hiến pháp, là vi hiến. Chuyện bình thường ở Mỹ.
Nhưng là chuyện động trời trong lịch sử hiến pháp của Pháp
vì Tòa Án dám xía vào lĩnh vực lập pháp để phán đúng hay
sai. Cần nhấn mạnh vụ kiện danh tiếng Marburry chống Madison
này ở đây để hiểu quá trình luật hóa hiến pháp và sức
mạnh của tinh thần trọng pháp. Mười ba thuộc địa ở Mỹ
phải nổi dậy để đòi truất bỏ những luật bất công.
Khổng Mạnh ở ta ngày xưa cũng lao xao với sĩ tử rằng nước
có thể lật thuyền... Suy diễn bài học từ ông Tòa Marshall,
luật pháp có chức năng và khả năng giải quyết tranh chấp
chính trị một cách hòa bình, khỏi cần gươm dáo, mà cũng
khỏi phải lội nước lật thuyền.</blockquote>

<h2>Chú thích:</h2>

Một số câu trích dẫn đặt trong ngoặc kép là lấy từ:
Olivier Beaud, L'Histoire du concept de constitution en France. De la
constitution politique à la constitution comme statut juridique de l'Etat,
Jus politicum, Vol. 2, Juin 2010. Có thể đọc trên mạng:

http://www.juspoliticum.com/L-histoire-du-concept-de.html

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130306/cao-huy-thuan-hien-phap-la-gi), một
số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời độc
giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận
có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng
dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét