Trần Hồng Tâm - Hy vọng có thêm hai Huy Đức nữa

<div class="boxright220"><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2013/01/273805_100000755701241_314568464_n1.jpg"
/><div class="textholder">Trương Huy San, aka Osin Huy Đức, tác giả
tập sách Bên Thắng Cuộc</div></div>
Có cuốn Quyền Bính trong tay, đọc khoảng 50 trang đầu, tôi
đành phone vào hãng cáo bệnh, ngồi nhà đọc một mạch cho
đến trang cuối cùng. Việc mổ xẻ các nhân vật và sự kiện
trong đó cần nhiều thời gian và công sức. Bài viết này chỉ
là những cảm nhận ban đầu.

Câu cuối cùng của Lời mở đầu trong Quyền Bính viết: "Hệ
thống chính trị trải qua nhiều thế hệ, càng về sau lại
càng ít có khả năng khắc phục sai lầm." Phải chăng đây là
một luận đề, mà tác giả đã dùng phần còn lại của cuốn
sách để chứng minh.

<h2>Đại Hội</h2>

Câu chuyện thường bắt đầu từ Đại hội Đảng. Đại hội
đẻ ra Bộ chính trị và Tổng bí thư. Bộ chính trị và Tổng
bí thư lại đẻ ra chính sách. Trong chuỗi mắt xích này, quyền
bính được sử dụng triệt để nhằm thao túng chính trường
ở những cung bậc khác nhau.

Trước Đại hội VI, Lê Duẩn chết, Lê Đức Thọ muốn giành
lấy vị trí này. Nhưng Lê Duẩn chỉ đích danh Trường Chinh
thay mình. Ông Thọ đã sử dụng quyền bính tuyệt đối của
trưởng ban nhân sự Đại hôi để giành ghế. Không được,
ông rút lá bài cuối cùng: không ăn được thì đạp đổ.
Trường Chinh đã bị ông Thọ ép phải rút lui chỉ vài giờ
trước khi Đại hội VI khai mạc.

Ở một hoàn cảnh khác, quyền bính được sử dụng thành bản
án để tiêu diệt đối phương. Vụ Sáu Sứ là một điển
hình. Phần vì ghen tức với uy tín của Võ Nguyên Giáp và Trần
Văn Trà, phần vì sợ hai ông này trở lại chính trường, hai
tướng Lê Đức Anh và Đoàn Khuê dùng Vũ Chính cùng con rể
Nguyễn Chí Vịnh ở tồng cục II dựng lên vụ "âm mưu lật
đổ" do tướng Giáp cầm đầu.

May mắn cho tướng Giáp, vụ án được giao cho thứ trưởng
công an Võ Viết Thanh là một người tử tế. Ông Thanh lật án,
không theo ý kiến chỉ đạo. Lập tức Võ Viết Thanh bị trả
đũa. Sự nghiệp chính trị của ông Thanh chấm dứt, thanh danh
cá nhân và gia đình bị bôi nhọ. Ông Thanh tâm sự "Trong cặp
tôi lúc đó có một khẩu súng, tôi đã định kéo khóa rút
súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát." (Ba ông là Đoàn
Khuê, tổng tham mưu trưởng, Võ chí Công, chủ tịch nước, và
Nguyễn Đức Tâm, trưởng ban tổ chức trung ương)

Từ Đại hội Đảng VI năm 1986 đến Đại hội XI năm 2011 là
25 năm với 6 kỳ Đại hội. Càng về sau, Đại hội càng lộn
xộn. Cứ trước Đại hội, là có nhiều kỳ án, nhiều tin
đồn úp úp mở mở làm xôn xao chính trường. Đại hội sau
nhiều án hơn Đại hội trước và mức độ khốc liệt của
nó cũng tăng. Những cảnh hạ bệ, thanh toán nhau rất ngoạn
mục được trình bày một cách bình tĩnh, rõ ràng và đầy
sức thuyết phục.

<h2>Nhân Sự</h2>

Nếu Đại hội Đảng là mẹ, thì Bộ chính trị là con. Trong
Bộ chính trị thì Tổng bí thư là con trưởng, các ủy viên là
những đứa con thứ. Mẹ mang bệnh di truyền từ trong nhiễm
sắc thể, thì lũ con làm sao tránh khỏi căn bệnh trầm kha.

Trường Chinh được mô tả như là kiến trúc sư của Đổi
mới. Ông đoạn tuyệt với quan liêu bao cấp. Ông tập hợp
những trợ lý giỏi, tận tụy và nhiệt thành với công việc,
mang lại chút hy vọng vào những năm cuối thập kỷ 80. Nhưng
âu cũng là số phận. Ông phải "tự" rút. Dân tộc lại
trở về với cảnh lầm than.

Nguyễn Văn Linh, kế vị Trường Chinh, bộc lộ ra là một con
người thủ đoạn, hẹp hòi, thù vặt, thành kiến, và bảo
thủ. Bạn đọc khá dễ dàng tìm được câu trả lời tại sao
ông Linh đã trở thành một sát thủ lạnh lùng với Trần Xuân
Bách.

Ông Đồng và ông Thọ đưa ông Linh vào ghế Tổng bí thư. Ông
Bách phản đối vì ông Linh chẳng có trình độ gì. Khi ông Linh
đã thành Tổng bí thư rồi, ông Bách vẫn coi thường ông Linh
ra mặt. Cuộc chiến Linh – Bách bắt đầu như vậy.

Rồi ông Linh đánh hơi được là ông Bách sẽ thay mình vào
giữa nhiệm kỳ. Thế là ông Linh liên minh với cánh bảo thủ
giáo điều Bắc kỳ. Những ngón đòn hiểm nhất được tung ra
diệt Trần Xuân Bách không tiếc thương để trừ hậu họa.

Ông Linh còn lập ra nhiều kỳ án để vặt lông bẻ cánh, thậm
chí còn muốn cắt tiết Võ Văn Kiệt. Bề ngoài ông Linh lại
đóng vai cấp tiến làm mọi người cứ tưởng ông Linh là cánh
đổi mới cùng phe với ông Kiệt từ miền Nam ra. Cuộc đọ
sức Linh – Kiêt đầy kịch tính và kéo dài đến những năm
khi ông Linh đã về hưu.

Đến đời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, di sản đồ sộ của
ông để lại cho đất nước là hoán chuyển cán bộ. Những
đồng hương Thanh Hóa của ông được cơ cấu, còn những ai
không cùng cánh bị đẩy ra.

Tới Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thì phó ban tổ chức Trung
ương cũng phải thốt lên: "Tôi thật xấu hổ vì Đảng ta có
một tổng bí thư như vậy". Thủ tướng Phan Văn Khải nhận
định: "Ông Mạnh trình độ yếu lại thiếu bản lĩnh nên
gần như không tác dụng gì". Chính ông Mạnh cũng tự nhận:
"Em biết thân phận em rồi, người dân tộc chỉ có thể làm
đến thế."

Ông Mạnh tự biết khả năng của mình, nhưng người ta cứ giao
cho ông chức Tổng bí thư. Ông Mạnh đã trở thành ông bình
vôi không hơn không kém. Quyền bính càng dễ bị khuynh loát
bởi những bóng ma sau hậu trường. Nhóm Nguyễn Tấn Dũng,
Nguyễn Văn Hưởng, Lê Hồng Anh ra đời trong hoàn cảnh này.

Trong Quyền Bính tác giả có dẫn lời Nguyễn Văn An, ủy viên
Bộ chính trị, trưởng ban tổ chức Trung ương: "Ngay từ
Đại hội VI chọn ông Nguyễn Văn Linh đã không đúng, Ông ấy
không phải là người đổi mới. Ông Linh chọn ông Đỗ Mười
cũng không đúng. Ông Mười chọn Lê Khả Phiêu cũng không
đúng. Đến khi chọn Nông Đức Mạnh thì sai"

"Không đúng" đồng nghĩa với "Sai". Nhưng ông An phải
dùng từ sai để nhấn mạnh căn bệnh đã vào giai đọan cuối.
Nếu mang tài năng và đạo đức của các Tổng bí thư biểu
diễn trên đồ thị, thì đó là đồ thị của một hàm số
nghịch. Thời gian càng tăng thì đạo đức và tài năng của
các vị càng giảm.

<h2>Đối Ngoại</h2>

Tổng bí thư và Bộ chính trị làm ra và điểu hành chính sách.
Vậy, bạn đọc tự đoán ra kết quả. Những nhân sự bệnh
hoạn trên không thể sinh ra những chính sách đúng, tất nhiên
càng không thể điều hành quốc gia hội nhập vào quỹ đạo
của nhân loại.

Nhận thức của cán bộ cao cấp cũng rất thảm hại. Ông
Nguyễn Đức Bình tuyên bố "Toàn cầu chỉ mang lại đói
nghèo" còn Nguyễn Phú Trọng thì bảo "đó là diễn biến
hòa bình".

Khi Bill Cliton đến thăm Việt Nam, vô tình hay cố ý, mà thời
gian ông đặt chân đến Hà Nội và Sài Gòn đều vào lúc nửa
đêm. Bộ chính trị chỉ đạo không ai được cười khi tiếp
Bill Cliton. Quyền Bính mô tả: Một trợ lý nhắc Thủ tướng:
"Người ta đã sang tận đây, tiếc gì anh không nở một nụ
cười với họ". Thủ tướng Phan Văn Khải trả lời: "Không
được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không
được cười".

Khi Bill Clinton đến thăm Đại học Quốc gia Hà Nội, sinh viên
được quy định khi nào thì được đứng lên, khi nào thì
được vỗ tay.

Đón nguyên thủ vào lúc nửa đêm và nền ngoại giao cấm
cười ra đời ở xứ ta. Cũng không biết nên cười hay mếu khi
đọc những dòng này trong Quyền Bính.

Đường lối ngoại giao với Trung Quốc được thể hiện qua
cuộc gặp của Lê Khả Phiêu với Giang Trạch Dân. Cuộc gặp
diễn ra không theo nghi thức của Đảng hay Nhà nước một cách
công khai, mà lén lút, khuất tất theo đường tình báo.

Chuyến đi gồm bốn vị Lê Khả Phiểu, Trần Đình Hoan, Nguyễn
Mạnh Cầm và Nguyễn Chí Vịnh. Nhưng phút chót, Trung Quốc lại
ngăn không cho ông Cầm và ông Hoan vào phòng họp, chỉ riêng
ông Phiêu và Vịnh được vào. Ông Phiêu thú nhận đã thoả
thuận đàm phán song phương vấn đề biển đảo với Trung
Quốc.

Chuyện mất đất, mất biển với Trung Quốc là có thiệt.
Quyển Bính đã trình bày ngọn nguồn của câu chuyện. Nếu
không mất đất, tại sao Đảng lại phải giấu dân? Tại sao
lại không công khai nội dung và kết quả đã ký?

Khi biết Việt Nam sắp ký Hiệp định Thương mại Việt –
Mỹ, các ủy viên Bộ chính trị nhận được bức điện tối
mật từ Tổng cục II: "Trung Quốc sẽ phản ứng rất xấu
nếu ký với Mỹ".

Đọc đến đây, thú thật tôi phải chửi thề vì quá đau lòng
trước những cơ hội đã mất. Tao buôn bán với Mỹ thì mặc
mẹ tao, hề hấn gì đến mày mà mày phải phản ứng xấu. Mày
lấy tư cách gì mà chúi mũi vào ống khóa nhà tao. Mày phản
ứng xấu thì làm đéo gì được tao. Tôi cũng đắng cay tự
hỏi: Ai là người để Trung Quốc làm việc đó? Sao các ngài
phải sợ cái thằng hàng xóm to xác mà thối bụng đến vậy?
Hèn quá. Nhục quá.

<h2>Đối Nội</h2>

Về đường lối kinh tế và đối nội, Quyền Bính trích dẫn
lời ông Đào Duy Tùng: "Kinh tế phải phục tùng chính trị".
Một mệnh lệnh tuyệt cú mèo, xứng tầm ủy viên Bộ chính
trị.

Ở Việt Nam chưa hề có đổi mới chính trị, thì làm sao có
đổi mới kinh tế. Công cuộc "Đổi mới" của Đảng từ
năm 1986 thực ra chỉ nửa vời, nếu không nói là giả tạo, hay
nói cho chính xác là một thằng xây nhưng chín thằng phá.

Một nhóm nhỏ người giàu lên là do chộp giựt. Xã hội chưa
hình thành một tầng lớp trung lưu thực sự và bền vững.
Sức lao động và sự sáng tạo chưa được giải phóng. Vòng
kim cô về chủ nghĩa xã hội vẫn đang siết chặt trên đầu.
Chệch đường lối thì không vào tù cũng thân bại danh liệt.
Khác phe cánh thì không bị cưỡng chế cũng bị thanh tra.

Thiết tưởng, không cần phải bàn thêm gì nữa. Hậu quả đã
nhãn tiền. Nền kinh tế và xã hội Việt Nam hôm nay đang là
đêm hôm trước của ngày phá sản.

<h2>Nụ Cười và Nước Mắt</h2>

Bên cạnh những câu chuyện khô khan về đường lối đối kinh
tế, Quyển Bính, thảng hoặc, mang lại cho bạn đọc những nụ
cười.

Ông Lê Duẩn bảo các chị phụ nữ rằng sao các chị nghe vậy
mà không "vả vào miệng" những người nói. Tôi khoái lối
nói dân dã của ông, y chang như mấy bà ngoài chợ Đồng Xuân.
Ông Đỗ Mười tiếp các nhà báo trong khi quên cài khóa cửa
quần. Ông Đoàn Khuê thì vén áo cho Đỗ Mười sờ bụng rồi
khoe rằng khối ung thư trong bụng đã tan, ông đủ sức khoẻ
đảm nhiệm Chủ tịch nước. Lối xưng hô suồng sã "Mày,
Tao" của các vị Tổng, Thủ, Chủ, cũng mang lại nụ cười
tủm tỉm.

Rồi người đọc cũng bắt gặp câu chuyện cảm động về số
phận của đứa con rơi lưu lạc Phan Thanh Nam.

Bà Hồ Thị Minh, 20 tuổi, con gái miền Nam, nhan sắc mặn mòi,
từng làm chủ bút một tờ báo, từng dự hội nghị bên Pháp,
biết nhiều ngoại ngữ, được gởi ra Bắc để giúp việc cho
Bác Hồ. Chưa kịp giúp Bác, vì Bác đã trên 60 tuổi, thì gặp
Võ Văn Kiệt đi dự Đại hội Đảng II, năm 1951.

Hai tâm hồn Nam bộ phóng khoáng mà cô đơn giữa núi rừng
Việt Bắc hoang vu gặp nhau, kết quả là thằng con Phan Thanh Nam
ra đời. Hơn năm sau, ông Kiệt phải về Nam. Trung ương Đảng
giao thằng con trai ông Kiệt cho ông Cái ở Tổng cục Lương
thực. Tổng cục Lương thực nhưng có lẽ vì thiếu lương
thực không nuôi nổi cháu bé sơ sinh, thằng bé phải nằm lại
bơ vơ bên bờ suối. Người làng Tăng Xá, xã Tuy Lập, huyện
Cẩm Khê, Phú Thọ lượm được mang về.

Bà Trần Kim Anh, vợ chính thức của ông Kiệt, và hai đứa con
thơ, trúng bom, cùng chết mất tích trên sông Sài Gòn (lưu ý
rằng bà Kim Anh là con gái một địa chủ ở miền Tây, không
là Đảng viên, không nằm vùng, không tham gia vào bất kỳ hoạt
động nào của chồng, không có chính kiến chính trị). Võ Dũng
con trai duy nhất còn lại cùa ông Kiệt và bà Anh, đi tập kết
nghe tin mẹ và em chết, quyết về Nam để trả thù cho mẹ,
chưa kịp trả thù, thì hy sinh khi đang bò qua hàng rào kẽm gai
trinh sát.

Cũng khoảng thời gian đó, Phan Thanh Nam, vượt Trường sơn vào
Nam tìm người cha ruột.

Gia đình ông Kiệt gần như xoá sổ. Bạn đọc nhận ra sự
khốc liêt và tàn bạo của chiến tranh. Cái giá phải trả của
mỗi gia đình Việt Nam nói chung, và gia đình ông Kiệt nói
riêng là quá đắt. Chúng ta có quyền chất vấn ai đã đưa
đẩy chúng ta đến cảnh nhồi da sáo thịt này. Có cần thiết
một cuộc chiến huynh đệ tương tàn như vậy hay không. Có con
đường nào để thống nhất Việt Nam mà không cần đến súng
đạn hay không.

Người đọc cũng bắt gặp cảnh các đồng chí đối xử với
nhau rất nhẫn tâm qua hình ảnh bà Trần Thị Đức Thịnh, vợ
ông Bách. Khi ông Bách thất sủng, bà Thịnh bị đẩy ra vỉa
hè giữ xe gắn máy. Bà phải trùm khăn để không ai thấy mặt,
đi rửa chén, áp tải xe chở sắt qua đêm để lấy tiền nuôi
chồng con. Trung ương đã quỵt tiền lương của ông Bách. Cay
đắng thay là ông Bách lại không biết, cứ tưởng vợ vẫn
được Đảng trọng dụng, và Trung ương vẫn trả lương cho
mình.

<h2>Hy Vọng</h2>

Quyền Bính giống nhữ một cỗ máy CT scan. Nó chỉ cung cấp
những lát cắt hình ảnh của khối u trong cơ thể. Để nhận
biết những hình ảnh này là tế bào dữ hay lành, tùy thuộc
vào kiến thức và kinh nghiệm người đọc. Tác giả Huy Đức
đã không làm thay cho chúng ta việc đó. Hình như đó là dụng
ý. Anh không "định hướng" bạn đọc như báo chí của
Đảng đang làm.

Chữ "Hết" ở trang cuối của Quyền Bính đã hiện ra, nhưng
tôi vẫn không tin vào mắt mình. Cảm ơn Huy Đức đã cho chúng
ta một cơ hội ôn lại và suy ngẫm về những biến cố đã
xảy ra trong đời mình. Cảm ơn anh về sự lao động nghiêm
túc, kiên cường và công phu. Anh là người mở đường cho sự
thực trở về, bất chấp sự che đậy, ngụy tạo của những
người nắm quyền bính.

Nhà báo lão thành Bùi Tín nói Bên Thắng Cuộc đã đưa ra 1/3
sự thực. Nếu vậy, Việt Nam cần thêm hai người như Huy Đức
nữa, thì sự thực sẽ được trả về đúng vị trí của nó.
Chúng ta có quyền hy vọng.

19 tháng Giêng 2013

© Trần Hồng Tâm

© Đàn Chim Việt

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130122/tran-hong-tam-hy-vong-co-them-hai-huy-duc-nua),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét