Sự thịnh vượng của đất nuớc: Lý thuyết của Adam Smith và thực tế tại Việt Nam (2)

<h3>Thuyết trọng thương</h3>

Với hơn 230 trang sách trong quyển bốn Smith đưa việc phê phán
thuyết trọng thương vào trọng điểm và khi bàn về cách vận
hành của thị trường ông chỉ tóm tắt có mười trang.

Ông khởi đầu bằng chuyện bình thường trong xã hội là trong
cuộc chạy đua ai cũng muốn thắng, nhưng khi người chạy cản
trở người khác không có cơ hội cùng chạy là một chuyện
không công bình mà các khán giả phải phản đối và trọng tài
phải can thiệp. Từ thí dụ này ông áp dụng vào sinh hoạt kinh
tế.

Hoạt động kinh tế cũng cần có quy luật vì đây là cuộc đua
về sản xuất và phân phối sản phẩm cho xã hội. Ai tham gia
vào tiến trình sản xuất để thoả mản nhu cầu xã hội, qua
đóng góp đất đai, tư bản hay sức lao động, đều có quyền
hưởng thành quả đóng góp. Sự phân phối thành quả này có
trong từng nội bộ doanh nghiệp. Doanh nghiệp tìm cách thay đổi
phương thức sản xuất do bí mật nghề nghiệp, bằng sáng chế
mới để tạo độc quyền thị trường và tăng doanh thu. Họ
có ưu thế xã hội hơn công nhân và người tiêu thụ. Do đó,
có mâu thuẫn quyền lợi giữa doanh nghiệp và công nhân, giữa
doanh nghiệp và các đối thủ trong nước hay ngoại quốc. Họ
đề cao là thịnh vượng của đất nước do bán nhiều hơn mua,
bán hàng mắc và mua hàng rẻ. Bằng lập luận này họ áp lực
chính quyền và thu phục công luận tin thuyết trọng thương là
quyền lợi chung của đất nước. Theo Smith họ chỉ bảo vệ
quyền lợi riêng.

Theo lý thuyết thì Smith cho là thị trường có ba giai đoạn
khác nhau: tăng trưởng, đình trệ và suy thoái, tùy theo tình
trạng phát triển mà sẽ có những hệ lụy khác nhau cho điền
chủ, công nhân và nhà tư bản. Khi quyền lợi của điền chủ
và công nhân phù hợp với quyền lợi công cộng, thì quyền
lợi của nhà tư bản là ngược lại. Khi chủ tư bản lập
luận tăng thu doanh lợi để phục vụ quyền lợi chung thì
phải cần rà soát. Mở rộng thị trường có thể phục vụ
công ích, nhưng giới hạn cạnh tranh thì chỉ phục vụ cho doanh
nghiệp. Chính quyền phải cẩn trọng khi phân tích quyền lợi
doanh nghiệp và đất nước khi theo đuổi chính sách trọng
thương.

Dù vậy, theo thực thực tế thì chính sách thuộc điạ Anh là
kết quả một sự nội gián của thương giới với chính quyền
chỉ gây thiệt hại cho người tiêu thụ. Các nước thuộc
địa khi nhập và xuất khẩu hàng phải quan trung gian Anh, một
mục tiêu đặt ra chỉ nhằm thoả mản nhu cầu mẫu quốc.
Nhưng Smith chứng minh là chính sách thuộc điạ đem lại nhiều
quyền lợi hơn là gây thiệt hại, vì mở ra nhiều thị
trường mới và đóng góp vào sự phát triển sản xuất khi trao
đổi với các nước thuộc địa. Khi Anh bảo vệ các thương
thuyền trong các hoạt động mậu dịch viễn duyên và gây tác
hại cho ngoại thương của Hà Lan tại các thuộc điạ, thì ông
lập luận rằng độc quyền ngoại thương nhằm bảo vệ quyền
lợi kinh tế và quốc phòng. Theo ông, khi hàng ngoại nhập rẻ
phải đóng thuế quan cao để bằng với giá hàng nội điạ là
tạo công bình, biện pháp này hợp lý. Khi các doanh nghiệp
chiếm vai trò độc quyền kinh doanh trong ngắn hạn, thì không
phạm nguyên tắc bình đẳng, vì nhu cầu cần thu lợi trong gia
đoạn đầu tư ban đầu.

<em>The Wealth of Nations</em> là căn bản lý thuyết kinh tế tác
động sâu xa đến toàn bộ sinh hoạt thị trường và gây tranh
luận liên tục trong chính giới và học giới tại các nước
phương Tây. Mỗi lần có khủng hoảng tác phẩm này lại
đưọc đem ra để thảo luận mà những ảnh hưỏng chính
được tóm luợc sau đây.

<h2>Ảnh hưởng</h2>

<h3>Thị trường sách </h3>

Sự đón nhận nồng nhiệt của độc giả dành cho Smith có
nhiều lý do. Một là về cá nhân, sau khi tác phẩm <em>Theory of
Moral Sentiments</em> ra đời vào năm 1759, Smith nổi danh như là
một người tiên phong trong phong trào khái sáng tại Tô cách lan
và châu Âu.

Hai là về hình thức, Smith chứng tỏ có văn tài xuất sắc, dù
là đề tài khô khan nhưng ông đã diển đạt bằng một văn
phong cực kỳ trong sáng trong một bố cục mạch lạc nên thu
hút người đọc không có kiến thức kinh tế. Văn giới châu
Âu ca ngợi là sau <em>De l´esprit des lois</em> của Montesquieu chưa
có danh phẩm nào có khả năng diển đạt được tư tưởng
của nhân loại bằng tác phẩm này.

Ba là về lý thuyết, nguyên tắc phân công lao động, phân biệt
giữa các yếu tố sản xuất, các loại thu nhập và giao lưu
hàng hoá đã được Cantillon, Hutcheson, Hume, Quesnay, Stueart và
Turgot triển khai, nhưng Smith là người đầu tiên lý giải về
cơ chế vận hành thị trường của nền kinh tế tự do một
cách toàn diện qua một công trình nghiêm túc và quy mô. Các
chủ đề của Smith được Ricardo, Malthus, Mill và Marx về sau
đào sâu thêm thành các vấn đề mới như lợi điểm tương
đối, dân số, tự do tuyệt đối trong kinh tế và bóc lột
trong sản xuất công nghiệp.

Bốn là về thực tế, lập luận của Smith phù hợp với tâm
trạng chung của thời đại khi phê phán về sự can thiệp bất
hợp lý của chính quyền vì chỉ phục vụ các nhóm lợi ích
mà cuối cùng làm suy sụp đất nước. Ông chỉ trích thương
giới và các nhà sản xuất bảo vệ quyền lợi bằng cách ngăn
trở cạnh tranh trên thị trường, thay vì sử dụng tư bản
để đầu tư vì có nhiều hình thức mới đem lại nhiều hiệu
năng trong tăng trưởng.

<h3>Chính giới</h3>

Ành hưởng của Smith với chính giới Anh khó xác định, dù tác
phẩm này thoạt đầu đã gây tranh luận tại quốc hội. Những
năm đầu tiên của nội các William Pitt đã thực hiện một số
biện pháp đúng theo tinh thần của Smith đề ra: hạ thấp quan
thuế biểu của trà nhập để làm cho việc buôn lậu trà không
còn sinh lợi như trước (1784), liên hiệp kinh tế giửa Anh và
Ái nhĩ lan (1785) nhưng đề án này thất bại, thoả hiệp mậu
dịch với Pháp (1786), mà mục tiêu chính là hạ quan thuế biểu
các mặt rượu nho và hàng dệt. Nhưng nội tình Anh gây khó
khăn cho việc áp dụng chính sách tự do mậu dịch và xung đột
quyền lợi với Hoa kỳ và Pháp cũng là lý do. Mãi đến hai
thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX thì tự do mậu dịch
mới là trọng điểm trong chính sách kinh tế của Anh.

<h3>Học giới </h3>

Nền công nghiệp Anh đã hình thành và sản phẩm Anh chiếm lĩnh
nhiều thị trường các nước châu Âu. Từ năm 1815 Anh đứng
trước một nghịch lý là tăng quan thuế biểu ngũ cốc để
chống nhập khẩu từ châu Âu, trong khi lại đề cao tự do
ngoại thương. Giới điền chủ và công nghiệp tại các nước
châu Âu áp lực chính phủ phải tìm biện pháp trả đủa. Tranh
chấp trở nên gay gắt khi doanh giới tại Manchester lập liên
minh chống lại vấn đề vào năm 1839 và cuối cùng chính quyền
phải huỷ bỏ quan thuế biểu cho ngũ cốc vào năm 1846. Họ
thành công khi thuyết phục rằng nhập khẩu rẻ ngũ cốc sẽ
làm giảm giá thành thực phẩm và nâng cao mức sống toàn dân,
trong khi duy trì quan thuế biểu loại này chỉ có lợi cho giới
điền chủ. Ngược lại, giới điền chủ cho là chống việc
nhập ngũ cốc rẻ nhằm bảo vệ quyền lợi cả nước, trong
đó có cả thương giới và giới sản xuất, vì họ có cơ hội
tăng doanh thu.

Thực tế này cho thấy ai cũng áp dụng lập luận tự do mậu
dịch của Smith để bảo vệ quyền lợi, nhưng quan điểm của
Smith hợp lý hay mâu thuẩn? Đề tài này được học giới tranh
luận vào đầu thế kỷ XIX được gọi chung là „vấn đề
Smith".

Giới chống đối cho rằng lập luận của Smith là mâu thuẫn
vì một người lo tư lợi không thể nào là một con người
đạo đức và muốn dung hoà quyền lợi xã hội. Giới bào
chữa cho Smith cho rằng đây là một phương pháp luận có ý
thức và không mâu thuẩn. Trước một thực tại xã hội phức
tạp, Smith không dùng cách quy nạp mà dùng suy diển để lập
luận. Thay vì dùng một số lượng lớn và đủ loại các quan
sát để đề ra quy luật tổng quát, Smith đặt ra một số tình
huống độc lập để theo dỏi và tìm các lý giải về động
lực khích lệ cho hoạt động kinh tế.

Có nhiều lý giải khác dựa vào quá trình làm việc của Smith
để biện hộ. Khi còn ở Tô Cách Lan ông thấm nhuần truyền
thống đạo đức, nhưng khi sang Pháp khảo cứu ông bị ảnh
hưởng những trào lưu tư tuởng theo vật chất của Pháp. Có
người lại dựa vào mối quan hệ giửa hai tác phẩm của Smith
để tìm ra mối tương đồng giửa hai quan điểm và kết luận
rằng không có mâu thuấn mà là sự liên tục trong tiến trình
tư duy.

Sở dĩ có lập luận chống Smith chỉ vì có nhiều hiểu lầm
trong giải thích. Thiện cảm trong đạo đức và kinh tế của
Smith không hề đồng nghiã với bác ái. Không phải lúc nào
thiện cảm, kể cả thiện cảm của người dự khán trung dung,
cũng tác động tích cực đưa đến hành động kinh tế vì
nguyên tắc tương xứng trong của mối quan hệ trên thị
trường rất cần cho trao đổi, khía cạnh này cũng quan trọng
như tư lợi.

Đến cuối thế kỷ XIX các tranh luận trong học giới xoay quanh
„vấn đề Smith" không còn gây một âm vang nào đáng kể.

<h3>Thế kỷ XX</h3>

Lý thuyết của Smith có giá trị phổ quát tại các nước
phương Tây khi nền kinh tế thị trường được định hình và
phát triển. Sau đại suy thoái vào thập niên 1930 và các suy
trầm khác thì cơ chế này gây được niềm tin chung là một
phương sách hợp lý vì kinh tế vĩ mô ổn định, mức thất
nghiệp và lạm phát thấp. Thực ra, không có chủ nghiã tư bản
nào là được coi là thuần túy hay mẫu mực, mà tuỳ mỗi
quốc gia sẽ có những đặc thù và các hình thức tại Hoa Kỳ,
Đức, Pháp và Nhật Bản là thí dụ. Lý thuyết về tính đa
dạng của chủ nghiã tư bản đã soi sáng nhiều dị biệt này.
Quan điểm của Smith cũng được bổ sung qua nhiều học thuyết
khác nhau, đáng kề nhất là suy luận về một trật tự tình
cờ trong kinh tế của von Hayek gây ảnh hưởng mạnh tại Đức
và Áo, nhưng cải biên gây ồn ào nhất là của Neoliberalism và
dung hoà nhất là của Armartya Sen.

<h3>Von Hayek</h3>

Von Hayek đề cao vai trò bối cảnh xã hội trong việc tăng
trưởng kinh tế và kết luận là thị trường là một diễn
trình không thể lường trước. Thị trường không phải là
một địa điểm, một tình huống hay một thực thể tổng hợp
mà chính là do tác động của nhiều tác nhân trong sự phân
công lao động. Sự thành hình của thị trường là kết quả
tình cờ của những diển biến, nhưng luôn bị phân tán và
dựa vào những kiến thức trong phạm vi nhỏ hẹp địa phương.
Thị trường gồm có hai yếu tố là giá cả và trao đổi. Do
đó, thông tin thị trường vô cùng quan trọng và giá cả chỉ
là những tín hiệu khởi đầu. Thị trường luôn thay đổi và
cục bộ nên không thể nào là một trung tâm cho mọi sinh hoạt
kinh tế.

<h3>Neoliberalism</h3>

Chiều hướng cực đoan của Neoliberalism là tuyệt đối tự do
trong mọi hoạt động kinh tế sẽ mang hiệu năng và phúc lợi
khi người tiêu thụ có quyết định tối hậu. Thị trường
quyết đinh toàn bộ về giá cả, phương thức vận hành và
hiệu năng; phải giảm thiểu các can thiệp của chính quyền ở
mức tối đa.

Học thuyết này ảnh hưởng mạnh tại Hoa Kỳ, Nhật và châu
Âu trong chính sách công nghiệp và ngoại thương trong thập niên
1970 và 80. Dưới thời Reagean và Thatcher các biện pháp tư hữu
hoá các doanh nghiệp hàng không, điện nước và viễn thông đã
đem lại những thành tựu quan trọng. Các nước này gặp nhiều
trào lưu chống đối của các tầng lớp thiên về công bình xã
hội, nhất là khi phong trào tự do giao lưu tư bản tài chính và
đầu tư của các doanh nghiệp quốc tế tại các nước nghèo
lên cao điểm.

Dựa theo Neoliberalism mà Williamson đề ra một phương sách tăng
trưởng kinh tế cho các nước châu Mỹ La Tinh vào năm 1990, về
sau được goị chung là Washington Consensus. Theo chính sách này
thì cơ thế thị trường tự do sẽ đem lại thịnh vượng, mà
cụ thể là tự do mậu dịch, bảo vệ tác quyền trí tuệ, tự
do giao lưu tư bản tài chính, quốc tế hoá các hoạt động
thị trường tư bản tài chính, kiểm soát ngân sách, hổ trợ
canh tân kỷ thuật và chuyển giao công nghệ để gia tăng hiệu
năng cạnh tranh.

Chương trình <em>Milllenium Development Goals</em> của Liên Hiệp
Quốc, một viễn tượng tăng trưởng cho các nước nghèo trong
thiên niên kỷ mới áp dụng mô hình này mà mục tiêu là kết
hợp phương thức cơ chế kinh tế thị trường cùng với các
biện pháp về gia tăng giáo dục, cải thiện y tế, xây dụng
cơ chế hạ tầng và cải thiện hệ thống quản lý hành chánh
công quyền trong một mô hình toàn diện. Trách nhiệm xã hội
của các doanh nghiệp quốc tế và vai trò nối kết của các
mạng lưới của xã hội dân sự được nâng cao.

<h3>Armartya Sen</h3>

Dù tán đồng với Smith về hiệu năng của thị trường, nhưng
Sen luận giải về sự thịnh vượng một cách dung hoà và toàn
diện hơn qua tác phẩm <em>Development as Freedom</em>.

Kinh tế thị trường có hai chức năng giúp con người cải
thiện vật chất và phát huy tự do. Một là cơ chế cần thiết
đẽ cung ứng vật chất cho con người, nhưng thị trường phải
vừa cổ vũ cho tăng trưởng và vừa bảo vệ nhân quyền. Cách
tính gia tăng lợi tức theo đầu người chỉ là một khiá cạnh
trong phúc lợi xã hội và tăng trưởng kinh tế phải được
quan niệm toàn diện hơn. Hai là thị trường một môi trường
tự do cho phép mọi người cùng tham gia để phát triển khả
năng cá nhân và chấp nhận mọi sư dị biệt.

Thịnh vượng cần có nhiều yếu tố khác cùng tác động: tăng
trưởng kinh tế là mức huy động xã hội mà dân chúng cần có
trình độ chuyên môn để tích cực tham gia và là sự kết hợp
giửa một thể chế chính trị ổn cố, nhà nước pháp quyền
trong nền văn hoá giáo dục nhân bản, mà gia tăng phúc lợi kinh
tế là một thăng tiến khởi đầu. Theo ông, vai trò tự do báo
chí và tinh thần phản biện công khai chính là điều kiện
thực hành dân chủ tại các nước chậm tiến. Quan điểm của
Sen được chấp nhận rộng rải dù là một lý tưởng khi so
với thực tế lịch sử.

<h3>Lịch sử cáo chung?</h3>

Từ cuối thập niên 1980 chế độ chính trị tại Liên Xô và
các nước Đông Âu sụp đổ mang đến một mơ ước chung là
tự do dân chủ sẽ là một mô hình cho toàn thế giới, lịch
sử cáo chung và nhường bước cho mô hình chủ nghiã tư bản
mà tăng trưởng kinh tế là một khả năng hiện thực và thế
giới đang tiến dần về một nền văn minh đại đồng và hòa
bình vĩnh cửu.

Bối cảnh toàn cầu hóa đầy lạc quan và năng động, những
thành tựu ngoạn mục của các ngành khoa học hiện đại, đặc
biệt là công nghệ thông tin, đem các dân tộc gần nhau hơn bao
giờ hết. Cách biệt địa lý không còn nữa nên cũng là động
cơ thúc đẩy cho các công ty đa quốc đầu tư ào ạt trên bình
diện toàn cầu và làm gia tăng cơ hội mậu dịch và xuất
khẩu cho các nước chậm tiến. Đây là một điều kiện tiên
quyết cho các nước nghèo hội nhập vào sinh hoạt chung của
thế giới. Các hình thức viện trợ quốc tế gia tăng cũng
tạo thêm phương tiện hữu hiệu làm cho tiến trình thay đổi
này được nhanh hơn. Nhưng lịch sử vẫn tiếp tục với những
thực tế khác hơn hy vọng.

<h3>Thực tế phũ phàng </h3>

Các biến động chính trị quốc tế từ cuối thế kỷ XX trở
đi đã không biến những ước mơ thành hiện thực: Xung đột
địa phương và bạo lực giữa các sắc tộc lan rộng, khủng
bố nhân danh tôn giáo đe dọa an ninh toàn cầu đến mức độ
đáng ngại mà 9/11 là khởi điểm. Kinh tế tại các quốc gia
công nghiệp suy thoái nghiêm trọng, mô hình kinh tế thị
trường không đem lại giải pháp trong khi tình hình chung ngày
càng nguy kịch. Nợ công của các nước giàu là một thảm họa
chung cho tương lai mà sự bất lực của chính quyền trong việc
quản lý công sản là lý do. Triển vọng hội nhập vào kinh tế
thế giới của các nước nghèo cũng trở nên mơ hồ vì cơ
hội giao thương và đầu tư ngoại quốc lại sụt giảm. Tác
hại hơn khi các chế độ độc tài làm cho tham nhũng, bất công
và nghèo đói gia tăng, giá trị dân chủ không được phát huy,
nhân quyền bị vi phạm có hệ thống, mọi tự do dân chủ cơ
bản đều bị bóp nghẹt. Điểm bi quan nhất là thế giới
hiện nay có chung vấn đề mới là biến đổi khí hậu, tài
nguyện cạn kiệt, dân số gia tăng và giáo dục xuống cấp.

Những thay đổi triệt để mọi giá trị này làm cho các lý
thuyết về thịnh vượng cần luận giải theo một chiều
hướng khác hơn Smith đề ra: tại sao tăng trưởng kinh tế mà
thất nghiệp lại gia tăng và công nhân có việc làm mà cần
thêm trợ cấp mới sống được, tại sao thị trường tư bản
tài chính hoạt động độc lập trong khi chính quyền không thể
kiểm soát các vi phạm và ngăn chận lòng tham vô đạo đức
của giới đầu cơ và tại sao quyền lực bàn tay vô hình lại
bất lực trước các mánh khoé để thủ lợi của giới tư
bản.

Tương lai kinh tế bất trắc làm công luận mất tin tưởng về
cơ chế tự vận hành của nền kinh tế thị trường, khả năng
cảnh báo của học giới và khả năng kiểm soát của chính
quyền. Nhưng niềm tin này thực sự hoàn toàn tan biến khi suy
thoái bùng nổ vào năm 2008.

<h3>New Capitalism?</h3>

Suy thoái sinh ra các vần đề mới cần thảo luận: Bản chất
đích thực của chủ nghiã tư bản là gì và phục vụ cho ai?
Khái niệm của Smith có còn giá trị phổ quát không? Kinh tế
phương Tây cần có một mô hình mới không? Đây là trọng
điểm của cuộc hội luận xoay quanh đề tài „New World, New
Capitalism" do Blair, Merkel và Sarkozy đầu tiên đề xuất và
hàng loạt các thảo luận khác về sau. Khi đề cập về khái
niệm của Smith trong các cuộc thảo luận này thì điều ngạc
nhiên nhất là vẫn còn nhiều ngộ nhận.

Thực ra, Smith không là người khai sinh ra chủ nghiã tư bản, vì
trong suốt 1000 trang sách của <em>The Wealth of Nations</em> ông
không hề đề cập từ capitalism và có lập luận bảo vệ cho
chủ thuyết này. Ông cổ súy cho sự vận hành của nền kinh
tế thị trường nhưng tư bản tài chính không là yếu tố then
chốt, mà chỉ là một đơn vị trong các yếu tố sản xuất.
Thịnh vượng của đất nước không hoàn toàn dựa trên tư
lợi, mà sự ổn cố thể chế và dị biệt về động lực sẽ
khích lệ cho tăng trưởng.

Smith không hề coi thị trường là một cơ chế hoàn toàn độc
lập, có khả năng đem lại phúc lợi tối ưu cho đất nước
mà không cần đến chính quyền hay đạo đức cá nhân và xã
hội. Bảo vệ thành quả của thị trường không thể giới
hạn trong hai phạm vi tôn trọng việc theo đuổi tư lợi và
quyền tư hữu. Cơ chế thị trường phải được nhận định
bao quát hơn là tự do trao đổi. Điển hình nhất là hệ thống
trợ cấp thất nghiệp, an sinh xã hội và y tế giáo dục tại
các nước công nghiệp phát triển là những thành quả do luật
lệ và thể chế của nền kinh tế thị trường mang lại, mà
không do tư lợi đơn phương quyết định. Nghèo đói và bất
công xã hội vẫn là những thách thức còn lại của nền kinh
tế thị trường dù đã tăng trưởng cao độ.

Trong <em>The Theory of Moral Sentiments</em> ông đề cao vai trò của
những giá trị tinh thần như khôn ngoan và cẩn trọng, đây là
đức tính thuộc đạo đức cá nhân cần thiết để phát huy
xã hội công bình. Tăng trưởng kinh tế cần có niềm tin về
giá trị xã hội và kết ước cá nhân. Người dân tin vào sự
thành tín và cẩn trọng của ngân hàng, nơi để gởi tiền
tiết kiệm và lấy tiền ra khi cần thiết, nhưng quan trọng
nhất là niềm tin chung về toàn bộ hoạt động ngân hàng.
Niềm tin này không còn khi ngân hàng tham gia vào dịch vụ đầu
tư vô cùng bất trắc mà chính ngân hàng không lường được
nguy hiểm và chính quyền không có khả năng kiểm soát.

Hiện nay, luật kiểm soát ngân hàng thì quá ít hoặc áp dụng
lỏng lẻo, nên dân chúng đòi hỏi chính quyền phải kiểm soát
mạnh hơn và chiều hướng giải quyết khủng hoảng chỉ giới
hạn trong phạm vi kiểm soát các giao lưu tư bản trên thị
trường tài chính và hợp tác trên bình diện quốc tế. Do đó,
thay vì tìm ra một khái niệm mới cho chủ nghiã tư bản trong
thế kỷ XXI, các nước phương Tây cần luận giải và áp dụng
lý thuyết của Smith cho phù hợp trong bối cảnh hiện nay.

<h2>Thực tế tại Việt Nam </h2>

Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghiã
là mô hình ngoài khuôn khổ suy luận của Smith và là một đặc
thù có những thành tựu ban đầu.

Sự nghiệp Đổi Mới không có thời kỳ khai sáng khởi đầu,
mà chỉ do quyết định xé rào và đổi mới, một chiến thuật
để sống còn hơn là một chiến lược phát triển trường
kỳ. Dù mức huy động tiết kiệm quốc nội thấp, nhưng Việt
Nam đã thu hút được tư bản khả dụng của các định chế
quốc tế, doanh nghiệp ngoại quốc và Việt kiều để đầu
tư. Dung lượng kiều hối của năm 2012 là 10 tỷ, một thí dụ
đầy ấn tượng. Muốn có số doanh thu này Việt Nam cần đến
một dung lượng đầu tư khoảng 150 tỷ, một doanh số ảo
tưởng trong bối cảnh suy thoái hiện nay, nhưng 10 tỷ này là
một thực tại hạnh phúc, một hình thức viện trợ mà Việt
Nam không có nghiã vụ hoàn trả và bằng gấp ba lần dung
lượng xuất khẩu nông sản. Giáo dục lạc hướng nên không
có canh tân kỷ thuật và phong trào công nghiệp hoá, nhưng Việt
Nam phát uy ưu thế ngoại thương với sản phẩm gia công và
xuất khẩu nông lâm và thủy hải sản.

Dù vận hành theo nền kinh tế thị trường, nhưng định hướng
của chính sách nông nghiệp, công nghiệp, doanh nghiệp, nợ công
và nhân dụng đem lại một thực tế khác hơn Smith mong đợi.

<h3>Nông nghiệp</h3>

Sản lượng xuất khẩu 7,3 triệu tấn gạo của năm 2012 đem
lại doanh thu 3,3 tỷ, một kỷ lục của chính sách nông nghiệp,
nhưng không làm cho nông dân hãnh diện và có đời sống sung
túc hơn. Dù năng xuất tăng do kỷ thuật mới, vì vật giá cao
lại chỉ bán cho thương lái và nhận được 22,3% thu nhập trong
chuổi giá trị, lợi nhuận tương đương 316.215 đồng/
người/tháng, trong khi ngưỡng nghèo hiện nay là 400.000 đồng,
nên nông dân không thể mua sản phẩm công nghiệp nhiều hơn và
tạo thành một thị trường công nông cộng sinh và cộng
hưởng như Smith tiên đoán. Nông dân dù là thành phần làm ra
nông phẩm nhưng lại không hưởng thành quả tương xứng, một
bất công trong phân phối phúc lợi xã hội.

Theo Smith, đầu tư vào kinh tế nông nghiệp sinh lợi nhiều
nhất và mối quan hệ trao đổi giửa thành thị và nông thôn
bổ sung nhau để lập thành một thị trường chung. Điều này
vẫn đúng cho Việt Nam. Do định hướng là đất đai thuộc
quyền sở hữu toàn dân mà do nhà nước đại diện chủ sỏ
hữu, một khái niệm ngược với tinh thần tôn trọng quyền tư
hữu. Những biện pháp công nghiệp hoá, thành thị hoá và an
ninh quốc phòng không nhằm bảo vệ tư lợi của nông dân. Các
biện pháp chống lạm phát và an ninh lương thực làm nông dân
không bán được nông phẩm theo đúng giá cạnh tranh và các
biện pháp thu mua chỉ phục vụ cho quyền lợi công ty bảo vệ
thực vật, phân bón và xuất khẩu lương thực.

Đời sống nông dân sẽ còn cơ cực nhiều hơn nữa, vì hiện
nay không có những cải cách thiết thực và Hiệp Hội Nông
Dân lại không thể phản ảnh trung thực nguyện vọng vì là
một cơ sở ngoại vi của chế độ. Bi quan nhất là giới trẻ
nông thôn không có tương lai vì không theo đuổi học vấn, một
phần do chi phí quá mắc và phần khác do thiếu bối cảnh khích
lệ. Việc này tác hại sự phát triển thị trường nhân dụng
đang đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn.

<h3>Công nghiệp</h3>

Công nghiệp chiếm 40% trong nền kinh tế và công nghiệp gia công
chế biến phát triển cao độ nhằm phục vụ cho doanh nghiệp
xuất khẩu. Dung lượng xuất khẩu tăng 18,3% trong năm 2012 đạt
114,3 tỷ là một thành tích cho chính sách công nghiệp, nhưng
đời sống công nhân chưa cải thiện so với thành tích này mà
giá lương nhân công rẻ là lý do. Mãi lực thấp nên công nhân
không thể tác động cho thị trường thương phẩm nội địa
tăng trưởng. Hiện nay, hiệu ứng suy thoái tại các nước
phương Tây làm việc mở rộng ngoại thương khó khăn, cạnh
tranh khu vực lại ráo riết và chuẩn mực sản phẩm trở thành
vấn đề ưu tiên. Đấu tư quốc tế đang sút giảm hơn 15% và
trong chiều hướng này công nghiệp không thể tăng trưởng.

Smith cho là đầu tư công nghiệp nhằm phát triển thị trường
nội địa để đời sống công nhân khá hơn. Giải pháp thực
tế nhất cho Việt Nam là tôn trọng quyền lợi công nhân, tăng
lương tối thiểu và cải thiện các biện pháp an sinh xã hội.
Nhưng như Smith đã thấy, ưu thế xã hội của nhà sản xuất
trong mối quan hệ lao động bao giờ cũng làm công nhận bị thua
thiệt và bất công sẽ kéo dài khi mà luật lao động không là
một giải pháp thích hợp.

Còn một chuyển hướng nào khác khả dĩ tối ưu cho công nhân
không? Gia tăng năng lực cạnh tranh là quan tâm của Smith và
cũng là giải pháp thứ nhất được đề nghị. Thay vì tiếp
tục gia công, công nhân cần cung ứng những sản phẩm có giá
trị cao, nhưng giải pháp này không thực hiện được khi giáo
dục đang xuống cấp và thành tựu cải cách giáo dục được
tính bằng thế hệ.

Giải pháp thứ hai hy vọng rằng công nghiệp thông tin là một
tiềm năng có thể phát huy. Dù giới trẻ Việt Nam cực kỳ
thông minh trong lĩnh vực này, nhưng như Smith cho biết, năng
khiếu không quan trọng bằng khởi động chính sách thích hợp.
Ấn Độ vẫn còn dẫn đầu lĩnh vực này trong các nước đang
phát triển mà ưu thế của Ấn Độ trong quá khứ là các doanh
giới quốc tế đánh giá đúng tiềm năng và đầu tư tối đa
vào việc huấn nghệ cộng thêm với chính sách hổ trợ đặc
biệt của chính quyền. Hiện nay hai điều kiện này không có
tại Việt Nam, nên triển vọng là mơ hồ. Dù đóng góp to lớn
cho thành tựu kinh tế, nhưng công nhân cũng cùng chung số phận
như nông dân và cũng không có một viễn tượng tốt đẹp hơn.

<h3>Doanh nghiệp</h3>

Bàn tay vô hình theo Smith chỉ hoạt động hữu hiệu trên doanh
trường khi chính trường tạo ra một sân chơi tự do để phát
huy năng lực cạnh tranh cho doanh giới. Chủ trương định
hướng tin rằng kinh tế nhà nước phải đóng vai trò chủ
đạo vì có khả năng điều tiết và ổn định kinh tế vĩ mô
cũng như ngân hàng thương mại nhà nước có đủ năng lực
cạnh tranh, một niềm tin son sắt qua thời gian. Quản lý sai
lầm của Vina, Vinashin, Vinalines và ACB gây thua lổ trầm trọng
là thí dụ tương phản và tạo nhiều phản ứng trong công
luận nhưng không tạo chuyển biến về cải cách.

Đâu là giải pháp? Giống như lập luận của Smith về vai trò
chính quyền, nhưng Keynes thuyết phục khác hơn: chính quyền can
thiệp vào thời khủng hoảng nhằm tìm cách đưa nền kinh tế
thoát ra khỏi khủng hoảng, mà cụ thể là tăng thêm sức cầu
và đưa lao động đến tình trạng toàn dụng. Nhưng thực tế
nhất là Frank Borman, lãnh đạo của tập đoàn Eastern Arilines,
ông cho rằng kinh tế thị trường mà không có phá sản doanh
nghiệp thì cũng giống như đạo Thiên Chúa mà không có địa
ngục, một quy luật tất yếu nhưng lại không xảy ra cho các
anh cả đỏ của chế độ.

Hậu quả của định hướng là cho phép doanh nghiệp nhà nước
phá sản nhưng không giải thể, một nghịch lý trong luật cạnh
tranh, mà tiếp tục hoạt đông thì chỉ duy trì khủng hoảng và
kiềm hãm tăng trưởng. Sân chơi tự do theo Smith phải bị ràng
buộc bởi ý kiến của khán giả và quyết định tối hậu
của trọng tài, nhưng định hướng cho phép cầu thủ vừa đá
bóng vừa thổi còi trên sân; quyền lực của bàn tay vô hình
lại bị tư bản thân tộc và các nhóm lợi ích khống chế
toàn bộ; cá nhân vi phạm luật kinh tế mà không ai dám nêu tên
để quy trách và thuộc về Đảng quyền, một bí mật nằm
ngoài và trên sự tài phán của nhà nước pháp quyền, đặc
thù này là do duy ý chí chính trị. Chiến thuật này không đem
lại niềm tin về một chiến lược tăng trưởng cho tương lai.

<h3>Nợ công</h3>

Quản lý công sản sai lầm nhưng lại không giải quyết và dồn
hệ lụy cho tương lai là lý giải của Smith về nợ công và
điều này đúng cho Việt Nam, dù nguyên tắc bút toán tài chính
công làm cho vấn đề ít trầm trọng hơn.

Luật ngân sách định nghiã nợ công gồm có nợ của chính
phủ và nợ bảo lãnh, khối lượng nợ này được ước tính
là 66,8 tỷ và chiếm 55% tổng sản lượng. Số nợ của doanh
nghiệp và ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay là 62,1 tỷ
chiếm 51% tổng sản lượng, nhưng theo luật không được ghi là
nợ công nên áp lực trả nợ giảm, dù trái với nguyên tắc
của tài chính quốc tế.

Giải pháp tăng thuế theo Smith không thể là phù hợp cho hoàn
cảnh. Dân nghèo lại gánh chiụ món nợ khổng lồ do sai lầm
của doanh nghiệp nhà nước không thể là tinh thần tương trợ
để thuyết phục, vì chính Smith cho là đóng thuế phải hợp
lý và hợp với sức chịu đựng. Nếu in tiền để trả nợ
thì lạm phát gia tăng, cuối cùng người dân cũng chiụ hệ
lụy tương tự.

Dù hiện trạng nợ công áp lực chưa đủ mạnh, không ai có
thể tiên đoán được chừng nào Việt Nam mới tuân thủ nguyên
tắc quốc tế, biển nợ công có hiệu ứng lan toả như sóng
thần, tìm cách nào để giảm nợ và trả nợ, nhưng triển
vọng ngân sách chắc chắn là càng bị đè nặng hơn. Dù kịch
bản nào xảy ra, thì thế hệ tương lai sẽ không thừa hưởng
một di sản thuận lợi, môt vấn đề bất công giửa các thế
hệ mà ít người quan tâm.

<h3>Nhân dụng</h3>

Phát huy hiệu năng nhân dụng của Smith và thâm dụng lao động
giản đơn của Hume đề xuất là một giải pháp thiết thực;
với một dân số trẻ trung và năng động Việt Nam có thể khai
thác tiềm năng này để cung ứng nhân lực cho thị trường
nội địa. Thực tế cho thấy bi quan hơn vì không có giải
pháp.

Đâu là lý do? Đề xuất một kế hoạch cho thị trường lao
động cả nước là điều bất khả vì không ai nắm bắt
được các chuyển biến phức tạp tại các thị trường điạ
phương. Phối hợp các tiềm năng thành một định hướng khả
thi đòi hỏi viễn kiến và quyết tâm chính trị, trong khi trung
ương và điạ phương không nắm bắt được sự thao túng của
ngưòi lạ và vấn đề chủ quyền thị trường, vì nhiều lý
do khác lại không thể đặt ra để kiểm soát. Nghịch lý còn
tiếp tục và sẽ đem lại bất ổn xã hội.

Triển vọng mở ra khi xuất khẩu lao động là một cơ hội làm
tăng dung lượng kiều hối, một ưu thế không thể tranh cải,
nhưng có phải một chính sách nhân dụng tối ưu không khi bỏ
ngỏ thị trường nội điạ, đó là một đề tài cần nghiên
cứu cẩn trọng, mà Smith cũng không có lý giải cho đặc thù
này. Những tác hại của người lạ trên thị trường thương
phẩm nội địa hiện nay có thể đem lại bài học cho việc
định hướng này.

<h2>Kết luận</h2>

Dù các giải pháp phân công lao động, canh tân kỷ thuật và
tự do cạnh tranh vẫn có tính cẩm nang và thời sự cho sự
vận hành nền kinh tế thị trường Việt Nam, nhưng The Wealth of
Nations không soi sáng cho thành tựu Đổi Mới hay lý giải hiện
trạng suy thoái và đem lại giải pháp cho mai sau.

Mục đích của Smith là chỉ bàn về các điều kiện chung của
thịnh vượng trong bối cảnh kinh tế châu Âu trước đây, do
đó ông không có phương cách cụ thể để giải quyết các khó
khăn nội tại của Việt Nam là luật pháp vô hiệu, giáo dục
xuống cấp, tham nhũng hoành hành, môi sinh cạn kiệt và vô cảm
lan rộng. Ngoài ra, Smith cũng không có tầm nhìn về các áp lực
ngoại tại của các định chế quốc tế và doanh giới đầu
tư, hiệu ứng suy trầm của các nước phương Tây, an ninh lãnh
thổ và cạnh tranh khu vực. Chính sách định hướng không là
suy luận của Smith, nhưng là lý do không đem lại tăng trưởng
cao hơn và không thể phòng chống những tác động làm suy
thoái, một hiện thực mà Milton Friedman đã thấy trong hoàn
cảnh các nước phương Tây trước đây, nhưng lại đúng cho
Việt Nam hôm nay: "<em>Currently, opinion is free market, while practice
is heavily socialist</em>" (Hiện nay theo lý thuyết là thị
trường tự do mà thực hành lại quá nặng về xã hội chủ
nghiã).

Với mức tăng trưởng khiêm nhường là 5,03%, kềm chế được
lạm pháp và thặng dư trong cán cân mậu dịch trên 284 triệu
trong 2012, nhưng 2013 Việt Nam sẽ đối đầu với mức tăng
trưởng giảm, lượng đầu tư kém, phá sản doanh nghiệp tăng,
nợ xấu nhiều và đạo quân thất nghiệp đông. Trước hiện
trạng này thì tương lai đất nước cần một giải pháp thuần
Việt, một cải cách triệt để về tái cấu trúc kinh tế cho
phù hợp với đòi hỏi của tình hình và cũng là một quyết
tâm thay đổi ý chí chính trị được toàn dân ủng hộ.

Con đường dẫn tới thịnh vượng còn nhiều chông gai và xa
vời, nhưng đất nước và con người Việt Nam không thể chỉ
suy đoán qua khía cạnh kinh tế thuần lý, vì còn có những yếu
tố khác toàn diện hơn như Smith và Sen đề cập hay tình cờ
hơn như Hayek lý giải. Kinh tế Việt Nam là một thực tế sinh
động, phức tạp, đầy nghịch lý và nhiều phép lạ; người
Việt can đảm, tự tin và lạc quan trong mọi hoàn cảnh khó
khăn. Hy vọng là lý thuyết của Smith còn nhiều sai lầm và
Việt Nam sẽ đem lại một bài học mới cho các nhà lập
thuyết về tăng trưởng. Thực ra không ai có đủ viễn kiến
để tiên đoán chính xác viễn tượng kinh tế vì thông tin trái
chiều, thống kê sai lạc, khả năng suy luận bị chuyên môn hóa
và kể cả niềm tin chính trị, đây là chuyện quen thuộc trong
nghiên cứu lý thuyết.

Về giá trị của lý thuyết như Robert Cox nhận xét: „<em>Theory
is always for someone and for some purpose</em>", (lý thuyết luôn luôn
chỉ dành cho một số người và cho một vài mục tiêu) tiểu
luận về Smith không thể thoát khỏi giới hạn này và hy vọng
là một đóng góp khiêm tốn trong cuộc thảo luận chung và cần
ý kiến bổ sung.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/node/15946), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét