Ngô Giang - Khảo sát chủ nghĩa xã hội kiểu Thụy Điển

<blockquote>Tuy em chỉ là 1 học sinh cấp 3, không hiểu biết
nhiều về chính trị nhưng em thấy bài viết này rất hay, sau
khi đọc bài này, nếu được lựa chọn 1 trong 2 con đường
tiến lên CNCS, em sẽ chọn con đường "chủ nghĩa xã hội dân
chủ" ^^</blockquote>

Vương quốc Thuỵ-điển nằm ở đông nam bán đảo Scandinavi
thuộc Bắc Âu. Vào năm 1889, khi thành lập Đảng Xã hội Dân
chủ Thuỵ-điển [1], vương quốc này còn là một trong những
nước lạc hậu nhất châu Âu, người ta gọi là nước của
cướp biển, phần lớn dân vốn là cướp biển và tội phạm
bị các nước Tây Âu đày đến đây cùng các hậu duệ của
họ. Kinh tế Thụy-điển ngày ấy còn lạc hậu rất nhiều so
với nước Nga hồi Cách mạng Tháng Mười năm 1917. Từ năm
1920, khi Đảng Xã hội Dân chủ (XHDC) Thuỵ-điển bắt đầu
nắm chính quyền cho tới nay, tuy có một số thời kỳ gián
đoạn, nhưng Đảng này vẫn nắm quyền lãnh đạo đất nước
lâu hơn cả. Trong thời gian đó (từ thập kỷ 20 đến thập
kỷ 80, là thời gian được tác giả khảo sát), Đảng XHDC đã
xây dựng Thuỵ-điển từ một nước lạc hậu trở thành một
nước kinh tế phát triển 2], đứng thứ hai trên thế giới về
GDP đầu người (thứ nhất là Thuỵ-sĩ); và thứ nhất thế
giới về phúc lợi xã hội, chứng tỏ sự xã hội hoá phân
phối đã đạt trình độ rất cao.

Trên đây là tóm tắt nội dung chính của bài "<em>Một số
điểm chính trong bản Báo cáo khảo sát đến muộn</em>" (sau
đây viết tắt là Báo cáo Khảo sát). Tác giả báo cáo này là
đồng chí Dương Khải Tiên, năm 1985 và 1988 từng hai lần đến
Thụy-điển tiến hành khảo sát. Thu hoạch tổng quát của tác
giả là: "<em>Đối với chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu
Thụy-điển, nhiều năm qua, chúng ta chẳng những luôn luôn cho
là đối lập với quan điểm chính thống, giữ thái độ phê
phán nghiêm khắc, mà thậm chí cho tới ngày nay, trong suy nghĩ
của mọi người nói chung vẫn khẳng định thì ít mà phủ
định thì nhiều. Thực ra, như vậy là không công bằng. Nếu
phân tích một cách thực sự cầu thị, ta sẽ không khó phát
hiện thấy: ngoài những vấn đề chính trị còn tranh cãi, tạm
thời chưa thể đưa ra một kết luận đa số chúng ta có thể
tiếp thu ra, thì thành tích của Thụy-điển về kinh tế là
rất lớn, xét về những gì mà CNXH của Mác yêu cầu phải có,
dù là về mặt thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời
sống của nhân dân, hoặc là về mặt thực hiện công bằng xã
hội, phân phối công bằng, bảo đảm quyền lợi nên có của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.</em>"

Bài Báo cáo Khảo sát này được đăng tải trên một tạp chí
có số lượng phát hành nhỏ, và đầu đề ghi rõ là "đến
muộn" (khảo sát vào thập kỷ 80 thế kỷ XX mà đến tháng
3.2002 mới được sửa chữa cho đăng). Điều đó nói lên, cho
tới nay, vấn đề tiến lên mô hình CNXH kiểu Thụy-điển vẫn
là một đề tài nhạy cảm. Theo tôi, Báo cáo Khảo sát đã
đăng báo rồi, hơn nữa ngày nay xem ra vấn đề này thực sự
không cần phải né tránh; thế thì ta hoàn toàn có thể thảo
luận và bình phẩm bài báo đó một cách công bằng ngay thẳng,
thực sự cầu thị, nhất là về mặt lý luận.

<h2>BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ PHÁC THẢO LÝ LUẬN VỀ HAI MÔ HÌNH
TIẾN LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI</h2>

Về lý luận, trước hết hãy nên bắt đầu nói về tình hình
từ cách mạng Pháp 1848 - 1850 cho tới sau Công xã Pa-ri. Như
vậy, chúng ta sẽ phải ra ngoài đề một chút, sau đó mới
trở lại vấn đề mô hình CNXH Thụy-điển.

Trong một thời gian rất dài sau Cách mạng Tháng Mười Nga, các
nhà lý luận Liên Xô bao giờ cũng đề cao quá mức Công xã
Paris, coi nó là hình mẫu cách mạng XHCN của giai cấp vô sản.
Thực ra không phải là như vậy. Trong một thời gian sau năm
1848, đúng là Mác và Ang-ghen từng cho rằng đã xuất hiện tình
thế cách mạng trong các nước phương Tây chủ yếu, do đó hai
vị đã tích cực hoạt động vì sự nghiệp cách mạng này.
Nhưng qua thất bại của cách mạng Pháp 1848-1850 và sau thực
tế là các nước tư bản mấy lần bình yên vượt qua khủng
hoảng kinh tế, sức sản xuất vẫn được phát triển khá, Mác
và Ang-ghen bắt đầu cảm thấy sự việc không như những gì
hai vị đã dự kiến ban đầu, thời cơ cách mạng vẫn còn
chưa chín muồi. Năm 1850, khi tổng kết kinh nghiệm cách mạng
Pháp, Mác đã chỉ rõ : "<em>Khi sức sản xuất xã hội của
giai cấp tư sản đang phát triển mạnh với tốc độ có thể
đạt được trong toàn bộ phạm vi quan hệ của giai cấp tư
sản, thì chưa thể nói gì đến một cuộc cách mạng thực
sự.</em>" Trong cuộc chiến tranh Phổ-Pháp năm 1871, giai cấp
công nhân Paris nhân cơ hội đánh trả bọn xâm lược và chống
hành vi đầu hàng của giai cấp tư sản, đã vùng lên khởi
nghĩa và áp dụng các biện pháp có tính chất XHCN (hai phái
lãnh đạo chính cuộc khởi nghĩa này là phái Lat-xan và phái
Pơ-ru-đông [3]). Khi đó Mác không tán thành cuộc khởi nghĩa
này, cho rằng thời cơ chưa chín muồi. Nhưng sau khi công nhân
Paris phát động khởi nghĩa rồi thì Mác không giội gáo nước
lạnh lên họ, mà nhiệt tình ủng hộ và ca ngợi tinh thần
dũng cảm của thợ thuyền Pháp, cho rằng Công xã Paris của giai
cấp công nhân Pháp là người tiên phong vẻ vang của xã hội
mới, sẽ mãi mãi được kính trọng. Đồng thời, Mác còn
tổng kết sâu sắc các bài học kinh nghiệm của cuộc cách
mạng công nhân đầu tiên này, đề ra không ít ý kiến chỉ
đạo có ý nghĩa quan trọng. Cần vạch rõ là, khi tổng kết
kinh nghiệm Công xã Paris, Mác từng nói một câu thế này:
"<em>Không phải là giai cấp công nhân muốn thực hiện một
lý tưởng gì, mà chỉ muốn giải phóng những nhân tố xã hội
mới được ươm trồng trong chính cái xã hội của giai cấp tư
sản đang sụp đổ.</em>" Cũng tức là nói, thời cơ cách
mạng của giai cấp công nhân đã chín muồi chưa, hoặc có thể
thực hiện được xã hội XHCN hay không, vấn đề này hoàn
toàn quyết định bởi các nhân tố xã hội mới được uơm
trồng trong xã hội tư sản (chủ yếu là sự phát triển cao
của sức sản xuất, dân chủ hoá nền chính trị xã hội và
toàn bộ nền văn minh đạt tới trình độ cần thiết).

Sau Công xã Paris, Mác tập trung sức lực chủ yếu vào việc
hoàn thành bộ "Tư bản" và tiếp tục nghiên cứu lịch sử
phát triển xã hội loài người. Phần lớn nhiệm vụ chỉ
đạo thực tế phong trào cách mạng là do Ang-ghen đảm nhiệm.
Năm 1883, Mác từ trần. Trách nhiệm của Ang-ghen càng nặng hơn.
Không nghi ngờ gì nữa, "Chủ nghĩa Mác" mà cho tới nay ta
vẫn nói, là do Mác và Ang-ghen cùng sáng lập nên. Sau Cách mạng
Tháng Muời và sau khi Lê Nin qua đời, chúng ta lại tiếp thu từ
Liên Xô cách nói "Chủ nghĩa Mác Lê nin". Cách nói này thực tế
làm mờ nhạt vai trò của Ang-ghen (tuy không phủ định Ang-ghen).
Tôi cho rằng, nếu Lê nin còn sống, Người cũng không thể
tiếp thu cách nói ấy. Tác giả Báo cáo Khảo sát cho chúng ta
biết, tác giả đã nghe thấy cách nói "Chủ nghĩa Mác Ang-ghen"
từ chính miệng những người của đảng XHDC Thụy-điển. Tôi
cho rằng cách nói đó là phù hợp với sự thật lịch sử.
Không bao giờ được tách rời Mác và Ang-ghen kia mà ! "Chủ
nghĩa Lê nin" là một chuyện khác, vấn đề này ta sẽ bàn sau.
Điều cần nói ở đây là, sau khi Mác qua đời, Ang-ghen đã
quán triệt chủ trương cách mạng của hai người vào phong trào
công nhân quốc tế như thế nào. Đây là trang sử rực rỡ
nhất trong cuộc đời Ang-ghen. Trong những năm cuối đời,
Ang-ghen luôn gắn liền mình với số phận của phong trào xã
hội dân chủ quốc tế.

Như bạn tôi là ông Từ Lâm viết trong cuốn sách ông chủ biên
Ang-ghen và thời đại hiện nay, sau khi Công xã Paris 1871 thất
bại, phong trào công nhân quốc tế từng có thời gian rơi vào
thoái trào, tới cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 phong trào
này mới bắt đầu hoạt động hăng hái, chủ nghĩa Mác được
truyền bá rộng rãi. Trên cơ sở đó, nhiều nước Âu Mỹ như
Đan-mạch, Bỉ, Tây-ban-nha, Hà-lan, Italy, Na-uy, Áo, Thuỵ-điển,
Hung-ga- ri, Đức, Pháp, Anh, Mỹ v.v... lần lượt thành lập các
chính đảng công nhân. Lúc đó, các đảng này phần lớn lấy
tên là đảng Xã hội dân chủ, đảng Xã hội hoặc đảng Công
nhân (Công đảng), mà không lấy tên là đảng Cộng sản.
Điều này có liên quan với quan điểm của Ang-ghen. Trong một
bức thư gửi cho bạn vào tháng 2.1894, Ang-ghen viết: "<em>Tôi
cho rằng từ Chủ nghĩa Cộng sản hiện nay không thích hợp sử
dụng phổ biến. Tốt nhất là lưu nó lại cho tới khi nào cần
phải có sự biểu đạt một cách chính xác hơn hãy dùng. Cho
dù tới lúc đó cũng cần phải chú thích thêm, vì trên thực
tế, đã 30 năm nay không dùng từ này.</em>" Vấn đề trên có
một chút lai lịch, nay nhắc lại là không thừa. Tháng 7.1898,
dưới sự đề xướng của Ang-ghen, đảng XHDC Đức và đảng
Công nhân Pháp dẫn đầu triệu tập các đảng công nhân của
22 nước tham gia đại hội đại biểu những người XHCN quốc
tế. Đó chính là tổ chức về sau được người ta gọi là
"Quốc tế thứ II". Thật ra tổ chức này rất lỏng lẻo, không
lập ra bất cứ cơ quan lãnh đạo nào (trước đó, Hiệp hội
Công nhân quốc tế về sau được gọi là "Quốc tế thứ I" có
lập một Uỷ ban chung), ngay cả quy chế họp định kỳ cũng
không có. Các đảng dự đại hội xác nhận lấy học thuyết
Mác Ang-ghen làm cơ sở tư tưởng, nhưng tiến hành hoạt động
một cách độc lập tự chủ. Nói đến tư tưởng chỉ đạo
ngày ấy, không thể không nhắc tới bài viết năm 1894 của
Ang-ghen (một năm trước ngày qua đời) "Lời nói đầu cuốn
Đấu tranh giai cấp ở Pháp từ năm 1848 đến năm 1850 của Các
Mác". Khi đề cập tới các sai lầm của Mác và Ang-ghen trong
dự kiến tình hình cách mạng từ 1848 trở đi, bài này viết:
"Lịch sử cho thấy chúng tôi cũng từng sai lầm, để lộ ra
cách nhìn của chúng tôi lúc đó chỉ là ảo tưởng." "Lịch
sử thể hiện rõ là tình trạng phát triển kinh tế ở đại
lục châu Âu ngày ấy còn xa mới chín muồi tới trình độ có
thể quét sạch nền sản xuất tư bản", chủ nghĩa tư bản
"còn có khả năng phát triển rất lớn". Căn cứ vào điều
kiện lúc đó, đặc biệt là kinh nghiệm mới nhất của đảng
XHDC Đức, Ang-ghen đã suy xét lại sách lược đấu tranh của
giai cấp công nhân, nhấn mạnh đề ra chủ trương giai cấp
công nhân nên lấy việc sử dụng quyền bỏ phiếu bầu cử
làm "<em>vũ khí mới - một trong những thứ vũ khí sắc bén
nhất</em>", và nói rõ: "<em>Từ lâu, Tuyên ngôn của đảng
Cộng sản từng tuyên bố, giành lấy quyền bỏ phiếu, giành
dân chủ, là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
của giai cấp vô sản chiến đấu.</em>" Đồng thời tuyên bố
các đồng chí chúng ta tuyệt đối không vì thế mà "vứt bỏ
quyền làm cách mạng (Ang-ghen nói rõ: dĩ nhiên, điều đó bao
gồm quyền làm cách mạng bạo lực - chú thích của Ngô Giang).
Cần biết rằng, quyền làm cách mạng bao giờ cũng là 'quyền
lợi lịch sử' chân chính duy nhất."

Sau khi Ang-ghen qua đời, Lip-nếch [4], một nhà lãnh đạo đảng
XHDC Đức đánh giá Ang-ghen như sau: "<em>Người vừa là người
chỉ đường, lại là người dẫn đường, vừa là lãnh tụ,
vừa là chiến sĩ. Ở Người thể hiện sự kết hợp lý luận
với thực tiễn.</em>" Lịch sử chứng minh sự đánh giá này
là hoàn toàn công bằng.

Mấy chục năm trước và sau ngày Ang-ghen qua đời, thế giới
tư bản ở vào thời kỳ phát triển bình ổn. Phần lớn các
đảng công nhân Âu Mỹ đều hoạt động công khai, có thể ra
sức lợi dụng vũ khí bỏ phiếu bầu cử. Bước sang thế kỷ
XX, chủ nghĩa tư bản lại rơi vào cuộc khủng hoảng mới,
dẫn đến Đại chiến lần thứ nhất. Cuộc chiến tranh này
làm cho Quốc tế II bị chia rẽ mạnh - xuất hiện sự đối
lập của hai phái, gọi là phái "bảo vệ tổ quốc" và phái
"biến chiến tranh đế quốc thành chiến tranh cách mạng". Lê
nin đề xuất chủ trương của phái thứ hai. Khi đó, ngoài
nước Nga dưới sự lãnh đạo của Lê nin đã tiến hành thắng
lợi cuộc Cách mạng Tháng Mười ra, các nước (hoặc vùng)
Phần-lan, Đức, Áo, Hung, Italy cũng lần lượt bùng nổ cách
mạng và giành được thắng lợi tạm thời, cục bộ, nhưng
cuối cùng đều thất bại. Duy nhất chỉ có cách mạng XHCN Nga
thành công. Do đó sinh ra tên gọi "chủ nghĩa Lê nin" (viêc này
xảy ra sau khi Lê nin qua đời), và có sự đối lập giữa
"Quốc tế II" và Quốc tế III" . Từ đó có hai phái là phái
"chủ nghĩa Lê nin" và phái "chủ nghĩa xã hội dân chủ". Kèm
theo, xuất hiện hai loại mô hình tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Ở đây, ta không bàn về sự đấu tranh giữa hai phái trên
(trong đó, chống chủ nghĩa xét lại là một nội dung chính),
cũng không bàn về thành tích hoặc thất bại và các bài học
kinh nghiêm của CNXH ở Liên xô và các nước XHCN khác cùng mô
hình. Chúng tôi chỉ muốn nói khái quát về phong trào xã hội
dân chủ ở Tây Âu, và cũng chỉ nói rất vắn tắt (vì ở
đây cũng không bàn riêng vấn đề này, vấn đề đó cần một
bài viết khác). Sau Đại chiến I, năm 1919, thành lập "Quốc
tế III" (tức Quốc tế Cộng sản); năm 1923, "Quốc tế II" khôi
phục hoạt động, và đổi tên là "Quốc tế đảng Xã hội"
[5]. Từ đó trở đi, trong phong trào công nhân Tây Âu hình thành
sự đối lập giữa hai thế lực nói trên (tức giữa một bên
là các đảng Cộng sản với một bên là các đảng XHDC và các
đảng Xã hội), nhưng ưu thế và ảnh hưởng chủ yếu là ở
phía các đảng XHDC và đảng Xã hội, vì các đảng này không
những chỉ lôi kéo được tuyệt đại đa số công nhân, mà lý
luận và hoạt động của họ tương đối hợp với tâm lý
của quảng đại các tầng lớp trung gian và trí thức ở các
nước tư bản; giai cấp tư sản cũng tương đối có thể tiếp
thu. Ở đây, ta chưa nói về tình hình phức tạp vừa đấu
tranh vừa hợp tác giữa hai thế lực nói trên (trong thời gian
chiến tranh chống phát xít, hợp tác là chủ yếu), mà chính
bản thân các đảng tham gia phong trào xã hội dân chủ trong
phạm vi của Quốc tế Xã hội (các đảng XHDC và các đảng Xã
hội) cũng rất phức tạp. Chủ trương của các đảng này
không hoàn toàn nhất trí với nhau, ngoại trừ việc tất cả
đều phủ định cách mạng bạo lực và nói chung đều tiếp
thu CNXH dân chủ. Lúc đầu, nhìn chung còn tuân theo cương lĩnh
của đảng XHDC Đức được soạn thảo dưới sự chỉ đạo
của Ang-ghen năm 1889, khi thành lập Quốc tế II. Về sau thì
mỗi đảng đi một đường: có đảng tương đối cấp tiến;
có đảng tương đối ôn hoà; có đảng tiếp tục giương ngọn
cờ chủ nghĩa Mác; có đảng lại vứt bỏ ngọn cờ này mà
chủ trương đa nguyên hoá tư tưởng chỉ đạo (trong đó có
cả chủ nghĩa Mác), và chủ trương tư tưởng XHCN bắt nguồn
từ nhiều con đường; có đảng vẫn coi mình là chính đảng
của giai cấp công nhân, có đảng lại nói mình là đảng của
nhân dân hoặc đảng của dân tộc; có đảng chủ trương hợp
tác với đảng cộng sản trong nước mình; có đảng lại phản
đối sự hợp tác đó, v.v... Một số đảng đã không dưới
một lần cải tổ hoặc xây dựng lại, về khuynh hướng, cũng
trước sau khác nhau. Nhưng nói tổng quát, bản tuyên ngôn công
bố năm 1951, khi Quốc tế Xã hội [6] tổ chức lại, về đại
thể có thể coi là một khuynh hướng có tính tiêu biểu. Tuyên
ngôn này viết: "<em>Dù là người của đảng Xã hội xây dựng
niềm tin của mình theo phương pháp phân tích xã hội của chủ
nghĩa Mác, hoặc theo các phương pháp khác, dù là họ tiếp
nhận sự gợi ý của nguyên tắc tôn giáo hoặc của nguyên
tắc nhân đạo, tất cả họ đều phấn đấu vì mục tiêu
chung. Mục tiêu đó là một chế độ phân phối xã hội công
bằng, đời sống tốt đẹp, tự do và thế giới hoà
bình.</em>" Ở đây chưa viết rõ mục tiêu phấn đấu là chủ
nghĩa xã hội, thế nhưng "Tuyên ngôn thành lập Quốc tế xã
hội" hồi thập kỷ 20 thế kỷ XX từng khẳng định mục tiêu
này, và nói rõ: "<em>Mục đích của chủ nghĩa xã hội là giải
phóng mọi người ra khỏi sự lệ thuộc vào một thiểu số
người chiếm hữu hoặc kiểm soát tư liệu sản xuất. Mục
đích của nó là giao quyền kinh tế cho toàn thể nhân dân,
tiến tới xây dựng một xã hội khiến cho mọi con người tự
do đều có thể, với địa vị bình đẳng, cùng làm việc với
nhau trong xã hội.</em>"

Cho nên, nhìn chung, phải chăng có thể nói là: phong trào CNXH
dân chủ Tây Âu (hoặc gọi là "phong trào xã hội dân chủ",
đều như nhau) hiện đang tìm kiếm một con đường khác để
tiến lên CNXH (khác với con đường của Cách mạng Tháng
Mười)? Hoặc nói là, phong trào này từng bước ươm trồng các
nhân tố XHCN trong cái bào thai tư bản chủ nghĩa, để bằng
cách tiệm tiến (từ tích luỹ lượng biến dẫn đến chất
biến từng phần, rồi đến chất biến cuối cùng) sáng tạo
nên một hình thái mới của xã hội XHCN? Theo tôi, có thể nói
như vậy được. Dĩ nhiên, sự sáng tạo này thường có tính
thử nghiệm, không thể bước đều nhau hoặc có xu thế tiến
lên theo đường thẳng, mà tuỳ theo sự thay đổi tình hình
hoặc biến đổi so sánh lực lượng có thể có lặp đi lặp
lại, có lúc tiến lên, có lúc lại tụt lùi. Nhưng có một
đặc điểm: khi đã tiến lên rồi thì dù cho lại tụt lùi,
nhưng trận địa đã chiếm được thì thường là không bị
mất toàn bộ (thí dụ : về thực hiện chính sách phúc lợi và
chế độ bảo đảm đời sống). Ở đây, tôi xin nêu hai thí
dụ có thể giúp nói rõ vấn đề: một là cuộc cải cách do
Công đảng Anh tiến hành năm 1945, và hai là mô hình
Thụy-điển.

Trong bài này chỉ xin nói vài câu về cuộc cải cách (được
đảng XHDC gọi là cải cách dân chủ xã hội chủ nghĩa) bắt
đầu tiến hành tại Anh từ 1945. Đây là cuộc cải cách cơ
cấu xã hội do Công đảng Anh lãnh đạo thực hiện trong tình
hình tư bản Tây Âu bị tàn phá nặng nề sau Đại chiến II.
Biện pháp cải cách chủ yếu là: - thực hành quốc hữu hoá
các ngành khai thác mỏ, ngân hàng phát hành, giao thông vận
tải, các doanh nghiệp cung ứng địa phương và sản xuất thép,
tức đưa các ngành kinh tế này vào sở hữu nhà nước tư
bản, làm cho thành phần quốc doanh trong lĩnh vực kinh tế lên
tới 20%; - cải tiến thuế thu nhập theo một quy chế luỹ tiến
khác biệt rõ ràng giữa các cấp bực, làm cho 2/5 tổng thu
nhập quốc dân thông qua hình thức thu thuế được nhà nước
thực hành tái phân phối; - áp dụng phương pháp gọi là "phúc
lợi toàn dân" nhằm thực hành chế độ bảo hiểm rộng rãi
ốm đau, tai nạn, tuổi già, thương tật, thất nghiệp, sinh
đẻ và chết đối với tất cả mọi người và thực hiện
chữa bệnh không mất tiền cho toàn dân. Năm 1948, lãnh tụ Công
đảng Anh là At-li tuyên bố: nước Anh đã trở thành "nhà
nước phúc lợi". Từ đó, cái tên "nhà nước phúc lợi" bắt
đầu được sử dụng rộng rãi. Theo các tài liệu xác thực,
ngày ấy, Xtalin có nói chuyện với nhân vật phái tả của Công
đảng Anh Rat-xki, thậm chí Xtalin còn thừa nhận cuộc cải cách
này có thể là một trong những con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội (do đó mà năm 1951, đảng Cộng sản Liên xô từng giúp
đỡ đảng Cộng sản Anh soạn thảo cương lĩnh quá độ hoà
bình). Nhưng trên mặt khác, hoặc nói trên một mặt quan trọng
hơn, cuộc cải cách này đồng thời lại làm ổn định trật
tự tư bản chủ nghĩa từng bị phá tan (ghi chú: cuộc cải
cách này hồi ấy được Mỹ kín đáo cho phép và tài trợ).

Bây giờ ta có thể trở lại bàn về mô hình chủ nghĩa xã
hội dân chủ Thụy-điển được Báo cáo Khảo sát nói tới.

<h2>KHÁI QUÁT VÀI NÉT VỀ "CHỦ NGHĨA XÃ HỘI DÂN CHỦ" THUỴ
ĐIỂN</h2>

Dưới ảnh hưởng tuyên truyền của Liên Xô, lâu nay chúng ta
có thành kiến rất sâu sắc về phong trào chủ nghĩa xã hội
dân chủ Tây Âu. Thực ra, cho tới ngày Liên xô biến mất,
người Liên Xô chưa bao giờ giới thiệu cho chúng ta biết một
cách khách quan, trung thực về tình hình thực sự của phong
trào xã hội dân chủ Tây Âu (kể cả mối quan hệ giữa các
đảng cộng sản với các đảng xã hội dân chủ), không phải
là "phủ định nhiều, khẳng định ít", mà là phủ định
toàn bộ. Trước hết, tôi muốn nói một điều: thật ra phong
trào xã hội dân chủ Tây Âu đã phức tạp lại đa dạng, tình
hình các nước không hoàn toàn giống nhau. Thụy-điển không
ở vào vùng đất "trái tim" của thế giới tư bản, mà chỉ là
"tứ chi" thôi ("trái tim" và "tứ chi" là cách nói của Mác),
cách khá xa vùng trung tâm giành giật của các thế lực tư bản
cường quyền, do đó cuộc cải cách xã hội của Thụy-điển
có thể tiến hành tương đối tự chủ mà không, hoặc ít
chịu sự can thiệp và ảnh hưởng của các thế lực ngoại
quốc. Ở đây cần đặc biệt chỉ ra một điểm: các đảng
XHDC, đảng xã hội, đảng công nhân thuộc "Quốc tế xã hội"
thành lập năm 1923 ở châu Âu có cách giải thích về "chủ
nghiã xã hội dân chủ", trên nguyên tắc và trên nhiều mặt,
khác với cách giải thích của chủ nghĩa Mác; nhất là chủ
trương "đa nguyên hoá tư tưởng". Đảng XHDC Thụy-điển tuy
cũng thừa nhận đa nguyên hoá tư tưởng, nhưng họ vẫn kiên
trì lấy học thuyết Mác Ang-ghen làm tư tưởng chỉ đạo chính
của mình. Đây là một đặc điểm và ưu thế của họ.

Tại đây, tôi chỉ xin căn cứ vào Báo cáo Khảo sát, chia nó ra
thành đề mục để trình bày, tức dùng phương pháp "chỉ
thuật lại mà không viết thêm" (thuật nhi bất tác) để
giới thiệu về tình hình xã hội XHCN dân chủ ở Thụy-điển
mà mọi người rất muốn tìm hiểu. Tôi xin phép khuyên bạn
đọc chịu khó đọc hết phần sau, chớ có bỏ qua một dịp
tìm hiểu về chủ nghĩa xã hội của Thụy-điển.

Về vấn đề tính chất của đảng Xã hội dân chủ
Thụy-điển và của xã hội Thụy-điển. Báo cáo khảo sát
viết: "Lâu nay, chúng ta luôn cho rằng đảng Xã hội dân chủ
Thụy-điển là một đảng xét lại, xã hội Thụy-điển là
một xã hội tư bản như các nước xã hội phương Tây khác. Do
đó, trong quá trình khảo sát, chúng tôi đã cực kỳ thẳng
thắn hỏi các bạn Thụy-điển: rốt cuộc đảng và xã hội
của họ có tính chất như thế nào? Họ trả lời rõ ràng: cho
tới nay, họ vẫn tự cho rằng đảng XHDC Thụy-điển là một
chính đảng xã hội chủ nghĩa, xã hội Thụy-điển là một xã
hội xã hội chủ nghĩa. Lý do chủ yếu là: xét về lịch sử
đảng XHDC Thụy-điển, năm 1889, khi thành lập đảng, họ không
có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng mình, mà sử
dụng nguyên xi cương lĩnh và điều lệ của đảng XHDC Đức
hồi đó, do Ang-ghen sáng lập. Khi chúng tôi đến thăm
Thụy-điển, tuy họ đang chuẩn bị sửa đổi lần thứ 7
cương lĩnh của đảng, nhưng các tài liệu tuyên truyền phát
đi vẫn ghi rõ: cơ sở lý luận của đảng XHDC Thụy-điển là
đa nguyên, song chủ yếu là chủ nghĩa Mác Ang-ghen; cơ sở giai
cấp rộng rãi, nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân. Chỉ có
điều là ghi rõ: giai cấp công nhân không những chỉ bao gồm
công nhân cổ xanh mà còn gồm cả công nhân cổ trắng... Nhân
vấn đề này, họ đặc biệt mời chúng tôi tới thăm Nhà
Trưng bày lịch sử đảng XHDC Thụy-điển. Nhìn thứ tự các
bức ảnh được treo ở đây, có thể thấy rõ: vị trí thứ
nhất là Các Mác, thứ hai là Ang-ghen, thứ ba là Lát-xan [7],
thứ tư là Bran-hân, nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng XHDC
Thụy-điển... Khi trao đổi ý kiến với một số nhà nghiên
cứu lý luận của đảng XHDC Thụy-điển, họ đặc biệt nhấn
mạnh: chủ nghĩa xã hội mà họ nói là có điều kiện, tức
là trước đó phải thêm từ "dân chủ", nói hoàn chỉnh phải
là xã hội "chủ nghĩa xã hội dân chủ". Nếu không thêm từ
"dân chủ", thì họ thà để người ta nói xã hội của họ là
xã hội tư bản, còn hơn là để nói là xã hội XHCN. Bởi lẽ,
loại xã hội XHCN ấy đại biểu cho xã hội XHCN kiểu Liên Xô,
không có sức thu hút quần chúng, nghĩa là không nhận được
phiếu bầu của quần chúng, cũng tức là không thể nắm chính
quyền và thực thi các chính sách XHCN.

Về tính chất nền kinh tế Thụy-điển. "Báo cáo Khảo sát"
viết: "Theo cách nói của các bạn Thụy-điển, tính chất của
kinh tế Thụy-điển vừa không hoàn toàn là kinh tế tư bản,
vừa cũng không phải hoàn toàn là kinh tế XHCN, mà là một
loại kinh tế hỗn hợp [8]. Kinh tế hỗn hợp nghĩa là: - về
chế độ sở hữu thì thực hành pha trộn chế độ sở hữu
công cộng và chế độ tư hữu; - về chế độ phân phối thì
thực hành phân phối theo lao động kết hợp với phân phối
theo vốn (tư bản); - về phương thức vận hành kinh tế thì
thực hành nhà nước điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế
thị trường. Trong đó, cốt lõi nhất là sự hỗn hợp về
chế độ sở hữu, vì chỉ có làm được như thế thì mới có
thể thực hiện được sự hỗn hợp về chế độ phân phối
và về phương thức vận hành kinh tế. Tại sao chủ nghĩa xã
hội phải thực hành kinh tế hỗn hợp ? Về vấn đề này, các
bạn Thụy-điển đã dùng kinh nghiệm tự thân của đảng mình
để giới thiệu cho chúng tôi biết một bài học lịch sử
rất sâu sắc của họ.

"Theo giới thiệu, khi đảng XHDC Thuỵ- Điển thành lập năm
1889, lúc đó Thuỵ- Điển hãy còn là một trong những nước
lạc hậu nhất châu Âu, thậm chí dân chúng còn chưa có quyền
tối thiểu là quyền bầu cử phổ thông. Vì sức sản xuất
còn kém và trình độ của đảng còn thấp, nên khi đảng thành
lập, họ không đưa ra được cương lĩnh của đảng, đành
phải sử dụng nguyên xi cương lĩnh của đảng XHDC Đức hồi
đó, do Ang-ghen lãnh đạo soạn thảo. Cương lĩnh này quy định
rõ ràng: về chính trị, phải thông qua bầu cử dân chủ để
quá độ hoà bình giành lấy chính quyền; về kinh tế, phải
thực hiện chế độ sở hữu công cộng, phân phối theo lao
động và quản lý có kế hoạch. Sau hơn 30 năm phấn đấu, về
cách đề xuất phương thức mục tiêu đấu tranh chính trị tuy
có mấy lần thay đổi, như ban đầu đề khẩu hiệu phấn
đấu là "đấu tranh giành quyền bầu cử"; sau khi đã có quyền
bầu cử thì sửa là "đấu tranh vì tham gia nghị viện"; sau khi
đảng đã có chân trong Quốc hội rồi, lại đề xuất "đấu
tranh giành đa số trong Quốc hội". Thế nhưng, các mục tiêu
kinh tế nói trên trong cương lĩnh lại không hề thay đổi. Trong
cuộc bầu cử năm 1920, số nghị sĩ của hai đảng XHDC và
đảng Nhân dân (thuộc phái bảo thủ) cộng lại đã vượt quá
đa số trong Quốc hội (phe đối lập chủ yếu là các nghị sĩ
có liên quan tới Hoàng gia Thuỵ- điển), số ghế nghị sĩ của
đảng XHDC nhiều hơn của đảng Nhân dân, hai đảng này đã
lập chính phủ liên hợp cùng nắm chính quyền, người lãnh
đạo của đảng XHDC làm Thủ tướng. Do đảng XHDC là lực
lượng chính trong chính phủ, nên đảng này có điều kiện
thực thi cương lĩnh kinh tế quy định trong Cương lĩnh của
đảng, bắt đầu dùng biện pháp thu mua và chuộc lại để xây
dựng trên cả nước một số lượng lớn các doanh nghiệp sở
hữu công cộng, trong đó sở hữu nhà nước là chính. Nhưng vì
chưa thể giải quyết tốt vấn đề quản lý các doanh nghiệp
nên chẳng bao lâu sau, sức sống của các doanh nghiệp đó bị
giảm sút, hiệu quả và lợi ích không cao, trong nền kinh tế
xuất hiện những khó khăn không đáng có. Trong cuộc bầu cử
năm 1924, số phiếu bầu cho đảng XHDC bị giảm mạnh, kết
quả là đảng bị bật ra khỏi chính phủ, đảng Nhân dân có
tính bảo thủ lên nắm chính quyền. Theo cách nói của các bạn
Thuỵ-điển thì đảng đã đánh mất quyền lãnh đạo chính
phủ.

"Trong tình hình đó, đảng XHDC Thụy-điển mới bình tĩnh tổng
kết bài học kinh nghiệm; qua thảo luận trong toàn đảng, họ
rút ra được một kết luận rất quan trọng. Đó là: đảng
XHDC Thụy-điển là một chính đảng XHCN, do vậy phải kiên trì
thực hiện CNXH; nhưng trong việc thực hiện CNXH thì xã hội
hoá quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản; xã
hội hoá phân phối mới là vấn đề căn bản, tức thực thi
phân phối công bằng của cải xã hội như thế nào để bảo
đảm quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động.
Lập thật nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, nhà nước
phải đầu tư rất lớn, tốn nhiều công sức nhưng hiệu suất
và lợi ích đều nói chung không cao, không làm ra được nhiều
của cải, nếu muốn phân phối một cách công bằng thì cũng
chẳng có cơ sở vật chất kinh tế lớn mạnh để làm chỗ
dựa mà phân phối. Như vậy thì không có lợi bằng biện pháp:
- không lập nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng (trừ các
lĩnh vực bắt buộc phải do nhà nước làm), - khuyến khích
ủng hộ sự phát triển kinh tế sở hữu phi công cộng, để
cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều của cải càng
tốt, - chính phủ thực hiện phân phối các của cải đó một
cách hợp lý nhằm đáp ứng nhu cầu của người lao động.

Có thể giải quyết những vấn đề và tệ nạn phát sinh trong
quá trình phát triển các doanh nghiệp tư nhân trên hai mặt sau:
- sử dụng thế lực của công đoàn ở tổ chức cơ sở tiến
hành đấu tranh cần thiết; - sử dụng quyền lập pháp của
Quốc hội để hạn chế các tệ nạn đó ngay từ trên thượng
tầng. Đảng XHDC Thụy-điển đã dựa vào kết luận này để
sửa đổi lại cương lĩnh và điều lệ ban đầu của đảng,
qua đó giành được sự ủng hộ của quần chúng rộng rãi.
Trong cuộc bầu cử năm 1932, đảng lại giành được đa số
trong Quốc hội và lại lên nắm chính quyền liên tục 44 năm
liền, cho tới năm 1976 mới bị đảng Nhân dân thay thế một
thời gian. Trong mấy chục năm đó, đảng XHDC đã xây dựng
Thụy-điển từ một nước kinh tế lạc hậu nhất châu Âu
trở thành nước kinh tế phát triển, đứng thứ 2 trên thế
giới về GDP đầu người (thứ nhất là Thụy sĩ). Mặc dù có
vài lần bị đảng Nhân dân thay thế nhưng trong phần lớn
thời gian từ 1976 tới nay, đảng XHDC vẫn nắm chính quyền.
Đến cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 thế kỷ XX, phần
phân phối đã được xã hội hoá trong toàn bộ của cải quốc
dân, tính theo tỷ lệ của thu nhập tài chính của nhà nước so
với GDP, đã đạt 57 58%. Nhờ đó đã có điều kiện xây dựng
Thụy-điển thành nước có phúc lợi xã hội nhiều nhất thế
giới, khiến cho lý thuyết xã hội hoá phân phối được vận
dụng triệt để vào trong thực tiễn."

Về nguyên tắc phân phối thực hành tại Thụy-điển. Báo cáo
Khảo sát viết: "Theo các bạn Thụy-điển giới thiệu, nguyên
tắc phân phối của họ là: phải vừa có lợi cho việc huy
động, phát huy đầy đủ tính tích cực về mọi mặt, và nâng
cao năng suất lao động, lại vừa không để xuất hiện chênh
lệch phân phối quá lớn (ý nghĩa có chút giống như khẩu
hiệu "ưu tiên năng suất, chiếu cố công bằng" mà Trung Quốc
mấy năm nay luôn nhấn mạnh). Biện pháp chủ yếu là: trong
lần phân phối đầu tiên phải kiên trì nguyên tắc ưu tiên
hiệu suất, nghĩa là người làm nhiều, cống hiến nhiều thì
phải được phân phối nhiều; ngược lại thì chỉ được
phân phối ít. Nhưng khi tái phân phối thì phải có sự điều
tiết hợp lý, sao cho mức hơn kém trong phân phối cuối cùng
không quá lớn. Bởi thế, cho tới nay trong cả nước
Thụy-điển, chỉ có một số cực ít các nhà doanh nghiệp
xuất sắc, thí dụ những người như Tổng Giám đốc hãng ô
tô Volvo, mới được hưởng mức thu nhập trên 1 triệu cuaron
mỗi năm; còn nhìn chung chênh lệch về thu nhập thực tế của
tuyệt đại đa số là không lớn lắm [9]. Thí dụ, lương của
người lãnh đạo cao nhất trong chính phủ so với lương của
công chức nói chung, trước khi nộp thuế chênh lệch có thể
tới gấp 4-5 lần, nhưng sau khi nộp thuế, tỷ lệ chênh lệch
chỉ còn bằng 2-3 lần . Điều đặc biệt là, ngoài lương ra,
họ không có bất kỳ phụ cấp cấp bậc và phụ cấp chức
vụ nào khác; cho nên tỷ lệ chênh lệch nói trên là rất nhỏ.
Khi giới thiệu với chúng tôi, các bạn Thụy-điển nói chênh
lệch thu nhập ở Thụy-điển có lẽ là nhỏ nhất thế giới.
Tại Thụy-điển, cơ bản đã thanh toán xong cái gọi là sự
cách biệt giữa thành thị với nông thôn, giữa công nhân với
nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân tay. Về
vấn đề này, mới đầu chúng tôi còn nửa tin nửa ngờ;
nhưng sau khi quan sát thực địa một số gia đình thuộc các
diện khác nhau, chúng tôi cảm thấy đúng là về đại thể là
như vậy."

Về chế độ phúc lợi ở Thụy-điển. Báo cáo khảo sát
viết: "Mọi người đều biết, phúc lợi xã hội ở
Thụy-điển ở mức nhiều nhất thế giới. Ngoài 4 loại bảo
hiểm lớn được pháp luật qui định (như các nước Tây Bắc
Âu khác): bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y tế, bảo
hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, còn có nhiều
loại hình phúc lợi xã hội khác, nhiều đến mức người ta
hình dung Thụy-điển là nước mà người dân "từ khi lọt lòng
đến khi chết" đều được hưởng phúc lợi. Căn cứ theo kết
quả khảo sát của chúng tôi thì câu nói trên đúng là "danh
bất hư truyền". Thí dụ: (1) Chế độ dưỡng lão: người lao
động về hưu được định kỳ lĩnh lương hưu đủ sống,
người già yếu không tự lo liệu cuộc sống được thì có
thể vào ở trong viện dưỡng lão của nhà nước, được
hưởng sự chăm sóc y tế miễn phí, điều kiện sống tại
đây tương đương với khách sạn 3 sao. (2) Chế độ bảo
hiểm thất nghiệp : nếu người lao động thất nghiệp, họ
được định kỳ lĩnh tiền cứu tế thất nghiệp, được các
trung tâm giới thiệu việc làm của nhà nước miễn phí giới
thiệu việc làm trong phạm vi toàn quốc. Nếu nơi làm việc
mới cách xa chỗ ở hiện nay, nhà nước có thể giúp một
phần kinh phí dọn nhà. (3) Chế độ giáo dục: không những
tất cả mọi người đều được đi học không mất tiền
suốt đời mà luật pháp còn qui định, từ nhà trẻ cho đến
bậc trung học, nếu trong lớp có một học sinh người nước
ngoài, thì nhà trường phải bố trí một giáo viên biết tiếng
mẹ đẻ của em đó (dĩ nhiên đều là giáo viên kiêm nhiệm),
mỗi tháng phải lên lớp một số giờ nhất định bằng tiếng
mẹ đẻ cho em này. Ở bậc đại học, từ lúc vào học cho
đến lúc tốt nghiệp, tuy có qui ước số năm học nhất định
nhưng pháp luật qui định, nếu học sinh nào tốt nghiệp rồi
mà chưa tìm được công việc thích hợp và không muốn rời
nhà trường thì có thể tiếp tục học tập miễn phí. Các
bạn Thụy-điển cho biết, hiện nay hầu như ở trường nào
cũng có những sinh viên lớn tuổi đã học 7-8 năm hoặc hơn
trong trường. (4) Chế độ sinh đẻ: phụ nữ sinh con được
nghỉ đẻ 18 tháng có lương (12 tháng đầu hưởng 100% lương, 6
tháng cuối hưởng 90%). Nếu đến tháng thứ 18 lại có thai,
sẽ tiếp tục được nghỉ tiếp hưởng 90% lương cho đến khi
đứa trẻ ra đời lại được hưởng chế độ nghỉ đẻ 18
tháng. Ngoài ra, nếu người vợ làm công việc tương đối quan
trọng không thể hoặc không muốn nghỉ ở nhà quá lâu như
vậy, thì haivợ chồng có thể bàn bạc để chồng có thể
nghỉ thay vợ. (5) Chế độ nhà tù: người bị giam giữ hoặc
tội phạm đang lĩnh án được nhà nước nuôi ăn ở không mất
tiền, ngoài ra, mỗi tháng còn được lĩnh một khoản tiền
mặt trợ cấp tuy không lớn nhưng cũng không phải là nhỏ
lắm. Nhờ các khoản phúc lợi xã hội nói trên, đời sống cơ
bản của mỗi người dân trong bất kỳ tình huống nào đều
có sự bảo đảm cần thiết. Vì thế bộ mặt xã hội nói
chung là tốt đẹp, cuộc sống yên bình, trật tự nền nếp,
thực là có cái cảnh "ra đường không sợ mất cắp, đêm nằm
không phải đóng cửa". Các cán bộ sứ quán Trung quốc ở đây
cho biết, mấy chục năm qua họ rất ít khi bị mất cắp .

"Dĩ nhiên sự việc nào cũng có hai mặt. Qua một số điều
chúng tôi đã tiếp xúc hoặc nghe kể, chế độ phúc lợi suốt
đời nói trên của Thụy-điển ít nhất cũng tồn tại các
vấn đề và mâu thuẫn trên hai mặt sau. Thứ nhất, chế độ
phúc lợi cao này là dựa vào chế độ thu thuế cao. Do thu thuế
cao nên thu nhập tài chính nhà nước của Thụy-điển chiếm
gần 60% GDP, mức cao nhất thế giới. Nghĩa là gần 3/5 của
cải toàn xã hội bị nhà nước tập trung vào tay mình, tỷ lệ
để lại cho các doanh nghiệp và người dân quá nhỏ, trên mức
độ nhất định tất sẽ ảnh hưởng tới tính tích cực của
doanh nghiệp và người lao động. Đặc biệt là thuế suất
luỹ tiến của thuế thu nhập, bậc cao nhất từng dùng thuế
suất trên 80% (nay vẫn trên 70%), nghĩa là gần hết số tiền
mà người lao động vất vả kiếm được lại không được
hưởng. Điều đó dẫn đến trường hợp khi doanh nghiệp hoặc
đơn vị cần hoàn thành một công việc cần kíp thì ngoài 8
giờ làm việc ra, người lao động nói chung đều không muốn
làm ngoài giờ, vì thu nhập làm thêm mình chẳng được hưởng
bao nhiêu. Bất mãn nhất là những người có thu nhập cao. Thập
kỷ 80, một danh thủ quần vợt nổi tiếng thế giới người
Thụy-điển chỉ vì bất mãn với thuế suất quá cao của
nước này mà bỏ sang Anh định cư. Thứ hai, chế độ phúc
lợi cao rất dễ bị một số người lợi dụng kiếm chác
những khoản lợi ích họ không đáng được hưởng. Trong thời
gian thăm Thụy-điển, khi đến một gia đình công nhân được
gọi là có thu nhập thấp nhất, chúng tôi đã phát hiện vấn
đề đó. Gia đình này có 4 cô con gái rồi, nhưng bà chủ lại
có thai tiếp. Cảm thấy rất kỳ lạ, chúng tôi hỏi ông chủ
tại sao đẻ nhiều như vậy. Ông trả lời: tôi đã tính toán
từ lâu, thấy để vợ ở nhà đẻ con là có lợi nhất. Chẳng
những bà ấy được nghỉ 1 năm rưỡi có lương, mà khi hết
thời hạn đó lại có thai nữa thì tiếp tục được nghỉ ở
nhà vẫn có lương, nghĩa là bà ấy được nghỉ phép dài hạn
ở nhà cai quản công việc nội trợ phức tạp. Hơn nữa, chính
phủ còn khuyến khích sinh đẻ, ai có nhiều con thì được
hưởng chế độ trợ cấp luỹ tiến; cứ thêm một con thì
hàng tháng được trợ cấp thêm ít nhất 1000 cuaron, lại không
phải đóng thuế thu nhập, như thế rõ ràng làm tăng thu nhập
của nhà tôi. Khi chúng tôi hỏi: như thế, ông có bị thiệt
hại gì không ? Mới đầu ông ta bảo không, nhưng sau một lúc
suy nghĩ, lại bảo là cũng có thiệt ở chỗ không thể đi du
lịch xa, vì vợ con lóc nhóc đông quá đi xa rất bất tiện...
Câu chuyện này cho thấy, chế độ phúc lợi xã hội quá cao
quá nhiều của Thụy-điển cũng cần thiết phải điều chỉnh,
cải tiến hợp lý.

Về công bằng xã hội ở Thụy-điển. Báo cáo Khảo sát
viết: "Qua nhiều thực tế chúng tôi đã tìm hiểu và tiếp xúc
trong quá trình khảo sát, có thể nói xã hội Thụy-điển
tương đối công bằng. Tuy không thể nói Thụy-điển hoàn toàn
không có chế độ đặc quyền đẳng cấp, lối sống không
lành mạnh và hiện tượng tham nhũng thường thấy ở nhiều
nước khác, nhưng qua tai nghe mắt thấy thì các hiện tượng
đó đúng là không nhiều. Tại sao xã hội Thụy-điển có thể
thực hiện được tương đối công bằng? Chủ yếu là do:

"(1). Có chế độ pháp luật hoàn thiện, có thể hạn chế một
cách hữu hiệu sự nảy sinh các hiện tượng bất công xã
hội. Thí dụ, pháp luật quy định rõ: trừ Quốc vương ra,
bất cứ ai, kể cả Thủ tướng, khi ra ngoài đều không được
mang theo nhân viên bảo vệ. Chính vì thế mà Thủ tướng
Thụy-điển kiêm Chủ tịch đảng XHDC nước này là ông Ô-lôp
Pan-mơ đã bị ám sát. Hôm đó, vào cuối năm 1988 (không lâu
trước ngày chúng tôi thăm Thụy-điển), sau giờ làm việc, ông
Pan-mơ cùng vợ đi tầu điện ngầm đến xem phim ở một rạp
chiếu bóng trong khu phố đông vui nhất thủ đô Xtốc-khôm. Xem
phim xong, hai người ra về, khi đang đi bộ trên đường phố,
sắp đến một ga tầu điện ngầm thì ông Pan-mơ bị một kẻ
lạ mặt bắn chết; nghe nói cho tới nay vẫn chưa tìm ra hung
thủ. Sau vụ này, Thụy-điển mới sửa đổi luật, quy định
Thủ tướng khi ra ngoài cũng có thể mang theo nhân viên bảo
vệ. Khi chúng tôi đến thăm chỗ ông bị ám sát, vẫn còn
thấy vết máu trên đường, thỉnh thoảng có người mang hoa
đến đặt lên chỗ có vết máu tỏ lòng thương tiếc.

"Luật pháp cũng ghi rõ: trong cả nước, chỉ một số rất ít
cấp lãnh đạo như Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng, Bộ
trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng mới được nhà
nước cấp ô tô công vụ, còn tất cả các quan chức khác chỉ
được đi lại bằng các phương tiện giao thông công cộng
hoặc xe tư của mình. Quy định trên không những giảm rõ rệt
biên chế nhân viên cơ quan nhà nước và chi phí, mà còn ngăn
chặn được tình trạng lợi dụng xe công làm việc tư, cũng
như các tác phong không lành mạnh khác.

"Pháp luật còn quy định rõ: trong công việc giao thiệp với
khách nước ngoài, người lãnh đạo ở cấp nào thì được
nhận quà tặng trị giá bao nhiêu. Chúng tôi đã có một lần
tự mình thấy rõ điều này. Năm 1985, lần đầu tiên tôi theo
Đoàn Cải cách cơ chế đến Thụy-điển khảo sát, đơn vị
đón tiếp chính về phía bạn là Bộ Công nghiệp. Trong buổi
làm việc với bà Bộ trưởng Bộ này, chúng tôi có tặng bà
một đôi bình hoa nhỏ Cảnh-Thái-Lam cao khoảng 7-8 tấc Anh,
sản xuất tại Bắc Kinh, để làm kỷ niệm. Sau khi mở hộp
giấy bọc và xem món quà, bà kinh ngạc khen: Đẹp quá ! Nhưng
rồi bà lại thở dài: Rất tiếc là tôi không được mang món
quà này về nhà. Lúc đó chúng tôi đều không hiểu tại sao bà
lại nói thế. Khi ra về, tôi có hỏi một cán bộ Sứ quán
Trung quốc cùng dự buổi tiếp hôm ấy, mới biết luật pháp
Thụy-điển có quy định, lãnh đạo cấp Bộ trưởng trong
hoạt động ngoại giao chỉ được nhận quà biếu có giá trị
lớn nhất không quá 1500 cuaron (khoảng 180 đôla Mỹ). Loại bình
hoa chúng tôi biếu, ở Bắc kinh thì không đáng bao nhiêu tiền,
nhưng ở Thụy-điển thì ước tính có thể hơn 1500 cuaron. Do
đó bà Bộ trưởng không thể mang về nhà, mà chỉ có thể
để ở phòng làm việc. Bao giờ mãn nhiệm, giả thử Bộ
trưởng mới đến có nói món quà này nếu bà thích thì lấy
đi; lúc đó mới có thể đem về nhà mình.

"(2). Dư luận giám sát công khai, là biện pháp hạn chế mạnh
mẽ sự phát sinh và lan tràn các hiện tượng bất công xã
hội. Về mặt này, năm 1988, khi chúng tôi đến Thụy-điển và
Áo khảo sát, ở cả hai nước đều gặp những chuyện cụ
thể. Chúng tôi tới Thụy-điển đúng vào lúc cô con gái của
một vị Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đảng XHDC
Thụy-điển (tương đương Uỷ viên Bộ Chính trị đảng CSTQ)
và là Chủ tịch Công đoàn toàn quốc, có chuyện rắc rối:
báo chí tố giác cô này chưa đủ tiêu chuẩn được phân phối
nhà nhưng vẫn được chia nhà, và phê phán ông Chủ tịch Công
đoàn lợi dụng đặc quyền đảng XHDC đang nắm chính quyền
để kiếm chác lợi riêng. Vì vấn đề này, đảng XHDC đã tổ
chức một cuộc họp báo để công khai giải thích và tỏ thái
độ. Trong họp báo, ông Chủ tịch Công đoàn tuyên bố: việc
này ông không được biết trước, là do con gái ông tự làm;
dĩ nhiên, ông có trách nhiệm là giáo dục con chưa nghiêm, ông
nhất định sẽ đôn đốc con gái trả lại nhà nước căn nhà
này, và sẵn sàng nhận sự phán xử của luật pháp. Sau đó,
vụ tai tiếng này mới chìm xuống."

Về vấn đề địa vị trong xã hội của chính đảng và của
người lãnh đạo. Vấn đề này được Báo cáo Khảo sát dành
riêng một đoạn viết về những gì đã tìm hiểu khảo sát
được : "Cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các chính đảng và nguy
cơ sống còn của đảng đã buộc lãnh đạo các cấp và tầng
lớp công chức phải đối xử với quần chúng nhân dân bằng
một thái độ bình đẳng và giải quyết các công việc xã
hội theo nguyên tắc công bằng. Về chính trị, Thụy-điển
thực hành cái gọi là chế độ dân chủ kiểu phương Tây, các
chính đảng cạnh tranh với nhau rất gay gắt, lá phiếu bầu
của quần chúng quyết định đảng nào có được lên vũ đài
chính trị nắm chính quyền hay không, sự sống còn của đảng
trên một mức độ lớn cũng phụ thuộc vào lá phiếu bầu cử
của nhân dân. Nhà nước không cấp kinh phí vô điều kiện cho
các chính đảng, nguồn kinh phí hoạt động của các đảng
phải trông vào đảng phí của đảng viên nộp và các nguồn
tự gây quỹ, phần khá lớn nữa là kinh phí chính phủ cấp
dựa vào số lượng nghị sĩ của đảng trong Quốc hội. Đảng
nào không nhận được nhiều phiếu bầu của quần chúng thì
không vào được Quốc hội, do đó không có khoản kinh phí nói
trên, như vậy sẽ rất khó tồn tại lâu dài. Bởi lẽ đó, dù
là nguyện vọng chủ quan thế nào đi nữa, trong mọi hoạt
động, đảng XHDC Thụy-điển đều bắt buộc phải luôn giữ
cho mình một hình ảnh giầu mà không xa xỉ, bình đẳng đối
xử với quần chúng, bảo đảm công bằng xã hội. Thí dụ: tuy
đảng XHDC Thụy-điển đã nhiều lần nắm chính quyền và một
lần nắm chính quyền liền 44 năm, nhưng vào cuối thập kỷ 80
khi chúng tôi đến đây khảo sát, cơ quan trung ương đảng của
họ vẫn chỉ có 50-60 nhân viên công tác. Tỉnh uỷ tỉnh
Gotteborg chỉ có 5 6 người. Khi chúng tôi đến làm việc với
họ, chỉ thấy một cán bộ làm tất cả mọi việc, từ giới
thiệu tình hình, toạ đàm trao đổi ý kiến, dẫn đi tham quan
các nơi, hướng dẫn du lịch, và cả việc lái xe nữa. Họ cho
biết, tỉnh uỷ Gotteborg có 3 400 chi bộ phân tán trong các cộng
đồng phường xã (vì pháp luật quy định không được tổ
chức chi bộ đảng trong các doanh nghiệp và cơ quan đơn vị),
mỗi tháng ít nhất tỉnh uỷ phải đến mỗi cơ sở 1 lần
để tìm hiểu nắm tình hình, chỉ đạo công tác và truyền
đạt chỉ thị của cấp trên; do đó công tác của họ rất
bận. Năm 1985, khi tôi theo Đoàn Cải cách cơ chế thăm
Thụy-điển lần đầu, hôm đến Gotteborg đúng vào Chủ nhật,
Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh cùng
tổ chức chiêu đãi chúng tôi trong một pháo đài trên núi gần
biên giới với Na-uy. Phòng tiệc bày biện sang trọng nhưng ăn
uống rất đơn giản. Sau bữa ăn, họ mời ra quảng trường
ngoài pháo đài nghe một đoàn nhạc giao hưởng vừa từ Moskva
trở về biểu diễn. Khách nghe nhạc, từ toàn đoàn chúng tôi
cho tới Chủ tịch tỉnh và Chủ tịch HĐND tỉnh, tất cả
đều không có chỗ ngồi, mà cùng đứng chung với khách du
lịch suốt hơn một giờ. Trên đường về thành phố, khi ô tô
chúng tôi sắp lên phà qua sông, bỗng một chiếc xe phía trước
không nổ được máy. Lúc đó, Chủ tịch HĐND ngồi bên cửa xe
(ông này thọt chân) và Chủ tịch tỉnh lẳng lặng xuống xe
trước tiên, cùng mọi người đẩy xe cho tới lúc xe nổ máy
được mới thôi. Cảnh này thật làm mọi người cảm động.

"<em>Nguyên tắc công bằng xã hội nói trên của các bạn
Thụy-điển không những chỉ thể hiện trong việc giải quyết
các công việc trong nước, mà đối với các bạn nước ngoài
cũng vậy. Lần đi Thụy-điển năm 1988, hôm tới Xtốc-khôm
đúng vào hai ngày nghỉ cuối tuần, vì không bố trí được
phòng trọ cho chúng tôi trong thành phố, họ đưa chúng tôi
đến trọ tại nhà nghỉ của một công đoàn trên hòn đảo
ngoài biển gần đấy. Xung quanh nhà nghỉ là cánh đồng tuyết,
không có tường bao cũng chẳng có người bảo vệ, rất ít
nhân viên phục vụ. Mỗi người chúng tôi được bố trí ở
trong một căn phòng khoảng chục mét vuông, kể cả trưởng
đoàn cũng vậy, tuy có được thêm một phòng khách cũng nhỏ
như thế, chỉ vừa đủ chỗ kê mấy chiếc ghế xô pha. Nghe
nói đây là căn phòng ông Các-xơn (Carlsson), đương kim Chủ
tịch đảng XHDC và Thủ tướng chính phủ Thụy-điển, thường
đến nghỉ. Hết hai ngày cuối tuần, họ đưa chúng tôi về
thành phố, bố trí trọ tại một khách sạn vừa không đồ
sộ, thiết bị lại vừa chưa đạt tiêu chuẩn khách sạn ba sao
ở Trung quốc. Trưởng đoàn chúng tôi cũng không được đặc
cách ở phòng sang hơn, mà cũng chỉ ở một phòng tiêu chuẩn
như mọi đoàn viên.</em>

"<em>Những người lãnh đạo Thụy-điển rất chú ý giữ gìn
hình ảnh công bằng xã hội tốt đẹp nói trên, khi họ còn
sống cũng như khi giải quyết việc tang lễ cho người lãnh
đạo. Như ông Pan-mơ bị ám sát năm 1988, sinh thời ông vừa là
Thủ tướng và Chủ tịch đảng XHDC Thụy-điển, mà còn là
Chủ tịch Quốc tế của các đảng Xã hội, có ảnh hưởng
lớn trên thế giới và ở châu Âu, có uy tín cao trong nước,
cống hiến đối với đảng và với nước đều không nhỏ.
Nhưng sau khi ông qua đời, người ta không dựng nhà kỷ niệm
hoặc bia kỷ niệm ông, cũng không xây cất cho ông một ngôi
mộ sang trọng, mà chỉ mai táng tro xương ông trong một nghĩa
trang công cộng phía sau nhà thờ gần dãy phố nơi ông bị ám
sát. Ngôi mộ ông là một khối hình hộp bằng đá cẩm thạch
mầu đen, diện tích khoảng 4 mét vuông, trên dựng một phiến
đá cao chừng 1 mét có chữ ký của Pan-mơ. Nghe nói phiến đá
này trước đây ở quê ông, mỗi lần về quê vận động tranh
cử, Pan-mơ đều đứng trên phiến đá này để diễn thuyết,
nên người ta mang nó về đây để làm kỷ niệm.</em>"

Phần trích dẫn Báo cáo khảo sát đến đây xin dừng lại,
chủ yếu dùng cách sao chép. Theo tôi nghĩ, phần trích dẫn trên
đã đưa ra một phác thảo khái quát để bạn đọc có thể
hiểu được tình phong trào xã hội dân chủ Thụy-điển cùng
các thành tựu đạt được.

<h2>CẢM TƯỞNG SAU KHI ĐỌC BÁO CÁO KHẢO SÁT</h2>

Trước hết, ta nên nhắc lại những nguyện vọng của Ang-ghen
gửi gắm vào phong trào xã hội chủ nghĩa trong mấy năm cuối
đời ông. Dĩ nhiên, Ang-ghen không thể thấy trước những tình
hình mới sau khi chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa
đế quốc, càng không thể dự kiến được việc Đại chiến
thế giới lần I đã làm cho trọng điểm phong trào XHCN chuyển
từ Tây Âu đến nước Nga và phương Đông lạc hậu về kinh
tế. Sau Cách mạng Tháng Muời Nga, nhiều người đặt hy vọng
vào cách mạng XHCN ở Tây Âu. Khi làn sóng cách mạng đó bị
lắng xuống, vấn đề cách mạng XHCN của các nước tư bản
Tây Âu nên đi con đường nào lại trở nên một vấn đề
thời sự. Phong trào không thể dừng lại, nhưng rõ ràng,
đường lối thì có khác với đường lối của Cách mạng
Tháng Muời Nga.

Chúng ta có đầy đủ lý do để nhớ lại một sách lược quan
trọng do Ang-ghen đề ra năm 1894 - cho rằng giai cấp công nhân
nên "sử dụng quyền bầu cử làm một vũ khí mới của giai
cấp công nhân" và nhấn mạnh "giành quyền bầu cử, giành dân
chủ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
giai cấp vô sản chiến đấu" - sách lược này vẫn thích hợp
với nhu cầu của giai cấp công nhân đang chiến đấu trong các
nước tư bản Tây Âu thời kỳ sau Đại chiến I. Sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Muời Nga, trên thế giới hình thành
sự đối lập gay gắt giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa
xã hội. Trong tình hình đó, dĩ nhiên các đảng XHDC ở các
nước tư bản sẽ gặp nhiều trắc trở phức tạp trong quá
trình vận dụng sách lược đó; điểm này tôi đã trình bầy
ở phần trên. Thế nhưng, phong trào chủ nghĩa xã hội dân chủ
ở Thụy-điển cùng các thành tựu của nó - như Báo cáo Khảo
sát đã giới thiệu với chúng ta - ít nhất cũng cho thấy việc
vận dụng sách lược nói trên vào các nước tư bản Tây Âu
không phải là không thu được thành tích nào. Do đó, giờ đây
ngoài việc quan tâm đến những kinh nghiệm tự thân về CNXH mà
chúng ta thu được (gồm kiểm tra, tổng kết và cải cách tự
thân), đồng thời ta cũng nên có thái độ khoa học, khiêm tốn
khảo sát tình hình phong trào XHCN phương Tây cùng các thành
quả của nó (gồm cả thất bại và thành công). Hai loại kinh
nghiệm này, do tình hình mỗi nước và điều kiện lịch sử
khác nhau, cố nhiên có những cái không thể so sánh được, song
cũng có một số điểm nào đó có thể so sánh được hoặc có
thể tham chiếu được.

Về vấn đề này, thực ra bản thân Báo cáo Khảo sát đã ghi
chép lại các suy nghĩ và cảm tưởng của người khảo sát. Nay
xin trích dẫn như sau:
"<em>Qua chuyến thăm này, chúng tôi đã hiểu biết tương đối
nhiều và tương đối sâu về tình hình của đảng XHDC
Thụy-điển (và đảng Xã hội Áo), mọi người đều cảm
thấy thu hoạch rất lớn. Thế nhưng, rốt cuộc thì CNXH kiểu
Thụy-điển và CNXH kiểu Liên Xô có gì giống nhau và khác nhau
? Rốt cuộc nên phân tích và nhận thức như thế nào về mối
quan hệ giữa Quốc tế II với Quốc tế III, giữa chủ nghĩa
xét lại với chủ nghĩa Lê nin, và giữa đảng Xã hội kiểu
Thụy-điển với đảng Cộng sản kiểu Liên Xô, thì chúng tôi
cảm thấy có chút khó hiểu. Bởi thế, hồi đó, sau khi thăm
Thụy-điển, trên đường về nước nhân ghé qua Paris, chúng
tôi đã tổ chức một cuộc toạ đàm, có mời vài đồng chí
trong đại sứ quán Trung quốc tại Pháp cùng dự. Từ các phát
biểu trong và ngoài toạ đàm, có thể nhận thấy có hai loại
cách nói và cảm tưởng đối với các vấn đề nêu trên.
Thật bất ngờ, hai loại ý kiến này không hẹn mà lại trùng
hợp nhau; cho đến nay tôi vẫn cho rằng đó là những ý kiến
rất đáng để chúng ta suy nghĩ sâu sắc và tham khảo.</em>

"<em>Một loại cảm tưởng cho rằng, đường lối cách mạng,
phương châm và phương pháp cách mạng mà lý luận của Quốc
tế II và lý luận của Quốc tế III cũng như đảng Xã hội
kiểu Thụy-điển và đảng Cộng sản kiểu Liên Xô đã tuân
theo, đều là đúng, hoặc là có lý lẽ cả; sự khác biệt
giữa hai bên chủ yếu là do tình hình trong nước của mỗi bên
không giống nhau. Quốc tế II và đảng Xã hội về cơ bản
đại diện cho các nước tương đối phát triển về xã hội
và kinh tế thời đó. Các nước này đã xây dựng được chế
độ bầu cử dân chủ; mỗi chính đảng đều có thể qua bầu
cử mà nắm được đa số trong nghị viện, rồi quá độ hoà
bình lên nắm chính quyền, từ đó thực thi cương lĩnh và
chính sách của đảng mình. Sau thập kỷ 20 thế kỷ XX, đảng
Xã hội (hoặc đảng Xã hội dân chủ, Công đảng) ở phần
lớn các nước châu Âu đều lên nắm chính quyền thông qua
hình thức bầu cử dân chủ, thậm chí nắm chính quyền khá
lâu, và thực thi các loại chính sách cải cách xã hội; tác
dụng của các đảng này trong việc thúc đảy sự cải lương
và phát triển kinh tế xã hội thậm chí cả chế độ chính
trị ở các nước đó, là không thể bỏ qua, và là sự chứng
minh hùng hồn nhất. Quốc tế III và đảng Cộng sản về cơ
bản đại diện cho một số nước kinh tế xã hội tương đối
lạc hậu hồi đó. Những nước này không những chưa xây dựng
được chế độ bầu cử dân chủ, mà hơn nữa, bọn phản
động nắm chính quyền được vũ trang tận răng lại có quyền
tự do đàn áp các lực lượng cách mạng. Tại các nước này,
nếu không tiến hành đấu tranh vũ trang thì không thể nào lật
đổ được ách thống trị của bọn phản động, không thể
giành được chính quyền, củng cố chính quyền và thực thi
cương lĩnh và chính sách XHCN. Nhưng đối với các nước đó,
về tư tưởng chỉ đạo, có một điểm cần phải làm hết
sức rõ : biện pháp đấu tranh vũ trang để cướp chính quyền
chỉ có tác dụng "bà đỡ" đối với CNXH; đánh giá theo tiêu
chuẩn và yêu cầu của CNXH Mác xít thì trên thực tế các
nước này lại chưa "đạt yêu cầu" trên hai mặt cực kỳ quan
trọng sau đây : (1) Chưa đạt yêu cầu về mặt: CNXH yêu cầu
phát triển cao độ trình độ sức sản xuất; (2) Chưa đạt
yêu cầu về mặt: CNXH yêu cầu phải có nền pháp chế dân
chủ hoàn thiện. Bởi vậy sau khi chính quyền XHCN ra đời
dưới sự "đỡ đẻ" của biện pháp đấu tranh vũ trang, phải
hạ quyết tâm tranh thủ "học bù' hai bài học này (đây chính
là nguyên nhân Trung Quốc tự xác định mình còn đang ở trong
'giai đoạn sơ cấp của CNXH'; nhiệm vụ của giai đoạn này
là để 'học bù' hai bài học nói trên, nhằm chuẩn bị
điều kiện xây dựng thành công CNXH thực sự - chú thích của
Ngô Giang). Nếu có thể nhận thức như vậy về vấn đề này,
thì sau khi cách mạng thành công, xây dựng được chính quyền
mới rồi, trừ phi đất nước bị xâm lược, nếu không, phải
tranh thủ thời cơ tập trung lực lượng học thật nhanh thật
tốt hai bài "học bù" này, dựa vào tính ưu việt của chế
độ XHCN sẽ có khả năng nhanh chóng đảy mạnh phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, đuổi kịp trình độ của các
nước phát triển, xây dựng thành công CNXH thật sự. Nếu
không nhận thức vấn đề như vậy, mà cứ chủ quan cho rằng
chỉ cần qua đấu tranh vũ trang xây dựng chính quyền mới thì
mình đã là một nước XHCN "đủ tiêu chuẩn" rồi; ai không
đồng ý với ý kiến đó, hoặc tỏ ý nghi ngờ gì, thì thẳng
tay kiên quyết loại bỏ, đả kích thậm chí đàn áp họ. Như
vậy không những rất khó xây dựng thành công CNXH "đủ tiêu
chuẩn" thật sự, hơn thế còn có thể trở thành một thứ
chủ nghĩa cực quyền kiểu phong kiến nửa phong kiến, như Liên
Xô thời kỳ Xtalin trước đây. Cuối cùng, không những không
xây dựng thành công CNXH chân chính, mà còn bị quảng đại
quần chúng và cán bộ phản đối, thậm chí vứt bỏ.</em>

<em>Một loại cảm tưởng khác cho rằng, mối quan hệ giữa
Quốc tế III với Quốc tế II, giữa đảng Cộng sản kiểu
Liên Xô với đảng Xã hội kiểu Thụy-điển thì giống như
mối quan hệ giữa đạo Thiên chúa với đạo Tin lành [10], "tổ
tiên" của cả hai đều là một nhà. Chẳng qua, Quốc tế III và
đảng Cộng sản kiểu Liên Xô chủ trương kiên trì tiến hành
mọi cái theo nguyên văn lời của "tổ tiên" không sai một chữ
(cách nói này có thể bàn lại: làm cách mạng XHCN tại các
nước kinh tế lạc hậu thực ra đúng là không theo nguyên văn
lời của "tổ tiên"; cái gọi là khuynh hướng thuyết độc tôn
giáo lý cơ bản [11] thì thể hiện ở một mặt khác. Ghi chú
của Ngô Giang), không được vượt qua, có chút giống như
thuyết độc tôn giáo lý cơ bản người ta thường nói. Còn
Quốc tế II và đảng Xã hội kiểu Thụy-điển thì chủ
trương tiến cùng thời đại, căn cứ theo sự phát triển của
thời đại và sự biến đổi của xã hội mà không ngừng cải
cách đổi mới, nhằm tạo thuận lợi cho việc mở rộng và
thực thi ảnh hưởng và chủ trương của lý luận do 'tổ
tiên' đề xướng, từ đó giành được thắng lợi lớn
hơn.</em>"

Ngày nay, xem ra hai mô hình tiến lên chủ nghĩa xã hội nói trên
đều có tính tất nhiên và tính chính đáng lịch sử. Còn nói
về việc nhìn nhận hai mô hình đó và mối quan hệ giữa chúng
với nhau, thì đây là một vấn đề nên xem xét thận trọng và
nghiên cứu kỹ. Mong rằng trên vấn đề này sẽ nhận được
nhiều cao kiến của các bạn đọc./.

<i>Người dịch và chú giải: Nguyễn Hải Hoành, 19.8.2002</i>

<strong>Nguồn:</strong> Chủ nghĩa Mác và Hiện thực số 3.2002,
Tạp chí hai tháng một kỳ, tiếng Trung quốc. Cơ quan chủ trì
tạp chí: Cục Biên dịch thuộc Trung ương Đảng CSTQ

<strong>Ghi chú:</strong> Tác giả Ngô Giang là giáo sư, nguyên
Viện trưởng Học viện Chủ nghĩa xã hội Trung ương, thuộc
Trung ương Đảng Cộng sản Trung quốc.


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20130127/ngo-giang-khao-sat-chu-nghia-xa-hoi-kieu-thuy-dien),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét