<em>LTS: Góp một tiếng nói trung thực, khách quan là góp phần
vào công việc khó khăn nhất 'hiển lộ sự thật' đang bị sự
giả dối, ngụy tạo lấn lướt. Trong khoa học và quản lý khoa
học thì điều này trở nên cấp thiết và nó khó khăn đến
mức chúng ta tưởng như lịch sử đã lùi về thời điểm mà
câu nói nổi tiếng ra đời trong Phúc âm ' Ngươi là muối mà
không mặn thì lấy gì để làm mặn ngươi?'.</em>
<em>Câu hỏi nghiêng về thế khẳng định đáng buồn này, tiếc
thay, ngày càng chứng tỏ lời vọng đáp còn rất lâu nữa mới
xuất hiện. Nhưng chính vì thế mà tiếng nói trung thực, khách
quan càng trở nên đáng quý và nó cần phải được vang lên
trong đầu mỗi chúng ta như một mệnh lệnh thức, thôi thúc ý
thức công dân hữu trách trước xã hội.</em>
<em>BBT xin chân thành cảm ơn các tác giả: GS Nguyễn Văn Tuấn,
GS Nguyễn Đăng Hưng, GS Chu Hảo, GS Phạm Duy Hiển, GS Nguyễn
Tiến Dũng.... đã có những bài viết tạo nên mạch tư duy này.
BBT rất mong nhận được sự cộng tác của các tác giả cùng
ưu tư về vấn đề này.</em>
<center><img
src="http://phunutoday.vn/dataimages/201211/original/images794272_tiensi2.jpg"
/></center>
<strong>Từ chối chuẩn mực phổ quát trong nghiên cứu khoa
học</strong>
Ở nước ngoài, chức danh tiến sỹ khẳng định anh đã vượt
qua những đòi hỏi gắt gao về học thuật để có thể bắt
đầu theo đuổi sự nghiệp nghiên cứu khoa học, hoặc giảng
dạy đại học. Ở ta, thiếu tấm bằng tiến sỹ chẳng những
không vênh vang được với thiên hạ mà không thể chen chân vào
nhiều chức quan. Có nơi còn quy định 50% cán bộ thuộc thành
ủy quản lý phải có bằng tiến sỹ (TuanVietnam.net, 29/10/2012).
Theo kế hoạch của Bộ GD-ĐT, đến năm 2020 Việt Nam phải có
sáu vạn tiến sỹ để đáp ứng quy mô mở rộng hệ thống
đại học với 450 sinh viên trên một vạn dân, không cần biết
hiện có bao nhiêu người hướng dẫn và phòng thí nghiệm đáp
ứng yêu cầu.
Cách quy hoạch ngược đời này đang lạm phát ồ ạt bằng
tiến sỹ, thực học không cần, chuẩn mực khoa học bị gạt
bỏ, chưa kể bằng dởm, viết luận án thuê, đang tràn lan
(ANTĐ, 28/10/2012).
Ở nước ngoài, giáo sư phải là người sáng tạo ra tri thức
mới qua hàng loạt công trình được đồng nghiệp khắp nơi
trên thế giới trích dẫn và sử dụng. Ở ta, trong Quy chế bổ
nhiệm giáo sư mới sửa đổi gần đây để tiến gần hơn
đến thông lệ quốc tế vẫn chưa có điểm sàn tối thiểu,
chẳng hạn yêu cầu giáo sư phải có một vài bài báo quốc
tế.
Giáo sư ở ta được tính điểm khoa học chủ yếu dựa trên
900 ấn phẩm nội địa, nhưng chưa có tạp chí nào trong số
này, kể cả những tạp chí tiếng Anh, lọt vào Web of Knowledge
của Thomson Reuter (ISI). Đây là cơ sở dữ liệu chứa những
thông tin cơ bản về các công trình khoa học có phản biện
quốc tế đăng trên một vạn tạp chí hàng đầu, bao quát mọi
ngành khoa học, kỹ thuật, xã hội, nhân văn và nghệ thuật.
Tuy không đâu quy định chính thức, song ISI được giới khoa
học khắp nơi xem như chuẩn mực, một bộ lọc bảo đảm
chất lượng đội ngũ nghiên cứu khoa học, qua đây khẳng
định chỗ đứng của nhà khoa học trên mặt tiền thế giới.
Các tổ chức quốc tế cũng dựa vào số bài báo có phản
biện quốc tế và số bằng sáng chế để xếp hạng đại
học, trình độ khoa học và năng lực cạnh tranh của các quốc
gia. Cách làm này chưa thể xem là tuyệt hảo, song tương tự
như GDP, tuy còn khiếm khuyết vẫn được dùng làm thước đo
sức mạnh của nền kinh tế. Cho nên né tránh các diễn đàn
khoa học quốc tế chẳng khác nào vận động viên cấp quốc
gia chê đấu trường Olympic.
Mãi gần đây, công bố quốc tế mới được dùng làm căn cứ
để đánh giá các đề tài khoa học cơ bản. Nhưng công bố
quốc tế lại không đòi hỏi đối với các nghiên cứu ứng
dụng, kỹ thuật, xã hội, nhân văn chiếm hầu hết ngân sách
và nguồn nhân lực khoa học của đất nước, lại có tác
động trực tiếp đến quốc kế dân sinh.
Các ngành xã hội nhân văn chiếm ba phần tư số ấn phẩm khoa
học nội địa hầu như không có mặt trên các tạp chí quốc
tế. Các kết quả nghiên cứu này đúng sai đến đâu, rất khó
biết. Trong nhiều thập kỷ gần đây diện mạo khoa học xã
hội nhân văn trên thế giới đã thay đổi hoàn toàn nhờ có
sự xâm nhập của toán học và các khoa học tự nhiên.
Nhiều hướng nghiên cứu đa ngành xuất hiện, khoa học tự
nhiên và xã hội đan xen nhau, không thấy đâu phân chia riêng
rẻ như ở ta. Khoa học xã hội nhân văn của ta đang lạc lỏng
khỏi thế giới.
Vì sao cho đến nay các diễn đàn khoa học quốc tế không
được chấp nhận? Trong số các giáo sư được bổ nhiệm mấy
năm gần đây chỉ những người làm Toán và Vật lý có 4-5 bài
báo quốc tế trở lên, đa số những giáo sư nghiên cứu ứng
dụng, kỹ thuật và xã hội, nhân văn chỉ công bố công trình
trong nước.
Nhiều người trong số này lập luận rằng nghiên cứu ứng
dụng cốt mang lại lợi ích kinh tế thiết thực, cần gì
những mục tiêu hàn lâm. Lập luận này phù hợp với quan
điểm nhiều người trong giới quản lý và các cơ quan cấp kinh
phí, nên có tác động đến chính sách.
Trên thực tế rất khó đánh giá một công trình nghiên cứu
mang lại "lợi ích kinh tế thiết thực" bằng cách nào (xem
phần sau). Vả lai, trong số hàng triệu công trình nghiên cứu
hàng năm trên thế giới chỉ một số rất ít có tiềm năng
trực tiếp tạo ra những ứng dụng nào đó.
Trong khi đó, nghiên cứu khoa học có sứ mạng tìm ra tri thức
mới, mà cái mới lại rất dễ khẳng định qua bài báo có
phản biện quốc tế. Những khám phá trong khoa học cơ bản là
tri thức mới đã đành, những quy luật tự nhiên, xã hội ở
Việt Nam mà thế giới chưa biết, những phiên bản ứng dụng
có thêm phát hiện mới trong điều kiện cụ thể ở nước ta
… vẫn cứ rất mới với thế giới, miễn là nhà khoa học
phải am tường mọi kết quả nghiên cứu và phương pháp luận
hiện đại nhất, từ đó tìm được chỗ đứng dành cho kết
quả nghiên cứu của mình trên mặt tiền khoa học.
Cũng phải thừa nhận rất khó tìm được chỗ đứng trên mặt
tiền khoa học nếu không có thiết bị nghiên cứu, phòng thí
nghiệm và hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Chính khó khăn này
giải thích tại sao công bố quốc tế của Việt Nam nghiêng
hẳn về Toán và các môn lý thuyết.
Số bài báo quốc tế về khoa học thực nghiệm, ứng dụng và
kỹ thuật quá ít, không tương xứng với quy mô nhân lực và
đầu tư, và ít hơn hẳn các nước xung quanh như Thái Lan,
Malaysia.
<strong>Bước đột phá trong chiến lược KH-CN 2011-2020</strong>
Gần đây lãnh đạo Bộ KHCN đã tạo ra bước đột phá rất
đáng mừng, chính thức khẳng định công bố quốc tế là
thước đo năng lực nghiên cứu khoa học của đất nước.
Chiến lược KH-CN 2011-2020 (sau đây gọi tắt là Chiến lược)
nêu rõ mục tiêu (thứ hai) tăng số lượng công bố quốc tế
từ các đề tài sử dụng ngân sách nhà nước trung bình
15-20%/năm. Mục tiêu thứ năm lại ghi rõ đến năm 2020 hình
thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và ứng dụng đạt trình
độ khu vực và thế giớí.
Tăng số lượng công bố quốc tế 15-20%/năm là mục tiêu hoàn
toàn khả thi, Ngay trong mười năm 2000-2009 chúng ta đã đạt
tốc độ 15-16%/năm, ngang với Thái Lan và Malaysia, chỉ kém Trung
Quốc (20%/năm), nhưng nhanh hơn Philippines và Indonesia (5,7%/năm).
Song số lượng công bố quốc tế chưa phản ảnh đầy đủ
năng lực nghiên cứu và hiệu quả đầu tư cho khoa học của
một quốc gia. Phân tích các công bố quốc tế của Việt Nam
và 11 nước Đông Á cho thấy chất lượng các bài báo (dựa
trên chỉ số trích dẫn trung bình) của Việt Nam còn thấp,
nhiều ngành trực tiếp liên quan đến quốc kế dân sinh chưa
có công bố quốc tế, và phần lớn đồng tác giả Việt Nam
không đóng vai trò chính trong các công trình.
Số công trình do nội lực chỉ chiếm 30%, vào loại thấp nhất
khu vực, so với 90% ở Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan (xem bài "A
comparative study of research capability of East Asian countries and
implication for Vietnam" đăng trên Higher Education, Vol. 60, trang
615-625, bản dịch tiếng Việt trên Tia Sáng, 22/06/2010).
Bước đột phá trong "Chiến lược" sẽ đưa chúng ta thoát
khỏi tình trạng lạc lõng bấy lâu nay để sớm sánh vai với
các nước, nhanh chóng tiếp cận mặt tiền khoa học. Song muốn
đạt được các mục tiêu trong "Chiến lược" cần có
những đột phá mới để khoa học Việt Nam khỏi bị mắc kẹt
trong những tư duy, cơ chế và cơ cấu tổ chức bất cập hiện
nay.
<strong>Hành chính hóa hoạt động nghiên cứu khoa học</strong>
Chỉ bám vào nguồn kinh phí duy nhất từ ngân sách nhà nước,
lại thiếu chuẩn mực nghiêm túc, hoạt động nghiên cứu khoa
học rơi vào tình trạng hành chính hóa, do các quan chức hành
chính cầm cân nẩy mực.
Họ là những người chưa hề nghiên cứu khoa học, hoặc nếu
xuất thân từ giới khoa học, họ sẽ ném ngay "hòn gạch gõ
cửa" sau khi lọt vào chốn quan trường (Lỗ Tấn, Khổng Phu
tử ở Trung Quốc đời nay, bản dịch Phan Khôi). Đối với
nhiều người trong số họ, khoa học giờ đây chỉ còn là
chiếc áo khoác bên ngoài, bên trong là danh, quyền và tiền,
những cạm bẫy rất ít ai thoát khỏi.
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học đặt ra luật chơi hành
chính. Đề tài các cấp vận hành theo kiểu hợp đồng kinh tế
như ra đầu bài, đấu thầu, tuyển chon, kiểm tra tiến độ
v.v…Kinh phí được quyết toán dựa trên số ngày công khai báo
cho từng thành viên tham gia, số trang dịch thuật, tiền thuê
mướn nhân công, vật tư, hóa chất tiêu hao v.v…
Sản phẩm phải mục sở thị như quy trình, quy phạm, tiêu
chuẩn nhà nước, phần mềm, số cơ sở sử dụng các kết
quả v.v.... Để được nghiệm thu lại phải có đầy đủ các
chứng từ, hóa đơn thanh toán hợp "lệ". Chỉ có bài báo
quốc tế là không đòi hỏi.
Bởi bài báo quốc tế yêu cầu cao hơn hẳn. Đó là phát hiện
mới (new findings), tính độc đáo (originality), góp phần đẩy
hướng nghiên cứu lên phía trước (significant advances in field)
và phương pháp luận hiện đại (state-of- the art approach).
Không cần hội đồng đông người, chỉ một trong hai phản
biện lắc đầu, bài báo sẽ bị từ chối. Rõ ràng từ đề
tài được Bộ KH-CN nghiệm thu đến bài báo quốc tế được
chấp nhận là một khoảng cách rất xa, đầy thách thức,
nhiều người đành bỏ cuộc vì không còn kinh phí và thời
gian, họ phải lao tiếp vào đề tài mới để tồn tại.
Song những đề tài, luận án nói trên lại được dùng làm căn
cứ bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư. <em>Theo Quy chế, giáo sư
phải hướng dẫn chính ít nhất hai nghiên cứu sinh đã bảo
vệ thành công luận án tiến sĩ, chủ trì ít nhất một đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ hoặc đề tài cấp cao hơn
đã nghiệm thu với kết quả từ đạt yêu cầu trở lên.</em>
Các tân giáo sư sẽ được phân vai mới trong hệ thống hành
chính, chủ trì các đề tài, dự án, chương trình nhà nước,
có tiếng nói nặng cân hơn trong các hội đồng xét duyệt và
nghiệm thu. Cuộc chơi trên sân nhà có thêm vai diễn mới, không
thấy hồi kết.
Hành chính hóa nghiên cứu khoa học bộc lộ nhiều lỗ hổng
làm nơi ẩn chứa cơ chế xin cho, ban phát, vốn là sản phẩm
của thời bao cấp. Thời nay, mỗi đề tài, dự án cấp Bộ
trở lên thường được cấp từ hàng trăm triệu đến hàng
chục tỷ đồng, nên không còn ai ban phát vô tư nữa, kẻ cho
người nhận đều phải biết hành xử theo "luật thị
trường".
Có hội đồng khoa học để xét duyệt và nghiệm thu, nhưng
hội đồng lại do chính bộ máy hành chính lập ra để dễ
dàng hợp thức hóa các ý định của mình. Hội đồng chỉ bàn
về học thuật không tham gia xét duyệt kinh phí cho đề tài,
việc này thường được dàn xếp giữa người ban phát và
người nhận. Tiếng nói chính trực thường là thiểu số và
sẽ không có cơ hội trong các lần sau.
Dễ hiểu tại sao nạn gian dối – điều tối kỵ nhất trong
khoa học - lại lên ngôi trong những năm gần đây. Khai gian, khai
khống các khoản chi là chuyện thường tình. Mọi người đều
gian dối nên không ai phải xấu hổ. Bịa số liệu, đạo văn,
thuê viết luận án …ngày càng phổ biến.
Nhóm lợi ích hình thành qua các đề tài dự án, che chắn nhau
rút ruột kinh phí nhà nước. Phi chuẩn mực và hành chính hóa
làm cho môi trường học thuật ở nước ta ngày một tù mù,
vàng thau lẫn lộn, nghiên cứu khoa học trở nên tùy tiện,
đề tài nào, công trình nào cũng xem là nghiên cứu, hội thảo
nào cũng có thể gán thêm mác khoa học. Báo chí và xã hội
không phân biệt được thực và giả, nhà khoa học đích thực
với những người khoác áo khoa học.
Từ môi trường học thuật này không thể xuất hiện đỉnh cao
mà chỉ có số đông làng nhàng, thiếu chuyên nghiệp. Lao vào
quan trường là con đường tiến thân độc đạo, số người
theo đuổi học thuật đến cùng hiếm dần, thành phần ưu tú
ngày càng vắng bóng trong lãnh đạo các viện nghiên cứu,
trường đại học và ngay ở những cơ quan đầu não về KH-CN.
Rất đông tài năng trẻ được đào tạo bài bản ở nước
ngoài không tìm thấy đất dụng võ khi trở về nước. Thực
trạng này liệu các nhà lãnh đạo có biết?
<strong>Không thành công trong nội địa hóa công nghệ </strong>
Nhà nước có chủ trương nội địa hóa công nghệ, nhưng
thiếu quyết sách. Hàng điện tử và công nghệ cao là mũi
nhọn xuất khẩu, dự kiến đến 2020 kim ngạch lên đến 45%
để minh chứng cho mục tiêu công nghiệp hóa theo hướng hiện
đại của đất nước. Riêng chín tháng đầu năm 2012 kim ngạch
xuất khẩu lên đến 15 tỷ USD, chiếm 18% tổng kim ngạch.
Song phần lớn là sản phẩm từ các doanh nghiệp nước ngoài,
và đằng sau những con số ấn tượng trên là một sự thật ê
chề: "trong mặt hàng này các doanh nghiệp Việt Nam nhập 100%
linh kiện nước ngoài…, phần nội địa hóa chỉ là vỏ
nhựa, thùng các tôn và xốp" (SGGP, 25/9/2012).
Về cơ khí, nội địa hóa công nghiệp ô tô trong hơn hai thập
kỷ qua chỉ đạt vài phần trăm (Vneconomy, 03/07/2012), xem như
thất bại. Công bằng mà nói, thành tích nội địa hóa công
nghệ ấn tượng nhất chính là mấy con tàu trọng tải 50 nghìn
tấn được VINASHIN cho hạ thủy và xuất khẩu. Nhưng VINASHIN
vỡ nợ, gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước. Các học
giả có dịp ném đá vào đống đổ nát mà ít ai quan tâm nhặt
ra từ đó bài học nội địa hóa công nghệ thành công hay
thất bại.
Có nhiều lợi thế hơn VINASHIN, nhưng TKV và EVN cũng không chịu
nội địa hóa công nghệ. Theo Quyết định 167/2007/QĐ- TTg, hàng
chục nhà máy chế biến alumina sẽ được xây dựng từ năm
2007 dến 2025 trên Tây Nguyên, nhưng không có từ ngữ nào nhắc
đến lộ trình nội địa hóa công nghệ, trong khi Việt Nam sở
hữu một tiềm năng bô xít lớn thứ năm thế giới.
Chính phủ cũng không yêu cầu TKV hứa hẹn đến bao giờ sẽ
có công nghệ Việt Nam. Mẻ alumina đầu tiên đang chậm tiến
độ hơn hai năm, và trên thực tế cả đại dự án bô xit đang
gặp bế tắc, chính phủ phải rút quy mô chỉ còn hai nhà máy
thí điểm. Một kết quả nhãn tiền, bởi không chỉ công
nghệ, mà cả khoa học cũng đứng ngoài. Bao nhiêu bài toán kinh
tế, kỹ thuật, môi trường, xã hội … chưa được nghiên
cứu thấu đáo trước khi ra Quyết định.
Hàng chục nhà máy điện chạy than được EVN xây dựng trên
khắp cả nước đều rơi vào tay nhà thầu nước ngoài. Không
biết đến bao giờ mới thấy tua bin và máy phát điện do
người Việt tự chế tạo. Trong khi đó, EVN đi tắt đến
thẳng điện hạt nhân, đề xuất đưa vào vận hành hàng chục
lò phản ứng từ 2020 đến 2030.
Nhiều ý kiến phản bác hoặc đề nghị đình hoãn kế hoạch
mạo hiểm này sau khi xảy ra thảm họa Fukushima. Nhưng chúng
đều lọt thỏm trong luồng dư luận phải làm điện hạt nhân
mới có quốc phòng mạnh, mới có nước Việt Nam hiện đại
vào năm 2020.
Thành ra hiện đại hay không là ở người tiêu dùng. Nói nôm
na, với chiếc iphone 5S bên tay lái Mercedes ngày một phổ biến
trên các xa lộ nước ta, người Việt cũng hiện đại không
kém người Mỹ, người Đức. Đó là nhờ ta biết đi tắt đón
đầu, đúng như lời một vị Bộ trưởng dõng dạc thuyết
phục Quốc Hội trước đây ba năm: "xây dựng đường sắt
cao tốc Bắc –Nam chính là phương án đi tắt đón đầu lên
thẳng hiện đại".
<strong>Không có bằng sáng chế</strong>
Không có sản phẩm từ công nghệ Việt Nam, bằng sáng chế
cũng không có nốt. Việt Nam hầu như không có bằng sáng chế
đăng ký ở Mỹ (US Patent and Trademark Office, US PTO). Trong khi đó,
năm 2011 Indonesia và Philippines sở hữu hàng chục bằng, Thái
Lan, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc còn nhiều hơn gấp bội.
Báo chí đổ lỗi cho 9000 giáo sư/ phó giáo sư (VietNamNet,
5/11/2012) khiến mọi người có dịp mang các vị ra đàm tiếu
mà không biết rằng nghiên cứu khoa học khác nghiên cứu công
nghệ. Sản phẩm nghiên cứu khoa học là tài sản chung cho mọi
người cùng sử dụng, bằng sáng chế là bí quyết công nghệ
của doanh nghiệp được bảo vệ và mua bán thông qua cơ quan
đăng ký. Chính doanh nghiệp, chứ không phải tác giả, phải
bỏ tiền ra để đăng ký bằng sáng chế và hưởng lợi từ
việc mua bán nầy.
Đâu phải làm thơ, nhà khoa học lấy đâu ra bằng sáng chế khi
doanh nghiệp không yêu cầu. Thiếu bằng sáng chế chứng tỏ
trình độ quá thấp của nền công nghiệp nước nhà. Chúng ta
chỉ du nhập công nghệ từ nước ngoài để sản xuất, mà
không nội địa hóa để có công nghệ của mình. Nếu cần thay
thế công nghệ, doanh nghiệp sẽ đi mua, hơn là đầu tư nghiên
cứu.
<strong>Tư duy ăn xổi </strong>
Dù sao, thiếu bằng sáng chế cũng đặt ra dấu hỏi về tính
thiết thực và hiệu quả của nghiên cứu khoa học. Ở Việt
Nam hai thuật ngữ khoa học và công nghệ luôn gắn với nhau,
thậm chí đồng nhất với nhau trong cùng một khái niệm như
thị trường khoa học công nghệ, hội chợ khoa học công nghệ
v.v…
Chính sự nhập nhằng này trong tư duy làm cho nghiên cứu công
nghệ đích thực vẫn là bãi đất trống. Đây là hệ quả
của tư duy ăn xổi, muốn nghiên cứu khoa học phải cho ra ngay
sản phẩm trên thị trường.
Khoa học và công nghệ hỗ trợ lẫn nhau, nghiên cứu khoa học
tạo ra mảnh đất cho công nghệ phát triển, và ngước lại.
Tuy nhiên ngay trong số hàng triệu bài báo khoa học công bố
hàng năm trên thế giới, rất ít công trình có tiềm năng tạo
ra công nghệ hay dịch vụ.
Nếu có, còn phải trải qua nhiều khâu, đòi hỏi thời gian,
công sức và kinh phí. Kết quả nghiên cứu phải được kiểm
nghiệm và củng cố bằng nhiều nghiên cứu mới tiếp theo,
bảo đảm chất lượng (QA), prototype, quy mô pilot, thử sai (trial
by error) nhiều lần trước khi đưa ra ứng dụng.
Tư duy ăn xổi bỏ qua các khâu quan trọng này, nên nghiên cứu
khoa học sinh ra những đứa trẻ đẻ non, chết yểu, làm thất
thoát nguồn kinh phí lớn của nhà nước.
Bao nhiêu đề tài chế tạo thiết bị với tính năng "chẳng
kém nước ngoài", nhưng chỉ là đơn chiếc mang trưng bày ở
triển lãm, hội chợ, sau vài năm mất hút. Số trẻ đẻ non,
chết yểu này nhiều lắm, cứ chọn ra một số đề tài, dự
án lớn được Bộ KHCN nghiệm thu từ 5 đến 10 năm trước
đây sẽ thấy ngay.
Tư duy ăn xổi không thể tạo ra những đỉnh cao khoa học,
những hướng nghiên cứu mũi nhọn có thể sớm bứt phá lên
mặt tiền khoa học thế giới. Các quan chức muốn thấy thành
tích ngay trong nhiệm kỳ của mình, lại phải ban phát, rải
đều quả thực cho mọi người, năm nay anh có đề tài, sang
năm đến lượt anh khác, người làm khoa học giống như dân du
canh, không chuyên sâu vào một hướng nhất định.
Trong khi đó, khoa học phát triển được nhờ tích lũy và kế
thừa, công trình đẻ ra công trình, thành công lẫn thất bại
trong công trình trước đều để lại dấu ấn trong các công
trình sau. Biết tích lũy và kế thừa, tri thức sẽ tăng tốc
theo cấp số nhân, được lưu lại trong đầu con người qua các
thế hệ, trở thành một dạng chứng khoán (stock) của các doanh
nghiệp, thành truyền thống của phòng thí nghiệm và hình hài
của nền khoa học.
Qua cơ chế tích lũy và kế thừa, người tài mới xuất hiện,
người khác đứng trên vai họ (stand on the shoulder of giants) để
nhìn rõ chân trời phía trước. Nhờ đó các nhóm nghiên cứu
mạnh được hình thành và phát triển, các thế hệ khoa học
sinh ra và trưởng thành nối tiếp nhau.
Theo "Chiến lược", năm 2020 nước ta sẽ có 60 nhóm nghiên
cứu mạnh. Hy vọng họ, và những người lãnh đạo của họ,
sẽ làm nên hình hài nền khoa học nước nhà. Thế giới sẽ
biết khoa học Việt Nam qua họ. Các thế hệ tương lai sẽ nhớ
đến thế hệ hiện nay qua các công trình khoa học của họ.
<strong>Mấy bước đột phá thay lời kết</strong>
Chỉ cần cố gắng làm giống như các nước khác, KH-CN Việt
Nam sẽ thoát ra khỏi tình trạng hiện nay. Nghiên cứu khoa học
chỉ được xem là đích thực khi tìm ra tri thức mới. Những
người cầm quân, như giáo sư, chỉ được bổ nhiệm khi có
chỗ đứng nhất định trên mặt tiền khoa học.
Công bố quốc tế phải được dùng làm thước đo thay cho các
chuẩn mực hành chính. Làm được những việc này sẽ tạo ra
bước đột phá lớn đẩy lùi tệ nạn xin cho, ban phát và
những tiêu cực trong môi trường học thuật hiện nay.
Sản phẩm nghiên cứu khoa học là đỉnh cao văn hóa, làm tăng
vốn tri thức của đất nước, tác động đến chính sách và
nâng cao mặt bằng dân trí, từ đó tạo nên sức mạnh tác
động đến phát triển kinh tế xã hội. Trường đại học là
nơi gánh vác tốt nhất sứ mạng này.
Từ trường đại học tri thức khoa học lan tỏa ra cộng
đồng, do đó phải tạo điều kiện tốt nhất để sinh viên
– những người lan tỏa tri thức – được tiếp thu tri thức
mới trực tiếp từ những nhà khoa học có chỗ đứng trên
mặt tiền khoa học.
Nghĩa là phải ưu tiên tập trung nghiên cứu khoa học về các
trường đại học và xây dựng lên tại đây những nhóm nghiên
cứu mạnh. Chúng ta đã bỏ lỡ bao nhiêu cơ hội rồi, giờ
đây không được chậm trễ nữa.
Nghiên cứu công nghệ khác với nghiên cứu khoa học và cần có
chỗ đứng trong phát triển kinh tế. Nên cho qua đi niềm tự
hào Việt Nam là nơi thu hút vốn FDI, ODA nhiều nhất, thị
trường bán lẻ hấp dẫn nhất….
Không thể mãi mãi làm người tiêu thụ mà phải bước lên
bục cao hơn của những người tạo ra tiện ích cho xã hội. Con
đường duy nhất là nội địa hóa công nghệ, sau đó tiến lên
đổi mới để cạnh tranh.
Cho nên rất cần một quyết sách từ phía nhà nước, đừng
để doanh nghiệp mãi chạy theo lợi nhuận trước mắt mà quên
lợi ích lâu dài của dân tộc. Và sau quyết sách là tầm nhìn
và trách nhiệm của những nhà lãnh đạo KH-CN. Bởi tìm ra cách
đi hợp lý trước trăm bề ngổn ngang hiện nay, thật không dễ
chút nào.
<strong><div class="rightalign">GS Phạm Duy Hiển</div></strong>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20121120/pham-duy-hien-khoa-hoc-vn-ket-trong-phi-chuan-muc-tu-duy-an-xoi),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét