Nguyễn Gia Kiểng - Báo động: họ đã quyết định!

Dư luận gần như đang bị cuốn hút vào những chuyện thời
sự nóng bỏng, như thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận lỗi
nhưng không từ chức; tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khóc nhưng
vẫn quyết tâm duy trì bàn tay sắt của đảng; Điếu Cày và
Tạ Phong Tần bị xử những bản án quá dã man; nữ sinh Phương
Uyên bị bắt; hai nhạc sĩ Việt Khang và Trần Vũ Anh Bình bị
xử 4 năm và 6 năm chỉ vì làm nhạc v.v. Phải rất cảnh giác.
Những sự việc ấy đều rất đáng quan tâm và phẫn nộ,
nhưng chúng cũng có thể đánh lạc sự chú ý của chúng ta
khỏi điều quan trọng hơn nhiều, rất nhiều. Trong khi chúng ta
xôn xao bàn luận thì một cách lặng lẽ đảng cộng sản đã
quyết định chính sách đối ngoại, và chọn lựa của họ sẽ
là một thảm kịch cho đất nước trong nhiều năm nếu không
gặp chống đối thực mạnh.

<h2>Chế độ chính trị và chính sách đối ngoại</h2>

Chế độ chính trị quyết định chính sách đối ngoại và
đồng minh. Điều này ngay cả những người bình dân trong mọi
quốc gia đều biết. Tục ngữ ta không thiếu những câu như
"<em>trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa</em>" (hay ngưu tầm ngưu mã
tầm mã), "<em>nồi nào úp vung ấy</em>". Người Pháp có câu
<em>ceux qui se ressemblent s'assemblent</em>. Dân tộc nào cũng có
những câu tục ngữ để chỉ sự kiện những người cùng bản
chất tự nhiên liên kết với nhau. Đó là sự hiểu biết dân
gian.

Sự kiện này - chế độ chính trị quyết định chính sách
đối ngoại và đồng minh - cũng rất phù hợp với lý luận và
kinh nghiệm chính trị. Chế độ chính trị nào cũng đặt nền
tảng trên một ý thức hệ. Ý thức hệ, hay chủ nghĩa, có
thể ngu xuẩn và độc hại nhưng vẫn có. Cùng với những giá
trị được đề cao, nó qui định những mục tiêu dài hạn
của chế độ và những phương thức để đạt tới. Các chế
độ cộng sản còn lại, sau khi chủ nghĩa Marx phá sản, đề
cao những giá trị không thú nhận như sự giàu có, xa hoa,
quyền lực và sự thống trị; mục tiêu của chúng là xây
dựng những chính quyền thực mạnh để cầm quyền thực lâu,
phương thức cai trị của chúng là bưng bít, dối trá và bạo
lực. Các chế độ dân chủ đề cao những giá trị tự do cá
nhân, xã hội dân sự, thông tin, ý kiến, sáng kiến, sự lương
thiện và sự liên đới; mục tiêu của chúng là xây dựng một
xã hội giàu mạnh của những cá nhân đầy quyền lực và bình
đẳng trước pháp luật, phương thức cai trị là nhà nước
pháp trị và đồng thuận. Người ta không thể hợp tác chặt
chẽ và lâu dài với nhau khi theo đuổi những mục tiêu xung
đột bằng những phương thức trái ngược. Thực tế là bốn
nước cộng sản còn lại –Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc
Triều Tiên- dù đều khinh ghét nhau cũng vẫn là những đồng
minh; vào lúc này ba nước lên tiếng ủng hộ chế độ độc
tài khát máu Al-Assad tại Syria đều là những nước độc tài:
Nga, Trung Quốc và Venezuela. Cả ba nước này cũng đã từng bênh
vực chế độ Gaddafi.

<h2>Làn sóng dân chủ thứ tư và cuối cùng</h2>

Lịch sử thế giới có thể nhìn như là cuộc hành trình của
con người về tự do, để tự giải thoát khỏi sự nghèo đói,
các bệnh tật và các bạo quyền. Và vì dân chủ là phương
thức tổ chức xã hội phù hợp nhất để thể hiện tự do
nên lịch sử thế giới cũng là cuộc hành trình của các dân
tộc về dân chủ. Đó đã là một cuộc hành trình khó khăn vì
mới cách đây hơn hai thế kỷ trên thế giới đã chỉ có
những chế độ chuyên chính. Chúng đã phản ứng dữ dội, cả
bằng bạo lực lẫn lý luận, khi dân chủ xuất hiện. Dân chủ
đã không thể tiến một cách đều đặn mà theo từng đợt mà
các nhà nghiên cứu gọi là những làn sóng dân chủ. Mỗi làn
sóng nhắm bác bỏ một ý thức hệ, hay chủ nghĩa, và sau đó
đánh đổ một số chế độ lấy chủ nghĩa này làm nền
tảng. Giữa hai làn sóng các nước dân chủ phải thỏa hiệp
và sống chung với các chế độ độc tài chờ tình thế chín
muồi cho một cuộc tiến công mới.

Cho đến nay thế giới đã trải qua ba làn sóng dân chủ. Làn
sóng dân chủ đầu tiên bắt đầu với cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ
năm 1776 và Cách Mạng Pháp 1789 và nhắm lật đổ các chế độ
quân chủ tuyệt đối dựa trên thần quyền. Làn sóng dân chủ
thứ hai đã bắt đầu cùng với Thế Chiến II và nhắm đánh
đổ chủ nghĩa quốc gia sô vanh. Làn sóng dân chủ thứ ba,
khởi đầu từ giữa thập niên 1970, xóa bỏ chủ nghĩa cộng
sản và đánh đổ Liên Xô, hầu hết các chế độ cộng sản
và các chế độ độc tài sống nhờ chiêu bài chống cộng (1).

Đặc điểm của làn sóng dân chủ thứ ba là nó đã hoàn toàn
diễn ra trong hòa bình. Vũ khí nguyên tử và những quân đoàn
hùng hậu của Minh Ước Vacxava đã không bảo vệ được Liên
Xô và các chế độ cộng sản Đông Âu bởi vì chủ nghĩa
Mác-Lênin đã sụp đổ trong đầu và trong tim các dân tộc. Nó
đã có thể tiếp tục và cuốn đi luôn tất cả các chế độ
độc tài, nhưng nó đã khựng lại khi tại hai nước dân chủ
cột trụ Mỹ và Pháp Bill Clinton và Jacques Chirac lên cầm quyền
và theo đuổi chính sách đối ngoại thực tiễn, chủ trương
hợp tác thay vì tiếp tục tạo áp lực trên Trung Quốc và các
chế độ độc tài còn lại. Chủ nghĩa thực tiễn sử dụng
lý luận của chủ trương áp lực mềm, hay diễn biến hòa
bình, theo đó những trao đổi kinh tế và văn hóa có tác dụng
phá bỏ bức tường bưng bít che chắn cho các chế độ cộng
sản, thức tỉnh các dân tộc, kích thích những đòi hỏi nhân
quyền và sau cùng tạo ra "diễn biến hòa bình", nghĩa là thay
đổi chế độ trong hòa bình. Tuy vậy, khác với chủ trương
diễn biến hòa bình, chính sách đối ngoại thực tiễn chỉ gia
tăng hợp tác và trao đổi tối đa với các nước như Trung
Quốc và Việt Nam mà không đi kèm với một áp lực nào về
nhân quyền. Kết quả là nó đã giúp cho các chế độ này tăng
trưởng kinh tế mà vẫn duy trì chế độ toàn trị (2).

Nhưng rồi thời gian và cuộc cách mạng truyền thông đã làm
công việc của chúng. Sự phát triển của các phương tiện
truyền thông, đặc biệt là mạng Internet, đã làm cho trái
đất nhỏ lại và đem các dân tộc tới gần nhau. Các dân tộc
trong các quốc gia tự do nhìn thấy sự thô bạo mà đồng loại
của họ phải chịu đựng dưới các chế độ độc tài và
đòi chính quyền của họ phải can thiệp, các dân tộc dưới
các chế độ độc tài nhìn thấy cuộc sống trong các nước
dân chủ và đấu tranh đòi thay đổi. Và làn sóng dân chủ
thứ tư đã tới. Một cách ngoạn mục cả khối Hồi Giáo Trung
Đông và Bắc Phi đã đột ngột chuyển động về dân chủ;
bốn chế độ độc tài Tunisia, Ai Cập, Yemen và Libya đã sụp
đổ, chế độ độc tài Syria đang sống những ngày cuối cùng,
các chế độ khác đang cố gắng tự chuyển hóa. Sự thay đổi
ngoạn mục này không được làm ta quên rằng làn sóng dân chủ
mới này thực ra đã bắt đầu trước tại Đông Nam Á, nghĩa
là ngay sát chúng ta. Các chế độ dân chủ hình thức tại
Malaysia và Singapore đã trở thành những nền dân chủ thực
sự. Chính quyền quân phiệt Thái Lan đã nhường chỗ cho một
chính quyền xuất phát từ bầu cử tự do. Miến Điện cũng
đã bắt đầu tiến trình dân chủ hóa. Áp lực dân chủ cũng
đã tăng lên rất mạnh mẽ tại Nga và các nước thuộc Liên
Xô cũ. Làn sóng dân chủ này cũng tác động ngay tại chính các
nước dân chủ phương Tây. Tại đây nó đòi hỏi xét lại và
cải thiện dân chủ để dân chủ lành mạnh hơn và đáng mong
ước hơn, để dân chủ không đi đôi với đầu cơ, chênh
lệch giàu nghèo, nợ công và thâm thủng mậu dịch. Nó là một
làn sóng dân chủ toàn cầu. Có mọi triển vọng nó sẽ là làn
sóng dân chủ cuối cùng bởi vì các chế độ độc tài còn
lại không nhiều, không mạnh và nhất là không còn nền tảng
ý thức hệ nào. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị lố bịch hóa và
bị đào thải nhưng các chế độ độc tài còn lại không tìm
ra được chủ nghĩa nào để thay thế.

<h2>Điều đúng trong mọi lúc càng đúng hơn trong lúc này...</h2>

Trong hơn hai thế kỷ dân chủ đã tiến những bước rất dài
dù bị chống trả. Khi làn sóng dân chủ đầu tiên xuất hiện
trên cả thế giới chỉ có bốn nước dân chủ là Hoa Kỳ, Anh,
Pháp và Hà Lan; mà cũng không phải là những nước dân chủ
lành mạnh vì Hoa Kỳ còn có chế độ nô lệ, ba nước còn
lại là những đế quốc thực dân chà đạp nhân quyền tại
các thuộc địa. Một thế kỷ rưỡi sau, khi làn sóng dân chủ
thứ hai bắt đầu cùng với Thế Chiến II, cũng mới chỉ có
khoảng mười nước đáng được tạm gọi là dân chủ trên
tổng số gần 80 nước độc lập. Vào năm 1974 khi làn sóng dân
chủ thứ ba bắt đầu tại Portugal có 40 nước dân chủ trên
tổng số 150 nước. Sau làn sóng dân chủ thứ ba, vào năm 1996,
đã có 120 nước dân chủ trên tổng số 194 nước. Từ đó
phong trào dân chủ đã khựng lại do hậu quả của chủ nghĩa
đối ngoại thực tiễn như đã nói ở phần trên. Những con
số này cho thấy cho tới một ngày rất gần đây dân chủ vẫn
còn là một hiện tượng thiểu số và do đó phải thỏa hiệp
để sống chung với các chế độ độc tài. Nhưng tình thế
đã thay đổi hẳn với làn sóng dân chủ thứ tư mà chúng ta
đã và còn đang chứng kiến.

Vào năm 2012 này trên thế giới chỉ còn khoảng mười nước ra
mặt chống dân chủ. Nếu kể cả các chế độ "dân chủ gian
trá" như Nga và một số nước thuộc Liên Xô cũ thì những
chế độ chống dân chủ cũng rất ít ỏi, trong đó cũng chỉ
có bốn nước Trung Quốc, Việt Nam, Cuba và Bắc Cao Ly là còn
công khai khẳng định chế độ độc đảng. Không những ít mà
còn yếu và không quan trọng; trọng lượng kinh tế gộp chỉ
sấp sỉ 15% tổng sản lượng của thế giới và lại rất thua
kém về khoa học kỹ thuật. Điều này có nghĩa là các nước
dân chủ vừa không sợ vừa không cần các chế độ độc tài.
Không sợ, không cần và cũng không thể dung túng bởi vì với
những đòi hỏi dân chủ ngày càng gia tăng từ những quần
chúng hiểu biết hơn và mạnh dạn hơn các chế độ độc tài
nếu muốn tồn tại không thể chỉ tiếp tục đànáp mà còn
phải gia tăng đàn áp, trong khi đó thì những vi phạm nhân
quyền ngày càng bị dư luận lên án gay gắt hơn. Điều đúng
trong mọi lúc, nghĩa là chế độ chính trị quyết định chính
sách đối ngoại và đồng minh, lại càng đúng hơn từ nay về
sau. Các chế độ độc tài nếu không bị tẩy chay thì cũng
bị nhìn như những pariah states, nghĩa là những chế độ xằng
bậy càng ít quan hệ càng tốt, và sẽ mất đi phần lớn thị
trường và những cơ hội hợp tác tại các nước dân chủ.
Như thế thì dù muốn hay không các chế độ này cũng phải co
cụm lại với nhau và dựa vào nhau mà sống, ngay cả nếu thù
ghét nhau. Trong bối cảnh thế giới mới mà làn sóng dân chủ
thứ tư mang lại sẽ không còn sự nhập nhằng, giữa kinh tế
thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa phải chọn
một trong hai. Từ nay chọn lựa duy trì chế độ độc tài
tương đương với chấp nhận hy sinh sự hợp tác với các
nước dân chủ.

<h2>... và lại càng đúng cho Việt Nam</h2>

Chọn lựa tuyên chiến với các giá trị dân chủ và nhân
quyền, và do đó với các nước dân chủ, có nghĩa là Việt Nam
sẽ trơ trọi trước áp lực lấn chiếm của Trung Quốc. Không
ai bận tâm bảo vệ một nhà nước côn đồ. Bài học Trường
Sa 1988 vẫn còn đó. Vũ khí tự vệ duy nhất của chế độ
cộng sản Việt Nam sẽ chỉ là van xin, và muốn như thế thì
lại càng phải đến gần Trung Quốc hơn và cúi đầu thấp
hơn. Nhưng van xin cũng vô ích vì Bắc Kinh đã biểu lộ quá rõ
ý đồ chiếm đoạt Biển Đông. (Ngay trong tháng 10 vừa qua, theo
báo chí trong nước, mặc dù Hà Nội đã bày tỏ chọn lựa
phục tòng, Trung Quốc vẫn tiếp tục khủng bố ngư dân ta trên
Biển Đông, đánh chìm hai tàu đánh cá, làm năm ngư dân Việt
Nam thiệt mạng). Mất chủ quyền trên Biển Đông là điều
chắc chắn nếu đảng cộng sản vẫn cầm quyền để thi hành
chính sách chư hầu Trung Quốc.

Cũng không phải chỉ có thế. Kinh tế sẽ suy sụp và đời
sống một phần lớn nhân dân sẽ cơ cực bởi vì Việt Nam sẽ
mất dần thị trường tại các nước dân chủ. Với tổng số
ngoại thương (xuất khẩu + nhập khẩu) gần bằng 200% GDP so
với tỷ lệ 50% trong một nước bình thường, chúng ta là một
trong vài nước lệ thuộc năng nề nhất vào thị trường thế
giới; xuất khẩu sang các nước dân chủ chiếm 80% trong đó
gần 50% sang Mỹ, Châu Âu và Nhật; Việt Nam thặng dư 13,4 tỷ
USD trong buôn bán với Mỹ và thâm thủng 13,8 tỷ USD với Trung
Quốc. Mất thị trường của các nước dân chủ chúng ta sẽ
phá sản. Nhưng đó là điều chắc chắn sẽ xảy ra khi sự
chọn lựa lệ thuộc Trung Quốc để chống dân chủ đã rõ
ràng. Hiện tượng này thực ra đã bắt đầu, các nước dân
chủ đã bắt đầu chán ngán Việt Nam, chủ tịch và thủ
tướng không còn được tiếp đón tại Hoa Kỳ và Châu Âu,
đầu tư nước ngoài và ngoại thương đã suy giảm rõ rệt.

Tóm lại chọn lựa kiên trì chủ nghĩa xã hội và chống lại
dân chủ đưa đến hậu quả là phải phục tùng Trung Quốc,
mất quyền lợi trên Biển Đông và đưa đất nước vào cảnh
bần cùng.

Đó là chính chọn lựa của những người lãnh đạo CSVN. Họ
đã chọn. Chúng ta có thể thấy là chính sách đàn áp đã thô
bạo hẳn lên, như các vụ án chính trị gần đây và bản án
hai nhạc sĩ Việt Khang và Anh Bình vừa chứng tỏ. Họ ngang
ngược thách thức dư luận thế giới và các chính quyền dân
chủ. Chúng ta cũng có thể thấy là những người cầm đầu
chế độ dù chống đối nhau nhưng không ai phản đối những
vụ án thô bỉ này. Không ai thắc mắc khi Nguyễn Tấn Dũng
tuyên bố chủ trương "giữ nguyên trạng Biển Đông", nghĩa là
mặc nhiên chấp nhận việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa và
Trường Sa. Cũng không ai lên tiếng sau khi Nguyễn Chí Vịnh nhân
danh chế độ tuyên bố hoàn toàn ngả theo Trung Quốc. Và chúng
ta cũng có thể lưu ý là trong bộ chính trị ĐCSVN không có nhà
ngoại giao nào; sự hiểu biết về thế giới không cò cần
thiết nữa vì chính sách đối ngoại đã quyết định rồi.

Một chọn lựa khác là đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các
nước dân chủ, để tận dụng các thị trường lớn, để
học hỏi kỹ thuật và phương pháp. Việt Nam không những sẽ
tăng trưởng kinh tế một cách rất mạnh mẽ mà còn được
bảo vệ bởi công pháp quốc tế và nhờ đó có thể có những
quan hệ hợp tác thực sự lành mạnh và hữu nghị với Trung
Quốc. Chọn lựa này có lợi cho Việt Nam về mọi mặt, nhưng
những người lãnh đạo cộng sản đã gạt đi vì nó đòi hỏi
Việt Nam phải từng bước dân chủ hóa trong khi họ không tin
rằng đảng cộng sản có thể tồn tại trong một nước Việt
Nam dân chủ.

<h2>Một ngộ nhận lớn</h2>

Phản hồi bài "<em>Họ đang đưa đất nước vào ngõ cụt và
đêm đen</em>" (3) tháng trước của tôi một thân hữu cho rằng
tình trạng hiện nay cũng chẳng có gì mới bởi vì không phải
bây giờ mà từ lâu rồi chính quyền cộng sản đã chọn làm
tay sai Trung Quốc. Bạn này không nhìn thấy một quyết định
mới và rất nghiêm trọng của đảng cộng sản. Dù muốn hay
không cũng phải nhìn nhận rằng trong hơn hai mươi năm qua, do
sự trao đổi với các nước dân chủ, Việt Nam đã dần dần
thay đổi nhiều. Thông tin nhanh chóng và đầy đủ hơn, những
tuyên truyền dối trá và xuyên tạc của chính quyền cộng sản
trở thành vô ích và vô duyên, bản chất thực sự của chính
quyền được phơi bày, sự sợ hãi cũng giảm đi. Một tiến
trình dân chủ hóa đã hình thành, dù là một cách chậm chạp,
mà chúng ta, những người dân chủ, cố gắng thúc đẩy để
tăng vận tốc. Đảng cộng sản, hay đúng hơn những người
lãnh đạo cộng sản, đã quyết định chặn đứng tiến trình
này dù cái giá phải trả là khiến Việt Nam cô lập và trở
thành mồi ngon cho Trung Quốc, mất đi sự hợp tác và thị
trường của các nước dân chủ và đưa đất nước trở lại
cảnh thiếu đói. Không phải vẫn như cũ. Đây là một tình
hình mới và nguy hiểm mà chúng ta phải báo động với dư
luận.

Nhận định về một bài xã luận của báo Thông Luận(4), một
trí thức viết: "<em>lý luận cho rằng đã dân chủ tất nhiên
phải dựa vào Trung Quốc chẳng có giá trị gì</em>". Trí thức
Việt Nam, ngay cả những người ít nhiều quan tâm đến chính
trị, hình như không nhìn thấy mối quan hệ mật thiết và bắt
buộc giữa ý thức hệ và chính sách đối ngoại và đồng
minh. Chúng ta hình như nghĩ rằng nước mình quá nhỏ yếu
chẳng có ảnh hưởng gì, hơi đâu mà quan tâm và suy nghĩ về
thế giới. Đó là một ngộ nhân lớn. Càng yếu chúng ta càng
lệ thuộc vào thế giới bên ngoài và càng cần phải hiểu
bối cảnh quốc tế. Một người Mỹ có thể không cần biết
những gì đang xảy ra trên thế giới, nhưng một người Việt
thì khác.

Nếu nhìn lại lịch sử cận đại của chúng ta thì hầu hết
các thảm kịch quốc gia lớn đều đã do sự thiếu hiểu biết
bối cảnh thế giới của những người có vai trò lãnh đạo.
Năm 1945 thay vì đoàn kết toàn dân để giành độc lập, Hồ
Chí Minh và đảng CSVN đã áp đặt chủ nghĩa Mác-Lênin và tiêu
diệt các chính đảng không cộng sản, với kết quả là nội
chiến. Nếu hiểu biết về thế giới hơn một chút thì
người ta đã phải thấy rằng du nhập chủ nghĩa này vào Việt
Nam là một sai lầm lớn. Nó đã bị chứng minh là sai và bị
vất bỏ tại Châu Âu, cái nôi của nó, từ lâu rồi. Năm 1960
thay vì hòa giải giữa hai miền Nam Bắc để từng bước tiến
lại gần nhau và thống nhất đất nước trong hòa bình người
ta đã hăm hở phát động nội chiến mà không biết rằng với
chiến tranh lạnh đang lên tới cao điểm vào lúc đó cuộc
chiến sẽ chắc chắn bị quốc tế hóa với cái giá kinh khủng
cho đất nước. Kết quả là đất nước tan tác, sáu triệu
người chết và tàn phế, cùng với những đổ vỡ tình cảm
mà phải nhiều thế hệ mới có thể hàn gắn. Năm 1975 thay vì
thực hiện hòa giải dân tộc, người ta đã chọn cóp nhặt
toàn bộ mô hình Liên Xô sắp phá sản, đinh ninh rằng chủ
nghĩa tư bản sắp giẫy chết. Giữa thập niên 1980 khi làn sóng
dân chủ đang đạt tới cao điểm của nó, thay vì tỉnh ngộ
và thẳng thắn chuyển hướng về dân chủ người ta chọn quỳ
xuống hàng phục Trung Quốc. Tất cả đều là hậu quả của
sự thiếu văn hóa và thiếu hiểu biết về bối cảnh thế
giới.

<center><img
src="http://ethongluan.org/images/stories/images/tapcanbinh_nguyenphutrong.jpg"
/></center>
<center><em>...ôm chân Trung Quốc</em></center>

Ngày hôm nay đảng cộng sản lại đang làm một chọn lựa
điên dại khác là quay lưng lại với thế giới và tiếp tục
ôm chân Trung Quốc để hy vọng giữ được chính quyền. Đây
là một chọn lựa độc hại cho đất nước nhưng cũng khờ
khạo cho chính đảng cộng sản. Họ sẽ không giữ được
chính quyền lâu dài bởi vì chính chế độ Bắc Kinh mà họ
muốn dựa vào để tồn tại cũng sẽ không đứng vững trong
bối cảnh thế giới mới. Thời gian của các chế độ cộng
sản đã hết, thời gian của các chế độ độc tài cũng đã
hết. Tất cả sẽ bị cuốn đi trong làn sóng dân chủ mới
này. Sự ngoan cố của đảng cộng sản có thể giúp chế độ
kéo dài thêm một vài năm nhưng sẽ chỉ khiến nó sụp đổ
một cách ô nhục hơn và bi thảm hơn.

Nhưng trong bao lâu? Chúng ta không thể dự đoán bởi vì câu
trả lời chủ yếu tùy thuộc chính chúng ta. Với quyết tâm và
sáng suốt chúng ta vẫn còn có thể buộc đảng cộng sản từ
bỏ chọn lựa độc hại này để chuyển hướng về dân chủ.
Đó sẽ là một chọn lựa đúng cho đất nước và cho mọi
người. Kể cả và nhất là cho những người cộng sản.

(11/2012)
Nguyễn Gia Kiểng

Đề nghị đọc thêm:

(1) Chuẩn bị cho một là sóng dân chủ mới - Thông Luận số
256, tháng 4-2011.

(2) Khi chủ nghĩa thực tiễn phá sản – Thông Luận số 265,
tháng 01-2012.

(3) Họ đang đưa đất nước vào ngõ cụt và đêm đen –
Thông Luận số 273, tháng 10-2012.

(4) Cảnh giác với Nguyễn Tấn Dũng – Thông Luận số 273,
tháng 10-2012

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20121106/nguyen-gia-kieng-bao-dong-ho-da-quyet-dinh),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét