Người Buôn Gió - Đến thăm Phạm Thanh Nghiên

Trong một ngày mưa bão to nhất đổ bất ngờ xuống Hải Phòng
không như dự báo, ba anh em chúng tôi xuống Hải Phòng để thăm
Phạm Thanh Nghiên. Lâu nay hình ảnh cô gái gầy gò, nhỏ bé bị
bắt khi biểu tình toạ kháng tại nhà vì phản đối Trung Quốc
xâm chiếm biển đảo Việt Nam. Ra toà bị kết án vì bài viết
<em>"Uất ức biển đảo ta ơi"</em>. Một bài viết sau khi Nghiên
đi thăm các gia đình ngư dân, nạn nhân của sự bá quyền Trung
Quốc trên biển.

Nghiên bị kết án 4 năm tù, nếu cho rằng mối quan hệ tốt
đẹp 16 chữ vàng mang lại đời sống tốt đẹp cho nhân dân
ta. Thì chúng ta nên cảm ơn Nghiên, án tù của cô và các bạn
là minh chứng để Trung Quốc thấy chính phủ Việt Nam rất
thiết tha, thành thực vun đắp mối quan hệ này. Còn nếu mối
quan hệ ấy chỉ mang lại tiền giả, hàng giả, thực phẩm
độc hại, biển đảo bị chiếm đóng thì chúng ta lại càng
phải cám ơn Nghiên vì đã cam đảm vạch ra bộ mặt thật của
chính phủ Trung Quốc.

Đường Hải Phòng ngập mọi nơi, cây cối đổ gẫy mọi nơi,
mái tôn rải rác trên đường và mất điện.

<center><img
src="http://multiply.com/mu/nguoibuongio1972/image/50fv49iWXdr5NS9ZqAZLgQ/photos/1M/300x300/1622/30961-10151205293468808-1397613912-n.jpg?et=fSVypSWZXcPa4H0ZwzdwXQ&nmid=0"
width="500" height="400" /></center>
<center><img
src="http://multiply.com/mu/nguoibuongio1972/image/Yq64sd9OaiA23Od8TICQlA/photos/1M/300x300/1623/269993-10151205293053808-534483364-n.jpg?et=XWRE7yTLFqQLXtPHkCbwAg&nmid=0"
width="500" height="400" /></center>

Tìm mãi mới đến được nhà Nghiên, chờ đầu ngõ đợi cô ra
đón. Nghiên cùng chị đi xe máy ra đón chúng tôi vào. Anh em
chưa gặp mà như đã quen biết từ thưở nào. Ngày Nghiên đi
đến nay đã 4 năm, thông tin về bên ngoài cô không hề được
biết. May là tôi từng ở sát buồng ông Nghĩa năm 2009 nên khi
Nghiên qua nhà cô Nga vợ ông Nghĩa chơi thì cô Nga có nhắc
đến tôi. Bởi thế dù gặp lần đầu chúng tôi thân thiết,
không khách sáo và coi nhau như anh em là vậy. Bởi điện trước
rồi, nên khi xuống Nghiên đã làm cơm để đợi.

<center><img
src="http://multiply.com/mu/nguoibuongio1972/image/0O74ONPtN+I-hX8Keh2fCg/photos/1M/300x300/1624/384224-10151205296893808-1245863871-n.jpg?et=MWnCWCX%2BOCrEawH8%2BvluEQ&nmid=0"
width="500" height="400" /></center>

Nghiên kể hồi bị bắt, cô bị giam dưới Hải Phòng. Mỗi
lần đi cung chân bị xiềng đi mấy trăm mét từ buồng giam
đến phòng hỏi cung. Nghe đến đó tôi chợt quát - sao em lại
để thế, làm sao họ có quyền như thế được, em phải phản
đối ngay chứ!

Nghiên cười hiền hoà. Kệ họ anh ạ, họ thích làm thế thì
cứ họ.

Nghiên ở trại 5 Thanh Hoá, vì tù nhân phạm là nữ phạm tội
như Nghiên không nhiều, nên cô ở với tù thường phạm,
khoảng 50 đến 60 người. Tù nhân nữ cũng làm đủ việc thêu
thùa, phụ nề, xây dựng...đừng nghĩ việc thêu thùa là nhẹ
bởi mức khoán rất cao. Phạm nhân cặm cụi cả ngày làm mới
đủ mức khoán. (có lẽ tôi sẽ viết một bài riêng về lao
động trong trại tù, cái gọi là cải tạo phạm nhân thực ra
là cuộc bóc lột sức lao động, một người tù nhận mức
khoán còn hơn công nhân bên ngoài nhưng họ chỉ được ba bát
cơm, vài cọng rau, một tuần một lần được ăn thịt).

Chúng tôi thời gian ngắn, chuyện cũng không nhiều, vả lại
còn phải sang thăm gia đình ông Nghĩa. Người bạn tù phòng bên
với tôi năm nào. Khi trở về tôi đã đi bao nhiêu nơi, mọi
miền ngóc ngách của đất nước, thậm chí còn mò sang tận
Châu Âu xem bọn tư bản nó dẫy chết thế nào. Nhưng ông bạn
tù già ốm yếu đó chưa một lần thấy tự do. Ông Nghĩa mang
trong mình căn bệnh u tuyến tiền liệt gì đó, rất đau đớn
hàng ngày. Thấy nói bệnh này chỉ cần đến bệnh viện phẫu
thuật vài mươi phút là nhanh chóng khắc phục hẳn. Chúng tôi
kéo sang nhà cô Nga, cô có ở nhà và cả thằng Thuỷ con trai
cũng ở nhà, thằng Thuỷ vẫn nhớ vụ tôi nhắn gửi cho bố
nó đôi giày và bộ comle đi xử. Nhớ đến bộ comle lại nhớ
đến anh Cù Huy Hà Vũ và thằng Pau Lê Văn Sơn, hình ảnh anh Vũ
oai phong trong bộ vét và ước mong của Lê Văn Sơn muốn gia
đình gửi cho bộ vét để nó ra toà.

Chắc sau lần anh Vũ quá hiên ngang trong bộ vét, hình ảnh
tuyệt vời ấy khiến cho nhân dân cảm thấy bọn địch không
hèn yếu, nhu nhược như tuyên truyền, cho nên người sẽ tước
đi bị cáo cả cái quyền ăn mặc lịch sự nữa.

Cô Nga kể chuyện ông Nghĩa ở tận trong trại Thanh Chương,
Nghệ An. Hàng tháng cô vẫn đi thăm chồng một lần, ông Nghĩa
thương vợ bảo thôi vài tháng đi một lần thôi. Nhưng chồng
thương vợ bao nhiêu thì người vợ cũng thương chồng bấy
nhiêu, cô gắng đi vì biết chồng bệnh tật phải đi luôn để
xem chồng đau ốm thế nào. Đợt rồi trại người ta ra nội
quy không cho gửi đồ khô như ruốc, muối vừng...họ bảo
những cái này phải mua ở trại. Gửi tiền lưu ký cho trại
giữ, phạm nhân muốn mua gì thì mua. Gửi lưu ký thì trại chỉ
cho mỗi tháng một triệu đồng, trong khi đó bát phở bình dân
đã 35 nghìn, còn bát phở Kobe của đại gia, quan chức thì suýt
một triệu. Chưa kể giá mặt hàng trại bán so với gia đình
tự làm chênh nhau rất nhiều. Một triệu đồng chia cho 30 ngày
thì mỗi ngày ông Nghĩa tiêu 35 nghìn, nếu mà mua thuốc chữa
bệnh chưa chắc đã đủ, nói gì đến ăn hay cá đồ dùng
thiết yếu khác. Cô Nga đấu tranh thì họ bảo nốt lần này
không biết họ nhân nhượng cho gửi, chỉ nốt lần này thôi.

<center><img
src="http://multiply.com/mu/nguoibuongio1972/image/6G7TJfw6tmPpaV5+E6EKwQ/photos/1M/300x300/1625/644075-10151205300308808-1319033922-n.jpg?et=vHtQ3DF9j5UH7pjPj7vc%2Bw&nmid=0"
width="500" height="400" /></center>

Ông Nguyễn Xuân Nghĩa còn hai năm, án của ông là 6 năm. Tôi
chạnh nhớ đến bài thơ của ông và giật mình khi thấy lời
thơ ấy và lời ca của ca sĩ Việt Khang rất giống nhau. Ngay mai
là Việt Khang cũng bị đưa ra xét xử. Bài thơ ông Nghĩa như
sau:


<div class="special_quote"><em>Tổ quốc tôi như miếng da lừa
Một lần ước, mất đi một góc
Ước phồn vinh: rừng mất cây, biển mất cá
Ước vẹn toàn: mất hải đảo, mất Cao Nguyên</em>

<em>Tôi đứng ôn hòa, biểu ngữ chống Bắc Kinh
Người đến đầu tiên là cảnh sát
Họ nhìn tôi như nhìn loài chó ghẻ
Tôi ngã rồi họ dựng chúng tôi lên
Những nắm đấm thôi miên vào mặt.</em>

<em>Họ là người Việt Nam như tôi
Ở chung với tôi trên mảnh đất cỗi cằn sỏi đá
Ở chung với tôi mảnh đất ngàn năm vật vã
Lo sinh nhai, lo giữ chốn sinh tồn.</em>

<em>Tôi nằm lăn ra đất
Nước mắt nuốt vào lòng
Lịch sử 4 ngàn năm triều đại nào như thế?</em>

<strong>Nguyễn Xuân Nghĩa</strong>

Hải Phòng. Viết để nhớ ngày 29/4/2008.</div>

Bài thơ của nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa ở Hải Phòng và bài
nhạc của nhạc sĩ Việt Khang ở đầu kia đất nước mà
giống nhau đến lạ lùng, dù thời gian đã cách nhau đến 4
năm. Nhưng so với sự kiện thực tại thì lời thơ, lời nhạc
vẫn phản ánh đúng thực tại đang diễn ra. Có lẽ người
thấm thấu bài thơ, bài nhạc này nhất là Bùi Minh Hằng ở
Vũng Tàu và Nguyễn Chí Đức ở Hà Nội.

Tôi nhìn tấm ảnh ông Nghĩa, người tôi chưa gặp mặt. Lạ
vậy đấy, tôi nói chuyện với ông nhiều nhưng chưa bao giờ
biết mặt ông, nói chuyện từ bức tường này sang bức tường
kia hàng ngày. Ngày nào tôi cũng bị dẫn đi lấy cung, tính ra 4
lần qua phòng ông vì phòng tôi ở cuối cùng dãy. Nhưng người
ta dẫn tôi đi vòng qua lối đằng sau khiến chúng tôi không
thể nhìn thấy mặt nhau.

4 năm trước ông Nghĩa làm thơ như thế phải chịu án tù, 4
năm sau Việt Khang sáng tác lời nhạc như vậy cũng đi tù. Rõ
là nhà tù không phải là biện pháp để trấn áp được nhưng
thi phẩm, nhạc phẩm chất chứa lòng yêu nước và sự phẫn
nộ trước ngoại xâm. Cho dù quốc khánh Tàu, Đại hội Olymic
Tàu, rồi tới đây là đại hội Đảng của Tàu... liên tiếp
những cơ hội để an ninh Việt Nam lập chiến công bảo vệ
quan hệ 16 chữ vàng trong mối quan hệ hợp tác toàn diện với
Trung Quốc, và cũng là thời khắc để những người con Việt
Nam yêu nước phải dâng mình làm vật tế. Nhưng từ Lê Chí
Quang khởi đầu thập kỷ trước đến thập kỷ này, khi mà cô
nữ sinh Phương Uyên phải vào tù. Sự phản kháng chính nghĩa
ấy chưa bao giờ nguội lạnh bởi bất kỳ thủ đoạn hà khắc
nào.

Từ <em>"Uất ức biển ta ơi"</em> đến <em>"Tổ quốc tôi như
miếng da lừa"</em> đến <em>"Việt Nam quê hương tôi
đâu"</em>...trên đất nước này sẽ còn nhiều nhưng tác phẩm
như vậy để ghi nhớ một thời đau thương mất mát về chủ
quyền bị xâm phạm. Những nhà lịch sử có thể làm ngơ,
nhưng sẽ còn những nghệ sĩ, văn sĩ ghi lại vào trong tác
phẩm của mình về một thời như thế của đất nước.

Lẽ ra khi những người viết tác phẩm như trên phải vào tù,
những người viết sử như ông nghị Dương Trung Quốc không
thể <em>"an tâm"</em> được, vì hơn ai hết ông biết về tích
của những người viết sử trong vụ Triệu Thuẫn, Thôi Chữ
giết vua. Đáng nhẽ phải đau lòng thì ông nghị sử này lại
rêu rao về sự <em>"an lòng"</em> trong một bối cảnh mà những
nghệ sĩ, nhạc sĩ đang chịu tù đày vì làm thay cho phần việc
chuyên môn của ông. Không hiểu ông nghĩ gì về những người
con gái như Phạm Thanh Nghiên, Phương Uyên đã và đang ở chốn
lao tù vì vạch rõ những sự thật trong lịch sử Việt Nam ngày
nay.

Có lẽ chính trường Việt Nam đã tôi luyện cho ông nghị
Dương Trung Quốc không biết hổ thẹn để cần làm cái việc
mà kẻ sĩ, người viết sử phải làm. Nhưng may thay dù chuộc
lấy cay đắng, tội tù thì đất nước này vẫn còn những con
người nhỏ bé, có lương tri như Phạm Thanh Nghiên, Phương
Uyên, Nguyễn Xuân Ngĩa, Việt Khang....làm thay cho ông việc ấy.

Chia tay với Phạm Thanh Nghiên và gia đình nhà văn Nguyễn Xuân
Nghĩa, chúng tôi trở về Hà Nội. Thật lạ kỳ đi đến đâu
trời quang mây tạnh đến đó, bầu trời sau cơn bão xanh trong
thăm thẳm. Ngày mai là sinh nhật hội NoU tròn 1 tuổi. Đó là
hội của những người phản đối đường lưỡi bò ngang ngang
mà Trung Quốc vạch ra trên biển Việt Nam để bảo là của
chúng. Trên đường về tôi đọc thấy tin Việt Nam - Trung Quốc
sẽ cam kết giáo dục cho nhân dân không nói xấu lãnh đạo
nhau. Nghe thế chỉ cười nhẹ, dẫu biết rằng đó là dạo
đầu cho một chiến dịch lập công tới đây nhân dịp đại
hội Đảng Tàu, và ban lãnh đạo mới của Tàu. Và những vật
hiến tế có thể là chúng tôi, những người phản đối
đường lưỡi bò. Nhưng dù thế nào thì trái đất vẫn quay,
và Thôi Chữ, Triệu Thuẫn vẫn là kẻ giết vua, dù giàn thiêu,
lưỡi đao cũng không thay đổi sự thật ấy.


<strong>Người Buôn Gió</strong>


__________________________________

[video:http://www.youtube.com/watch?v=R4L1grczk6E]

http://www.youtube.com/watch?v=R4L1grczk6E


<h2><center>Uất ức – biển ta ơi!</center></h2>

<strong>Ghi chép của Phạm Thanh Nghiên</strong>

<em>"…Lẽ ra, vụ việc này đã phải trở thành một sự
kiện nghiêm trọng trong quan hệ quốc tế, cần phải làm sáng
tỏ. Nhưng do chính quyền bưng bít thông tin, nên đã hơn ba năm
trôi qua, hầu hết người dân vẫn không hay biết…"</em>

Khởi hành lúc 8 giờ từ Hà Nội, đúng 12 giờ trưa, hai chúng
tôi mới đến được Thanh Hoá. Cho đến hôm nay, tôi cũng khó
lý giải tại sao một người vốn mắc bệnh <em>"say xe"</em>
như tôi lại có thể ngồi lì trên ô-tô hơn 4 giờ đồng hồ
như vậy. Phải rồi, đây không phải là một chuyến đi du
lịch, một chuyến viếng thăm ai đó thông thường. Mà tôi đi
tìm gặp người thân các nạn nhân bị sát hại trong chuyến ra
khơi định mệnh ba năm về trước với ước muốn được chia
sẻ…

Tháng 1 năm 2005, mười sáu con người cùng đi đánh cá trên
một chiếc thuyền, tám người vĩnh viễn ra đi, tám người còn
lại trở về với nỗi kinh hoàng tột độ. Thủ phạm gây ra
tội ác, không ai khác là bọn Tàu tặc – kẻ mà chính quyền
Việt Nam luôn luôn ca ngợi là người đồng chí tốt, người
làng giềng tốt của nhân dân Việt Nam. Một chuyến đi đặc
biệt và ý nghĩa như vậy có lẽ đã nâng đỡ tôi, xua đi nỗi
mệt nhọc thường xuyên mà tôi hay bị khi thực hiện những
chuyến đi xa.

Việc tìm kiếm không mấy dễ dàng. Chúng tôi chỉ được biết
họ thuộc hai xã Hoằng Trường và Hoà Lộc. Sau khi ăn trưa
tại một quán ven đường, con trai người chủ quán chở chúng
tôi bằng xe tắc-xi đến xã Hoằng Trường với chặng đường
ngót ba mươi cây số. Số tiền phải trả cho chuyến tắc-xi
gấp gần ba lần số tiền đi từ Hà Nội về Thanh Hoá. Đến
Hoằng Trường, hai người chúng tôi bắt đầu cuộc hành trình
bằng đôi chân trên con đường đất ghồ ghề gần 10km, tìm
tới nhà của các ngư phủ bị nạn.

Càng đi sâu vào làng, cái nghèo của làng chài càng hiện rõ.
Khác hẳn những hình dung trước kia của tôi về một phiên
chợ tấp nập của miền quê biển. Ở đây, chợ chiều vắng
ngắt, vài quán lá lụp xụp, hàng hoá nghèo nàn…

Khi chính quyền Trung Quốc liên tục lấn chiếm lãnh thổ Việt
Nam, giết hại ngư dân lương thiện của chúng ta đang đánh cá
trong vịnh Bắc Bộ, hàng trăm thanh niên, sinh viên, văn nghệ sĩ
trí thức trong nước đã biểu tình chống lại tội ác của
chính quyền Trung Quốc, đồng thời ở bất cứ đâu trên thế
giới này có người Việt Nam sinh sồng đều có những cuộc
biểu tình phản đối Trung Quốc, thì ở Việt Nam mọi thông tin
đều bị Nhà Nước giữ kín. Vì thế chúng tôi thấy cần
phải tìm ra những điều khuất lấp để cung cấp cho độc
giả những sự thực mà báo chí trong nước cố tình bưng bít,
bị cho là <em>"nhạy cảm"</em>. Cho tôi nói lời xin lỗi gia
đình các nạn nhân, nếu sau khi gặp gỡ chúng tôi và kể ra
sự thật mà bị chính quyền gây rắc rối. Tôi xin cảm ơn
những người đã giúp đỡ chúng tôi trong thời gian chúng tôi
tìm hiểu và muốn làm sáng tỏ sự kiện đau xót này. Thật ra,
những việc làm này hết sức bình thường ở những đất
nước có tự do thông tin, nhưng lại là điều cấm kỵ trong
một thể chế thiếu tự do, dân chủ và đang nấp trong ống tay
áo hung thủ.

<center>*</center>

Đầu tiên, chúng tôi dự định tìm gặp ông trưởng thôn, nhờ
ông đưa đến nhà các nạn nhân. Nhưng nghĩ lại, trưởng thôn
chẳng qua cũng là <em>"cánh tay nối dài của đảng"</em>, ít
có xác suất được giúp đỡ, mà biết đâu lại bị gây khó
dễ! Cuốc bộ chừng vài cây số, chúng tôi ghé vào quán của
một bà lão bán quà vặt. Quán là mấy tấm liếp dựng tạm.
Bàn là một tấm gỗ kê bằng gạch, bày bán đủ thứ lặt
vặt: trái cây, bánh kẹo. Bà lão chủ quán tên là Thao, có mái
tóc trắng như cước. Thấy chúng tôi loay hoay tìm ghế ngồi,
bà lão ân cần: <em>"Cô cậu kê tạm mấy viên gạch, lót
giấy báo này mà ngồi!"</em>. Biết chúng tôi ở xa đến, tìm
gặp người nhà các nạn nhân bị tàu chiến Trung Quốc bắn
chết, bị thương ba năm trước, mấy người phụ nữ ngồi
gần đấy xúm đến. Họ kể về nỗi khổ của các nạn nhân,
họ kể khổ cho chính cả họ. Bà Thao đứng lên, một lát sau
bà trở lại với một cậu thanh niên còn rất trẻ: <em>"Đây
là cháu anh Lê Văn Xuyên, ngư dân bị tàu Trung Quốc bắn chết.
Cậu này sẽ đưa hai cháu đi."</em>. Như là trách nhiệm của
mình, bà còn ghi vào cuốn sổ tay của tôi <em>"danh sách"</em>
những người bị nạn trên biển. Tự nhiên tôi ước ao, giá
như ở cái làng chài này có những cán bộ biết thương xót cho
đồng loại như bà Thao, chắc hẳn nỗi đau của gia đình các
nạn nhân được vơi đi chút ít.

Chúng tôi đến nhà anh Lê Văn Xuyên gần 5 giờ chiều. Ngôi nhà
tuềnh toàng như bao gia đình nông thôn Việt nam khác. Trùm lên
căn nhà là không khí lạnh lẽo. Tôi thường sờ sợ khi bước
chân vào gia đình có người chết trẻ. Lần này thì khác. Tôi
không thấy sợ mà thay vào đó là nỗi đau xót, như họ là
người thân của mình vậy. Chị Thanh, vợ anh Xuyên đưa tôi
sang nhà thân nhân Nguyễn Văn Tòng. Rồi lần lượt các chị
tiếp chân đưa chúng tôi đến từng gia đình một. Họ có chung
một cảnh nghèo; một nỗi đau, Và chung một nỗi uất ức.

<h2>Chuyện ba năm trước:</h2>

<em>"Thuyền ra biển được hai ngày thì gặp tầu chiến Trung
Quốc. Họ rượt đuổi chúng tôi. Chúng tôi không hiểu tại sao
họ rượt đuổi. Đây là ngư trường chúng tôi vẫn hành nghề
từ bao năm nay. Trước đó, họ không bắn pháo hiệu hay có
bất cứ tín hiệu gì cảnh cáo trước, càng không có bất cứ
biểu hiện gì để chúng tôi tin là họ sẽ tấn công chúng tôi
cả."</em>. Anh Nguyễn Văn Dũng, một trong tám người sống sót
kể lại.

<em>"Hôm đó là sáng ngày 8 tháng 1 năm 2005…"</em>. Trương
Đình Thái, kể lại với một tâm trạng vẫn còn kinh hãi:
Chúng bắn vào các đồng nghiệp của em, sau đó xả hơi cay vào
các nạn nhân. Tám người chết, còn em và chủ tầu bị
thương. Khi tôi gặng hỏi để biết chi tiết hơn, Tháí không
thể nói gì thêm: Hồi em được chúng thả về, Thi thoảng em la
hét, ai hỏi em cũng nói không biết gì. Những tràng súng bắn
quá gần và xác đồng nghiệp đổ vật xuống bong thuyền
khiến em bị chết lâm sàng. Vết thương của em nặng, gia đình
phải vay mượn tiền để mang em ra Hà Nội mổ lại. Bây giờ
vẫn đau. Thật không dễ quên đi quá khứ kinh hoàng, không
phải ai cũng đủ can đảm để kể lại. Còn đang bối rối
thì đột nhiên Thái bất ngờ nói với tôi: <em>"Chị ơi, họ
làm sống em chị ạ"</em>. Phút chốc tôi rùng mình. Nhìn
gương mặt của Thái, tôi linh cảm cụm từ <em>"làm
sống"</em> là thế nào.

<center><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/03/PTNghien.png"
/></center>

<em><center>Anh Trương Đình Thái (bên phải) bị bắn trọng
thương</center></em>

Sau khi thực hiện tội ác, chúng trói những người còn sống
lại và cho tám xác chết vào tám túi ni – lông. Anh Dũng kể
thay cho Thái: <em>"Lúc tàu Trung Quốc đuổi thì tôi cũng biết,
nhưng đang ở dưới khoang thuyền. Khi tôi lên, cảnh tượng
thật hãi hùng, người chết, người bị thương, người bị
còng tay. Tôi là người cuối cùng bị còng"</em>. Anh Dũng còn
cho biết thêm: lên thuyền của các anh có bảy tên lính hải
quân Trung Quốc cao lớn, tên nào tay cũng lăm lăm một khẩu
súng. Buổi chiều, chúng đưa các anh về đảo Hải Nam, cho mỗi
người một tô mì, sau đó nhốt mỗi người vào một buồng
riêng biệt. Hai ngừơi bị thương thì chúng <em>"làm
sống"</em>, tức là xử lý vết thương không dùng thuốc gây
tê. Sau một vài phút để trấn tĩnh trở lại, Thái nói:
<em>"Chúng dùng dao khoét vào đùi em, lấy viên đạn ra; em bị
bắn 2 phát, một phát vào đùi phải đau đớn vô cùng. Khi
chúng khoét xong, cho em tô mì. Sáng hôm sau chúng lôi em đi lấy
cung".</em>


<center><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/03/PTNghien2.png"
/></center>

<em><center>Anh Nguyễn Văn Dũng sống sót trở về</center></em>

Khoảng hai, ba hôm sau khi thuyền ngư dân Thanh Hoá bị tàu chiến
Trung Quốc tấn công thì người của Bộ ngoại giao Việt Nam
sang. Họ có hai người, không có nhà báo đi theo để đưa tin.
Họ xin chính quyền Trung Quốc gặp các ngư dân Việt Nam đang
bị giam giữ và khuyên: <em>"Các anh cố gắng ở lại cải
tạo cho tốt, đừng cãi lời người ta. Chúng tôi sẽ cố gắng
đưa các anh về trước tết"</em>. Những ngư dân này không
hiểu họ phạm tội gì, tại sao lại <em>"cố gắng cải tạo
cho tốt"?</em>

Chúng tôi gặng hỏi các nhân chứng xem phía Trung Quốc đã tra
hỏi những gì, nhưng các anh nói không thể nhớ hết được.
Sự việc đã trôi đi ba năm, đọng lại những gì bây giờ
chỉ là nỗi sợ hãi. Họ chỉ nhớ những buổi đi cung bị
bức bách, căng thẳng. Một, hai ngày đầu chúng đưa ngư phủ
ta đi cung một đến hai lần, mỗi lần chừng một tiếng. Nhưng
hai, ba ngày sau (khi có người của Bộ ngoại giao Việt Nam),
chúng gọi họ đi cung nhiều hơn. Mỗi ngày hai đến ba lần,
mỗi lần hai, ba tiếng. Có một người dịch sang tiếng Việt.
Khi kết thúc buổi cung các ngư phủ chúng ta đều phải ký vào
một biên bản bằng chữ Tàu mà không ai biết nội dung là
gì..Anh Dũng nói: <em><em>"Chúng tôi không thể không ký vì
chúng đã ép cung, tôi chậm ký bị chúng đánh liền".</em></em>

Cho đến bây giờ không ai trong số còn sống được biết: tại
sao thuyền đánh cá của họ bị tàu chiến Trung Quốc tấn
công. <em>"Chúng tôi đơn thuần chỉ đi đánh cá trên vùng
biển quê hương mình! Từ khi đảng và nhà nước cho vay vốn
để đóng thuyền lớn, khuyến khích đánh cá xa bờ, chúng tôi
đã khai thác ngư trường này từ chục năm trước, bây giờ
cũng vậy. Những tranh chấp vùng nào đó trên biển Đông giữa
hai nhà nước chúng tôi đâu được thông báo!"</em>

Sau ba mươi mốt ngày, những người còn sống được về Việt
Nam, tám người khác phải trở về trong tám bình tro.

<h2>Nỗi đau của những người thân</h2>

Khi chúng tôi đến nhà anh Nguyễn Hữu Biên, một thanh niên mới
đi biển lần đầu đã bị tàu chiến Trung Quốc bắn chết,
đau đớn và căm phẫn vẫn hằn rõ trên gương mặt bà nội và
mẹ của Biên. Bà Lê Thị Tăm đem tấm hình của con trai ra cho
chúng tôi xem. Biên còn trẻ quá, mới hai mươi tuổi. Cái hồn
oan này đang lẩn quất ở đâu? Là oan hồn thứ bao nhiêu của
dân tộc nối tiếp những oan hồn <em>"lên rừng tìm ngà voi
xuống biển mò ngọc trai"</em>, mà sử sách Việt Nam đã ghi
từ nghìn năm trước? Bà nội của Biên đã ngoài tám mươi, run
rẩy lê từng bước tiễn chúng tôi ra cửa: <em>"Trung Quốc có
bao giờ thôi nghĩ đến chuyện xâm lược nước ta đâu, có bao
giờ ngừng giết người Việt Nam ta đâu"</em>. Ôi! Một cụ
già nhà quê ngoài tám mươi tuổi còn nhận biết ra được cái
sự thật này, các vị lãnh đạo đảng và Nhà Nước chẳng
lẽ lại không biết ư? Phúc hay là họa cho dân tộc chúng ta
đây?

<center><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/03/PTNghien4.png"
/></center>

<em><center>Nguyễn Hữu Biên tử nạn lúc 20 tuổi</center></em>

Giấy báo tử ngày 4.2.2005 báo về cho gia đình có xác nhận
ngày chết cuả các nạn nhân là 8.1.2005 (tức là gần một
tháng sau mới cớ giấy báo tử về nhà). Giấy báo tử được
ký tên và đóng dấu bởi bà Lãnh sự Bùi Thị Tuyết Minh. Tuy
nhiên, trong phần nguyên nhân chết thì để trống, trong khi sự
thực các anh bị tàu Trung Quốc tấn công, bắn giết. Điều
này đã được xác định, và chính quyền xã khi đến báo tin
cho các gia đình cũng khẳng định.

<center><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/03/PTNghien3.png"
/></center>

<em><center>Giấy chứng tử do Lãnh Sự Quán VN tại Trung Quốc
cấp</center></em>

Lẽ ra, vụ việc này đã phải trở thành một sự kiện nghiêm
trọng trong quan hệ quốc tế, cần phải làm sáng tỏ. Nhưng do
chính quyền bưng bít thông tin, nên đã hơn ba năm trôi qua, hầu
hết người dân vẫn không hay biết.

Chúng tôi đến nhà anh Lê Xuân Trọng. Vợ anh đã qua đời trong
một cơn bạo bệnh khi sinh bé Lê Thị Thuỳ Trang được tám
tháng tuổi. Bé Trang được mười ba tháng tuổi thì anh Trọng
bị cướp mất mạng sống. Nghe nhắc đến bố mẹ, bé Trang oà
khóc. Tôi ôm nó vào lòng, nước mắt trào theo. Có thể, ngoài
cảm nhận sự côi cút vô lý này, bé không thể hiểu điều gì
vượt quá tầm của một đứa trẻ mới hơn bốn tuổi. Nỗi
đau dồn hết vào lòng ông bà nội.

Sau khi anh Trọng bị bắn chết, ông bà nội cháu đề nghị
chính quyền cho bé Trang được hưởng trợ cấp hàng tháng.
Bắt đầu từ năm 2006, bé được hưởng trợ cấp hai trăm
ngàn đồng mỗi tháng, (năm 2005 không được gì vì còn phải
làm thủ tục). Cuối năm vừa rồi, ông trưởng thôn nói với
ông bà Kính rằng, cần đề nghị <em>"lên trên"</em> để
tăng tiền trợ cấp cho bé. Chưa kịp mừng thì đã… chưng
hửng, số tiền bé Trang nhận được tháng đầu tiên năm 2008
đã bị cắt giảm xuống còn một trăm hai mươi ngàn đồng. Bà
Kính than vãn: <em>"Không hiếu sao lại thế. Đấy, chúng tôi
vừa nhận một trăm hai mươi ngàn đó cô."</em> Ông Kính chua
chát: <em>"Không đủ tiền ăn sáng cho cháu cô chú ạ"</em>.
Ông bà mời chúng tôi ở lại dùng bữa tối và nghỉ qua đêm.
Chúng tôi cảm ơn và từ chối vì đã nhận lời bà Thao. Ông
Kính hẹn sáng hôm sau sẽ đưa chúng tôi sang Hoà Lộc, gặp
những người còn lại. Quả thật, nếu không có cháu Tùng con
anh Tòng dẫn đường, chúng tôi không biết xoay sở ra sao. Đồi
núi, trời tối, đường vắng và thưa người qua lại. Chúng
tôi lãnh nhận sự nguy hiểm đang đe doạ hai thanh niên trẻ
muốn biết sự thật và mong có cơ hội nói lên sự thật ở
một môi trường thông tin vì sự thật.

Sáng hôm sau, chúng tôi trở lại nhà ông Kính. Ông có chuyến
đi biển gấp nên không thể thực hiện lời hẹn. Từ Hoằng
Trường đến Hoà Lộc không có đường bộ, phải đi bằng
đò. Ông đưa chúng tôi đến bến sông. Chủ đò nấn ná, chờ
thêm khách cho đủ chuyến. Ông Kính thì thầm với chủ đò,
chúng tôi được sang sông. Đây là bãi sông Hoằng Trường (còn
có tên gọi khác là Lạch Trường).

Sang đến Hoà Lộc, hai chúng tôi lại tiếp tục cuốc bộ theo
một hướng đạo già. Ông tên là Nguyễn Văn Nhiễm, ngoài sáu
mươi tuổi, dáng người nhỏ nhắn và nhanh nhẹn. Ông là cán
bộ Chi hội Nông dân thôn Hoà Phú, cũng là một đảng viên.
Dám đấu tranh chống tiêu cực nên cũng bị… ghét. Trên
đường đi, Ông nói: <em>"các cháu làm thế là rất đúng.
Tặng quà, giúp đỡ cho ai thì cứ trao tận tay họ. Đừng có
qua chính quyền xã hay thôn làm gì, nhiêu khê, rườm rà. Mà có
khi người dân chẳng nhận được gì".</em>

<center><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/03/PTNghien5.png"
/></center>

<em><center>Cháu bé Quỳnh Trang mồ côi bố mẹ may mắn có ông
bà nội nuôi dưỡng</center></em>

Trong số những gia đình chúng tôi đã gặp, hoàn cảnh của gia
đình tử nạn Trần Nghiệp Hùng là quá éo le. Năm 2003, vợ anh
chết đuối ngoài biển (phụ nữ cũng phải đi đánh cá). Năm
2005, anh Hùng bị hải quân Trung Quốc bắn chết. Một năm sau
khi anh mất, hai đứa con anh là Trần Nghiệp Mạnh và Trần Thị
Thúy đều phải vào trại trẻ mồ côi. Chị Quân (chị ruột
nạn nhân Trần Nghiệp Hùng) buồn rầu tâm sự: <em>"Chẳng ai
muốn cháu mình phải vào trại trẻ mồ côi, nhưng vì khó khăn
quá, ai cũng nghèo. Chồng tôi chết gần năm nay. Cô em gái tôi
cũng phận goá bụa. Chú ấy cũng chết do tai nạn khi đi biển,
bà cụ nhà tôi năm nay đã tám mươi hai tuổi, nay cụ ở với
người con này, mai lại ở với người con khác. Bà cụ cũng
tội, con trai, con dâu, con rể cứ bỏ cụ mà đi".</em>


<center><img
src="http://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2011/03/PTNghien6.png"
/></center>

<em><center>Gia tài của ngư dân Lê Văn Xuyên để
lại</center></em>

Thỉnh thoảng, trên các phương tiện thông tin cũng phản ánh
những tiêu cực trong việc cứu trợ người dân bị nạn:
chuyện ăn chặn hàng cứu trợ, chuyện cứu đói bằng gạo
mục…. Tôi còn nhớ trong một bản tin thời sự tối của Đài
truyền hình Việt Nam có đưa một tin cười ra nước mắt:
người ta cứu đói cho dân bằng… kem đánh răng và xà phòng
thay vì một thứ gì ăn được. Các đoàn thể, cá nhân có hảo
tâm đã không còn tin vào chính quyền. Họ không muốn lòng tốt
của mình trở thành miếng mồi béo bở cho các ông quan to quan
nhỏ. Vì thế, thay vì qua chính quyền, họ tự tay mang quà cho
đồng bào. Như vòi bạch tuộc, rất dài, rất dai và rất
giỏi, cánh tay ăn chặn vẫn vươn tới được. Câu chuyện ông
Nhiểm, chị Quân kể sau đây là một bằng chứng.

Đoàn từ thiện chùa Giác Minh, Tân Vạn – Biên Hoà lặn lội
ra tận Thanh Hoá cứu trợ cho người dân sau trận bão lũ năm
2006. (Tiếc rằng ông Nhiễm không nhớ Pháp danh của vị
Thượng Tọa nào). Các nhà sư đã tận tay trao số tiền cho
đồng bào, mỗi suất hai trăm ngàn đồng. Nhiều gia đình trong
xã đã được chùa Giác Minh cứu trợ. Con dâu ông, trên
đường về nhà đã bị người của chính quyền xã chặn lại,
số tiền bị cướp trắng. Chị giải thích rằng đây là tiền
của các nhà sư cho chị, không phải tiền <em>"chính
sách"</em> hay của chính quyền. Nói thế nào cũng không
được. Đau nhất là ông Nhiễm. Các nhà sư tin tưởng, nhờ
ông chuyển giúp phần quà cho một số gia đình khác. Ngay tối
hôm đó, chính quyền xã cử người đến cướp toàn bộ số
tiền với lý do <em>"gom vào một mối để phát cho dễ, cho
công bằng"</em>. Ông không thể không đưa vì họ nhân danh
chính quyền. Nhiều người khác cũng bị tương tự. Không ai
được trả lại xu nào dù đó là tiền cứu trợ nhân đạo.
Chưa hết, hơn hai tháng sau, ông Nhiểm nhận được một lá
thư, ngoài bì thư ghi tên người gửi là Đoàn từ thiện chùa
Giác Minh, Tân Vạn – Biên Hoà. Trong đó có một tấm vé số
trúng giải, trị giá giải thưởng là hai mươi nhăm triệu
đồng (một số tiền rất lớn), và ghi rõ là tặng riêng cho
ông. Ông Nhiễm sung sướng mang tấm vé số đi lĩnh giải.
Người ta trả lời ông: <em>"đã quá thời hạn lĩnh
giải"</em> và còn trách ông <em>"sao bây giờ bác mới đến
lĩnh"?</em>. Ông Nhiễm khẳng định với chúng tôi: <em>"Tôi
tin ai đó đã bóc thư ra xem và cố tình giữ lại, không đưa
ngay cho tôi".</em> Không biết cảm giác của ông lúc trở về
nhà, trên tay cầm tấm vé số trúng giải vô giá trị như thế
nào? Ai được hưởng toàn bộ số tiền cướp được của ông
Nhiễm và những người dân khốn khổ cần phải được cứu
sống? Đoàn từ thiện chùa Giác Minh có biết việc này?

Qua các nhân vật được tiếp xúc, chúng tôi biết người nung
nấu đưa vụ việc ra ánh sáng công luận chính là ông Kính.
Ông là người biết rõ chủ trương "hoà nhập, hoà đồng,
vươn ra biển lớn" của chính phủ. Ông nói hoà nhập vào
thế giới văn minh không chỉ về kinh tế mà còn về nhiều
vấn đề khác. Vụ việc thuyền đánh cá của ngư dân Thanh hoá
bị tàu chiến Trung Quốc tấn công, ngư phủ Thanh hoá bị giết
hại là vi phạm luật pháp quốc tế. Ông có dự định vận
động các nạn nhân còn sống sót và thân nhân các nạn nhân
đã chết làm đơn tập thể gửi đến đại sứ quán Trung
Quốc, yêu cầu phải làm rõ và phải có trách nhiệm đối với
các nạn nhân. Ông hy vọng báo chí vào cuộc. Ra Hà Nội, ông
tìm gặp đại diện báo Tuổi Trẻ. Tiếp ông là một ký giả
có cái tên rất gợi: Hoà Đồng. Phải rồi! Đúng như ông
nghĩ: muốn giải quyết vụ việc hãy hoà đồng với nhân loại
về phương diện truyền thông trước đã. Nhưng ông sững sờ
khi ký giả Hoà Đồng khuyên ông dẹp bỏ vụ việc, đào sâu
chôn chặt vụ việc, theo đuổi chỉ bất lợi cho cá nhân ông
và không giải quyết được vấn đề gì! Thật buồn cho
truyền thông Việt Nam!

Cho đến bây giờ, khi tiếp xúc với chúng tôi, ông Kính vẫn
nung nấu dự định cũ. Khi chúng tôi đề cập đến đề tài
này thì nhận thấy những nét lo sợ xuất hiện trên gương
mặt của thân nhân các nạn nhân. Nhưng không phải chỉ nạn
nhân và thân nhân của những nạn nhân lo sợ mà những người
không liên đới cũng lo sợ. Họ đang nằm trong một hàng
dô-mi-nô lo sợ. Người dân sợ chính quyền cơ sở, chính
quyền cơ sở sợ chính quyền trung ương, chính quyền trung
ương sợ chính quyền thiên triều bởi 8 chữ vàng: <em>"Láng
giềng, hữu nghị…"</em>

<center>*</center>

Lẽ ra, chúng tôi còn tiếp tục tìm gặp các nhân chứng, các
gia đình nạn nhân còn lại. Nhưng chuyến đi buộc phải kết
thúc. Có tin báo công an đang lùng sục chúng tôi. Trưa hôm đó,
hai người chúng tôi bí mật rời khỏi Thanh Hoá. Bao nhiêu nỗi
uất ức, mệt mỏi dồn nén từ hôm trước được dịp bung ra.
Suốt chặng đường về, không ai nói với ai lời nào. Tôi
biết người bạn đồng hành cũng đang nghĩ về chuyến đi vừa
qua như tôi. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên 24 giờ vào một
ngay đầu tháng 3 năm 2008 ở đây.

Có thể nào một ngày nào đó, trên vùng biển Việt Nam sẽ
vắng bóng những con thuyền đánh cá Việt Nam. Không chỉ là
nỗi lo cầm chắc thua lỗ vì giá xăng dầu phi mã, mà còn là
nỗi lo cho chính mạng sống của ngư phủ khi ra biển. Cùng
thời gian với chúng tôi đi Thanh Hoá, báo An ninh thế giới
(một tờ báo chuyên xuyên tạc, bôi đen các nhà hoạt động
dân chủ, nhân quyền Việt Nam) đã phải thừa nhận sự thực
là Trung Quốc xâm chiếm lãnh hải Việt Nam. Bài báo cũng liệt
kê các vụ hải quân Trung Quốc bắt cóc đòi tiền chuộc,
giết ngư phủ Việt Nam, và khẳng định các ngư phủ Việt Nam
không hề xâm phạm lãnh hải Trung Quốc. Nhưng để biện hộ
cho bản chất nhu nhược của chính quyền cộng sản VN, bài báo
trích lời của một nhân viên an ninh cấp tỉnh: <em>"Chúng tôi
đã cố làm hết sức mình để bảo vệ các ngư dân, nhưng vì
biển cả mênh mông quá, không có cách nào can thiệp, giúp đỡ
được!"</em>

Xót xa thay! Biển cả mênh mông, hay trách nhiệm đối với sinh
mệnh công dân bị coi nhẹ?

Chính quyền cộng sản Trung Quốc đã gây nợ xương máu với
người Việt Nam!

Cùng với việc để mất Hoàng Sa, mất nhiều đảo ở Trường
Sa, mất hàng vạn cây số vuông ở biên giới phía Bắc, ở
vịnh Bắc bộ, mất sinh mạng của con dân trên biển, chính
quyền cộng sản Việt Nam nợ nhân dân Việt Nam lòng ái quốc!

Tháng 3 năm 2008

<strong>© Phạm Thanh Nghiên</strong>

Nguồn: <a href="http://www.danchimviet.info/archives/30765">Đàn Chim
Việt</a>



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://danluan.org/tin-tuc/20121101/nguoi-buon-gio-den-tham-pham-thanh-nghien),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét