Phạm Đình Trọng - Ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực

<div class="special_quote"><strong>Ban viết:</strong> Tác giả PĐT nói
rất nhiều điều đúng trong bài viết. Nhưng cũng có vài chi
tiết cảm tính chứ không dựa vào khoa học.

Thứ nhất: cái gọi là "ban nghiên cứu của thủ tướng" có
từ thời ông Võ Văn Kiệt không và chưa bao giờ là nơi "tập
trung trí tuệ của cả nước và thông thái hàng đầu" như
ông tưởng tượng.

Tất cả những vị trong ban này đều chưa ai có kinh nghiệm hay
được đào tạo về kinh tế thị trường. Tổ trưởng ban này
là ông Trần Xuân Giá học kinh tế "quốc doanh" ở Liên Xô
cũ, hiện nay bị truy tố vì cố tình làm sai trong chức trách
chủ tịch ngân hàng.

Ông Kiệt và ông Khải ít làm lỗi vì khi đó kinh tế phần
lớn vẫn còn là quốc doanh bao cấp chứ không phải họ trong
sạch hay giỏi gì. Ông Kiệt cũng đàn áp tiếng nói trí thức
(vụ Đà Lạt) không kém gì ông Dũng.

Đừng nên trách cá nhân, vì nếu cứ còn chế độ cs thì không
có anh ba này sẽ có anh năm khác giống hệt. Họ xuất thân
giống nhau, bị nhồi sọ giống nhau từ lúc nhỏ, nói và làm y
hệt như nhau, từ anh xã trưởng đến anh bộ trưởng, đi lên
là nhờ lý lịch và lòng trung thành, chứ không phải tài
năng.</div>

Câu nói đầu tiên, ngay trong giây phút trang nghiêm, trọng đại
nhận chức trách người đứng đầu Chính phủ, giây phút
được ghi vào lịch sử mở ra triều đại một Chính phủ
mới, câu nói trong giây phút lịch sử không thể lãng quên đó
của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là: <em><strong>Tôi kiên quyết
và quyết liệt chống tham nhũng. Nếu không chống được tham
nhũng, tôi xin từ chức ngay.</strong></em>

Việc làm đầu tiên của ông Thủ tướng chống tham nhũng bằng
ngôn từ hùng hồn là: <em>Giải tán ngay Ban Nghiên cứu của
Thủ tướng</em>, nơi hội tụ những chuyên gia, những trí tuệ
thông thái hàng đầu của đất nước về quản lí kinh tế và
quản lí Nhà nước được hai Thủ tướng đàn anh của ông
Dũng là Thủ tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải
thành lập, tin dùng và kính trọng, coi Ban Nghiên cứu của Thủ
tướng như trí tuệ, như túi khôn của nhân dân, của đất
nước giúp họ đường đi nước bước và tầm nhìn trong
điều hành hoạt động kinh tế và quản lí xã hội.

<h2>1. LỜI NÓI: DỐI TRÁ</h2>

Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, tham nhũng ở Việt
Nam chỉ rải rác, đột xuất và những vụ tham nhũng lớn cũng
chỉ vài chục tỉ đồng như vụ đình đám Lã Thị Kim Oanh gây
thiệt hại cho Nhà nước 34 tỉ đồng, tham nhũng vài triệu đô
la như vụ chấn động PMU18, tham nhũng vài nền nhà ở, mỗi
nền nhà chỉ trên dưới một trăm mét vuông đất như vụ ồn
ào tư túi đất tái định cư ở Đồ Sơn, Hải Phòng… Chỉ
vậy thôi cũng làm cả xã hội kinh hoàng, sửng sốt, đau xót,
nhức nhối, phẫn nộ và xao xác, vơi hụt lòng tin vào chính
quyền. Vì tham nhũng từ chính quyền mà ra, phải có quyền lực
mới có thể tham nhũng.

Đến thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, như được bật đèn
xanh, tham nhũng nhất tề, đồng loạt, rầm rộ nổi lên khắp
nơi như mầm cỏ dại gặp hơi ấm mùa xuân. Các quan tham từ
cấp phường, xã đến cấp Trung ương, Chính phủ đồng khởi
ra tay vơ vét, ngang nhiên lộ mặt tham nhũng. Tham nhũng trở
thành bình thường đến mức chỉ cấp thấp, tham nhũng vặt
không đủ ăn chia cho nhiều người nên thân cô thế yếu mới
phải thậm thụt, dấm dúi chiếm đoạt vài chục triệu đồng
tiền trợ cấp bão lụt, trợ cấp xóa đói giảm nghèo, tiền
chế độ chính sách thương binh, liệt sĩ, chỉ gây thiệt hại
cho vài cá nhân. Cấp thấp, tham nhũng vặt, thân cô thế yếu,
bị người dân tố cáo, tham nhũng nhanh chóng bị phanh phui và
trừng trị đích đáng. Cấp cao, tham nhũng lớn, ăn chia đều
khắp và quyền uy bao trùm thì thản nhiên vẽ ra những dự án
hoành tráng để tham nhũng hàng trăm, hàng ngàn hecta đất như
dự án ma thu hồi hàng ngàn hecta đất nông trường sông Hậu
ở Cần Thơ, như dự án quỉ thu hồi năm trăm hecta đất ở
Văn Giang, Hưng Yên. Thản nhiên lập ra những tập đoàn kinh tế
lớn để tham nhũng hàng chục ngàn tỉ đồng, hàng trăm ngàn
tỉ đồng như tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam,
Vinashin, tham nhũng, vơ vét làm thất thoát hơn trăm ngàn tỉ
đồng.

Trước thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thiệt hai do tham
nhũng gây ra chỉ tính tới triệu đô la, người dân đi khiếu
kiện bị quan tham cướp bóc chỉ là những cá thể đơn độc.
Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, mỗi vụ tham nhũng gây
thiệt hại lên đến hàng tỉ đô la, lớn gấp ngàn lần, làm
lao đao cả nền kinh tế, dìm đất nước chìm sâu trong nghèo
khó, kéo dài cuộc sống khốn khổ, bất an của người dân,
làm rối loạn cả xã hội, gây đau khổ, oan khiên cho hàng
ngàn, hàng chục ngàn người dân. Dân oan bị quan tham cướp
đất lũ lượt từng đoàn hàng trăm người giương cờ, căng
banner, giơ cao bảng chữ, đội đơn đi khiếu kiện, tố cáo
tham nhũng.

Cả hệ thống quyền lực Nhà nước làm ngơ trước nỗi đau
khổ, oan khiên của chúng sinh, làm ngơ trước cường quyền tham
nhũng. Tham nhũng ung dung tồn tại và phát triển. Quan tham vẫn
bình thản, vững vàng trên ghế quyền lực chăn dân, vẫn cao
giọng bảo ban dạy dỗ dân, vẫn hà khắc đe nẹt, cấm đoán,
tước đoạt mọi quyền của người dân, đàn áp, bắt bớ dân
oan đi khiếu kiện và vẫn nỏ mồm hô hào, chỉ đạo học
tập, lên lớp giảng dạy đạo đức Hồ Chí Minh, tạo ra hình
mẫu, khuôn thước của một xã hội tham lam và dối trá. Cả
một hệ thống quyền lực tham lam và dối trá. Quan tham tồn
tại bằng dối trá. Chính quyền cũng tồn tại bằng dối trá!

Tham nhũng tiền bạc. Tham nhũng đất đai. Tham nhũng cả quyền
lực. Trong các loại tham nhũng đó thì tham nhũng quyền lực là
nguy hại lớn nhất, di họa lâu dài nhất. Lịch sử gần bảy
mươi năm cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam, chưa có
thời nào những người lãnh đạo cấp cao của đảng lại ngang
nhiên giành những chiếc ghế quyền lực lớn về chính trị,
quyền lực lớn về kinh tế cho con cháu, người thân của họ
như thời ông Nguyễn Tấn Dũng là lãnh đạo hàng đầu của
đảng Cộng sản, là người đứng đầu Chính phủ.

Trong mùa đại hội đảng bộ cơ sở tiến tới đại hội
đảng toàn quốc lần thứ 11, con trai cả của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng được đề cử vào thành ủy thành phố Sài
Gòn nhưng số phiếu bầu cho cậu ấm nhà Thủ tướng Dũng
thấp thảm hại. Bốn trăm người cầm phiếu bầu, chỉ có
mười lăm người để lại tên cậu ấm của Thủ tướng Dũng
trong phiếu, còn ba trăm tám mươi nhăm người thẳng thừng xóa
tên cậu ấm. Nhưng chỉ ba tháng sau, đến đại hội đảng
toàn quốc lần thứ 11, người không đủ tín nhiệm vào ban
Chấp hành đảng bộ cấp địa phương, nơi ông ta sống và làm
việc, nơi tổ chức đảng gần gũi, hiểu về ông ta đầy đủ
nhất, lại ung dung chiếm được ghế ban Chấp hành trung ương,
tạo thế cho ông ta bước một bước từ phó hiệu trưởng
một trường đại học ở Sài Gòn lên chức Thứ trưởng một
bộ mạnh của cả nước, thuộc hàng ngũ thành viên của Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Không vào được ban Chấp hành đảng địa phương lại vào
được ban Chấp hành đảng trung ương vì nhiều lãnh đạo hàng
đầu của đảng cũng muốn kiếm chiếc ghế ban Chấp hành trung
ương đảng đầy lợi lộc và quyền uy cho con cái họ làm bệ
phóng vào hàng ngũ quan chức cao cấp Nhà nước chỉ để con
cái họ vinh thân phì gia.

Ông Tổng bí thư họ Nông quê tít trên rừng sâu Na Rì, Bắc
Cạn, đại hội 10 khóa trước đã đôn đáo đưa con trai vào
cơ quan quyền lực Trung ương mà không thành, đại hội đảng
toàn quốc lần thứ 11 là cơ hội cuối cùng, ông phải làm
được việc còn dang dở đó. Phải làm được việc là nỗi
bận tâm lớn nhất của ông ở cương vị Tổng bí thư, ông
mới thanh thản rời chính trường về an nghỉ tuổi già. Ông
ủy viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương
đầy quyền lực trước khi nghỉ hưu cũng muốn để lại
hương hỏa cho con chiếc ghế quyền lực của đảng. Các ông
liền vất bỏ lợi ích của đảng, vất bỏ mục tiêu, lí
tưởng và cả thanh danh của đảng để nhân nhượng, thỏa
hiệp, ủng hộ nhau giành chiếc ghế quyền lực cho con cái.
Tổng bí thư, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Thủ
tướng Chính phủ, những quyền uy lớn đó đều có ơn nghĩa
với nhiều vị trí khác trong cơ quan lãnh đạo cấp cao nắm
quyền quyết định mọi vấn đề của đảng. Những quyền uy
lớn đó đã thỏa hiệp, ủng hộ nhau chiếm ghế quyền lực
của đảng cho con cái thì việc bỏ phiếu chỉ còn là thủ
tục!

Nhìn ba ông Ủy viên Bộ Chính trị, hai ông chờ nghỉ hưu còn
đưa được những đứa con ở cấp tỉnh, cấp huyện vào cơ
quan quyền lực cấp trung ương của đảng, ông Ủy viên Bộ
Chính trị đương chức, lại đương chức Trưởng ban Tổ chức
Trung ương, nơi quản lí, sắp xếp đội ngũ cán bộ cấp cao,
nơi phân chia quyền lực thượng đỉnh trong đảng, liền đưa
cô con gái mới tốt nghiệp trường báo chí, chưa có đóng góp
gì, chưa được trải nghiệm, chưa được thử thách trong cuộc
đời, không biết gì về kinh tế, càng không biết những qui
luật khách quan và nghiệt ngã của kinh tế và mới hai mươi ba
tuổi đời ngơ ngác, nhảy tót lên chiếc ghế quyền lực lớn
về kinh tế, đứng đầu một đơn vị kinh tế Nhà nước hoạt
động trong lĩnh vực của kĩ thuật: xây dựng công nghiệp,
doanh thu hàng năm cả ngàn tỉ đồng.

Đất nước không thiếu những người được đào tạo bài
bản chuyên sâu về khoa học kĩ thuật, giỏi kinh doanh và có
tài quản lí kinh tế. Chiếc ghế mà cô con gái hai mươi ba
tuổi của ông ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức
Trung ương nhảy tót lên chiếm giữ là chiếc ghế của những
người có khoa học kĩ thuật và giỏi quản lí đó. Mặc dù sau
hai tháng sỗ sàng ngồi trên chiếc ghế cao của đơn vị kinh
tế Nhà nước, cô con gái ông ủy viên Bộ Chính trị đã phải
rời ghế nhưng việc chiếm giữ chiếc ghế đó, dù chỉ hai
tháng, cùng với việc các ông quyền cao chức trọng khác trong
đảng cầm quyền bất chấp những ngang trái và hậu quả tệ
hại, giành chiếc ghế quyền lực cho con cái họ đã cho thấy
những người được dân cho hưởng ơn cao, lộc lớn để họ
chăm lo cho dân, tận tụy với nước nhưng họ chỉ biết bản
thân họ và con cái họ, họ chẳng còn biết đến nhân dân,
đất nước. Sự việc họ giành bằng được chiếc ghế quyền
lực cho con cái họ phải được gọi đúng tên là tham nhũng,
tham nhũng quyền lực.

Cả những quan chức hàng đầu của một thể chế, một hệ
thống quyền lực Nhà nước cũng thản nhiên tham nhũng, cả ông
Thủ tướng Chính phủ hùng hồn tuyên bố chống tham nhũng cũng
đi đầu đôn đáo, hăm hở, mê mải tham nhũng, nêu tấm gương
lớn cho cả hệ thống quyền lực tham nhũng, tạo ra cả cơn
lốc xoáy tham nhũng, tạo ra một thời bạo liệt tham nhũng thì
còn chống tham nhũng nỗi gì?

Trên thượng đỉnh đã ngang nhiên tư lợi, vô cảm và vô
lương tâm với dân với nước như vậy, bên dưới tội gì
phải giữ mình, giữ lương tâm. Doanh nghiệp thuộc tập đoàn
kinh tế Nhà nước trúng thầu một dự án chỉ trên 32 tỉ
đồng liền mua ngay hai ô tô mà giá một chiếc ô tô đã trên
2,6 tỉ đồng tặng quan chức Nhà nước đứng đầu tập đoàn
chủ dự án. Người được tặng không thiếu ô tô sang trọng
và tiền mua ô tô quà tặng không phải là tiền túi của bất
cứ ai mà chính là tiền của dân đầu tư cho dự án. Dự án
chỉ 32 tỉ đồng đã bị rút ra hơn 4 tỉ đồng mua ô tô tặng
nhau. Rồi còn bao nhiêu tỉ đồng rút ra chia nhau từ 32 tỉ
đồng của dự án? Phung phí đồng tiền chắt chiu của dân như
vậy chính là một dạng tham nhũng. Ngang nhiên tặng nhau quà
biếu tham nhũng. Cả người cho và người nhận đều vô cảm,
vô lương tâm với đồng tiền chắt chiu của dân, đều nhởn
nhơ, vô cảm hưởng thụ cuộc sống giầu sang, thừa thãi trên
đất nước xác xơ, trên cuộc sống lam lũ, thiếu thốn, đói
khổ của người dân!

Doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ nhưng lương quan chức doanh
nghiệp Nhà nước cứ ngất ngưởng cả trăm triệu đồng
tháng, cao gấp vài chục lần lương bác sĩ sớm khuya miệt mài
làm việc trong bệnh viện, cao gấp vài chục lần lương của
những trí tuệ giảng dạy đại học. Đồng lương đó không
phải do họ tài giỏi làm ra mà là tài sản quốc gia, là vốn
liếng của doanh nghiệp, vốn liếng của Nhà nước, vốn liếng
của nhân dân. Đó là đồng lương tham nhũng. Quan chức các
doanh nghiệp Nhà nước đều thản nhiên và vênh váo nhận
đồng lương tham nhũng đó dù doanh nghiệp họ điều hành thua
lỗ nặng nề, triền miên.

Tham nhũng quyền lực, tham nhũng của cải làm cho hết Vinashin
đến Vinalines, rồi Điện lực, Dầu khí, Than – Khoáng sản...
những tập đoàn kinh tế được đầu tư lớn, được ưu đãi
đặc biệt, là trụ cột của ngôi nhà kinh tế đất nước
đều thua lỗ, thất thoát hàng trăm ngàn tỉ đồng, ngôi nhà
kinh tế đất nước xác xơ, trống rỗng. Trống rỗng cả nền
tài chính đất nước. Trống rỗng cả lòng tin của người dân
vào chính quyền.

Một Chính phủ ngập trong tham nhũng và người đứng đầu
Chính phủ đó, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bị nhấn chìm
trong tham nhũng. Danh dự và uy tín của Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng chìm nghỉm, mất hút trong tham nhũng nhưng Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng không thực hiện lời hứa trang nghiêm, lời
hứa danh dự trong giây phút lịch sử trước Quốc hội, trước
nhân dân: <em><strong>không chống được tham nhũng tôi xin từ
chức ngay.</strong></em>

Lời hứa của danh dự, lời hứa của lịch sử cũng không
thực hiện thì liêm sỉ đâu còn nữa. Liêm sỉ của Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng cũng chìm nghỉm, mất hút trong tham
nhũng. Lời hứa của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thành lừa
dối với nhân dân, dối trá với lịch sử! Sự dối trá của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nêu tấm gương cho xã hội.
Cả xã hội dối trá. Dối trá là lẽ sống. Dối trá được
coi trọng. Dối trá lên ngôi thì sự trung thực không còn đất
sống.

Điều tốt gọi điều tốt. Cấp trên là khuôn thước của
cấp dưới. Quan chức Nhà nước là khuôn thước của xã hội.
Công chức Nhà nước nhìn tấm gương liêm khiết của nhau cùng
giữ mình vượt lên trên cám dỗ vật chất bất lương, cùng
cúc cung, tận tụy làm công bộc của dân, lo cho dân, để lại
công trạng, để lại sự nghiệp rạng rỡ cho nước. Đó là
thời thịnh. Cái xấu gọi cái xấu. Quan chức rường cột của
Nhà nước đua nhau, hùa nhau làm điều xấu, vơ vét của nước,
cướp đoạt lợi ích của dân, làm lên một thời xấu xa, tồi
tệ, đen tối, để lại vết nhơ muôn đời trong lịch sử. Đó
là thời suy.

Ngoài triệu chứng quan tham đua nhau vơ vét của nước, cướp
bóc của dân, đàn áp, tù đày, đánh giết dân, thời suy còn
một triệu chứng điển hình nữa là quan tham đã gây quá
nhiều tội với nước, mắc quá nhiều nợ với dân liền vội
vã lấy tiền của nước, lấy mồ hôi và cả máu của dân xây
những đền đài thờ tổ tiên, cúng thần phật, cầu xin thần
phật dung tha xá tội, cầu xin tổ tiên phù hộ độ trì giữ
mãi được ghế quan tham, cứ bền bỉ nhiều đời yên vị ăn
trên ngồi trốc vơ vét và cướp bóc. Thời nhà Lê suy tàn,
đầu thế kỉ XVI, vua Lê Tương Dực chơi bời xa xỉ, trụy
lạc vô độ, đặt ra nhiều sắc thuế bóc lột dân, nhiều
hình phạt độc ác đánh giết dân, giết cả 15 thân vương
trong triều. Trước tội ác quá lớn, Lê Tương Dực liền sai
kiến trúc sư tài hoa Vũ Như Tô xây điện 100 nóc, xây Cửu
Trùng Đài nguy nga cầu xin thần linh che chở.

Ngày nay Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xây nhà thờ họ ở Rách
Giá, Kiên Giang, lớn gấp trăm lần đền thờ Anh hùng Nguyễn
Trung Trực cách đó vài bước chân, lớp lớp tòa ngang dãy dọc
như cung vua nhà Nguyễn ở cố đô Huế. Phó Thủ tướng Nguyễn
Sinh Hùng xây nhà thờ họ Nguyễn Sinh trập trùng đền đài
hoành tráng trên cả vùng đồi núi mênh mông ở Nam Đàn, Nghệ
An. Đó là những Cửu Trùng Đài của triều Cộng sản Việt Nam
đầu thế kỉ XXI.

Những Cửu Trùng Đài xây bằng tiền bạc và của cải thừa
thãi, xây cả bằng sự vênh váo, hợm hĩnh của quyền uy
tưởng sẽ bền vững ngàn niên, vạn niên nhưng những Cửu
Trùng Đài xây trên sự tan hoang, kiệt quệ của đất nước,
xây trên sự điêu linh, lầm than của trăm họ, xây trên sự
căm giận, phẫn nộ của người dân thì chỉ là những lâu
đài xây trên cát. Những Cửu Trùng Đài vạn niên đó chẳng
bao lâu sau chỉ còn bóng dáng trong câu ca dao mỉa mai của dân
gian: Vạn niên là vạn niên nào / Thành xây xương lính, hào
đào máu dân. Người dân nhìn những Cửu Trùng Đài nguy nga
chỉ thấy ở đó chất ngất của cải tham nhũng, chỉ thấy ở
đó biểu tượng của một thể chế, một triều đại đang xa
dân diệu vợi, đang lao nhanh vào suy vong không gì cứu vãn!

Thời thịnh hay suy là do chính những người nắm vận mệnh
đất nước, nắm thời cuộc quyết định. Quan chức của
Đảng, quan chức Nhà nước từ trên xuống dưới đều suy
đốn, tham nhũng và dối trá đến như vậy, thời suy của
Đảng cầm quyền, thời suy của nước đã là hiển nhiên. Và
ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã góp phần rất lớn, phần
chủ yếu làm nên thời suy đó cho Đảng cầm quyền, cho Nhà
nước Cộng sản Việt Nam, để lại vết hằn đau buồn, đen
tối trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Dối trá lem lẻm. Tham nhũng hết vụ này đến vụ khác. Tham
nhũng dây chuyền trong cả hệ thống quyền lực Nhà nước. Kinh
tế đổ vỡ. Xã hội rối loạn, bất an. Ở xã hội dân chủ
với Nhà nước của dân chứ không phải Nhà nước của Đảng,
chỉ cần một vụ việc trong những vụ việc tày đình trên,
ông Thủ tướng đã phải tự từ chức. Ông Thủ tướng thiếu
lòng tự trọng, không từ chức, Quốc hội thực sự của dân
cũng bỏ phiếu phế truất ông. Nhưng ở ta, Nhà nước là của
Đảng, Chính phủ của Đảng, Quốc hội cũng của Đảng. Các
quan chức Nhà nước tham nhũng đều là những nhà lãnh đạo
hàng đầu của Đảng, là những thế lực lớn trong Đảng.
Người dân bị tham nhũng cướp đoạt những lợi ích sống còn
chỉ còn biết khoanh tay trông chờ Đảng cầm quyền đóng cửa
dàn xếp với tham nhũng trong nội bộ Đảng. Những quyền công
dân cơ bản để người dân tự vệ trước cường quyền, tham
nhũng và bất công, người dân Việt Nam cũng không có!

<h2>2. VIỆC LÀM: KHINH TRÍ TUỆ, TRỌNG BẠO LỰC</h2>

Văn hóa bậc thấp, bậc phổ thông cơ sở, ai cũng học được.
Nhưng văn hóa bậc cao, bậc trí tuệ quí hiếm thì không phải
ai cũng có thể tiếp nhận. Phải có tâm thức văn hóa mới
hướng tới trí tuệ, mới tiếp nhận được trí tuệ. Chỉ
những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết
quí trọng trí tuệ. Hai Thủ tướng lớp trước ông Dũng, Thủ
tướng Võ Văn Kiệt và Thủ tướng Phan Văn Khải đều biết
quí trọng trí tuệ, biết sử dụng trí tuệ.

Nhận trọng trách Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ
tướng Chính phủ) tháng tám, năm 1991, ông Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt không có một bằng cấp, một
chứng chỉ văn hóa nhưng phải là người có tâm thức văn hóa
ông mới nói được với lớp trẻ Sài Gòn trong đại hội
Đoàn của họ rằng: Thành phố soi thấy tương lai của mình
rất sáng trên vầng trán các em. Tâm thức văn hóa đó đã trân
trọng mời những trí tuệ hàng đầu của đất nước về khoa
học kinh tế và khoa học quản lí Nhà nước vào Tổ Chuyên gia
tư vấn về cải cách Kinh tế và cải cách Hành chính mà ngôn
ngữ hằng ngày vẫn gọi là Tổ Tư vấn cải cách. Cả những
chuyên gia kinh tế hàng đầu của chính quyền Sài Gòn cũ cũng
được tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt trực tiếp mời vào Tổ
Tư vấn cải cách.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt nêu những vấn
đề của đường lối, chính sách kinh tế, xã hội đặt ra
với Tổ Tư vấn cải cách và công việc đối nội, đối
ngoại của người đứng đầu Chính phủ dù bận đến đâu,
hằng tuần tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt vẫn giành thời gian
chân tình gặp gỡ, lắng nghe, tiếp nhận đề xuất giải pháp
của Tổ Tư vấn cải cách.

Thành lập năm 1993, đến năm 1996 Tổ Tư vấn cải cách được
bổ xung thêm những trí tuệ xuất sắc mới nổi lên và được
nâng cấp lên thành Tổ Nghiên cứu đổi mới Kinh tế, Xã hội
và Hành chính với tên gọi nôm na thường ngày là Tổ Nghiên
cứu đổi mới. Đến năm 1998, Tổ Nghiên cứu đổi mới lại
được Thủ tướng Phan Văn Khải nâng cấp lên thành Ban Nghiên
cứu của Thủ tướng. Tổ chức tập hợp những trí tuệ,
những lõi sáng của đất nước được khai thác, sử dụng
hiệu quả mới được hai người đứng đầu Chính phủ Võ Văn
Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng và liên tiếp nâng cấp lên
như vậy.

Tổ chức tập hợp những trí tuệ của đất nước được hai
tâm thức văn hóa Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải trân trọng như
vậy nhưng ông Nguyễn Tấn Dũng ngồi vào ghế Thủ tướng thì
tổ chức tập hợp trí tuệ đó liền bị xóa sổ ngay. Chỉ
những người có thể tiếp nhận được trí tuệ mới biết
quí trong trí tuệ và làm theo trí tuệ. Giải tán Ban Nghiên cứu
của Thủ tướng, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng liền mời một
viên tướng công an có nhiều thành tích đàn áp dân chủ, nhân
quyền làm đặc phái viên bên cạnh Thủ tướng, tư vấn cho
Thủ tướng.

Trong lịch sử Việt Nam cũng như lịch sử thế giới từ xưa
đến nay, ngay cả trong thời khốc liệt chiến tranh và đầy
biến động chính trị, ngay cả với những nhà độc tài khét
tiếng như Adolf Hitler, Iosif Stalin, Nicolae Ceausescu, Mobutu, chưa có
người đứng đầu Chính phủ nào phải dùng một viên tướng
công an làm cố vấn thân cận, một công cụ bạo lực luôn bên
cạnh trong công việc như ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Luật pháp Việt Nam cũng không có một điều khoản nào cho phép
ông Thủ tướng được có cố vấn an ninh. Cố vấn thân cận
nhất là viên tướng công an, điều đó cho thấy Thủ tướng
Dũng coi trọng công cụ bạo lực như thế nào và công cụ bạo
lực đó chính là tâm thức văn hóa của ông Thủ tướng. Thay
những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng bằng một
viên tướng công an, một bạo lực Nhà nước, đất nước bị
dẫn dắt vào con đường bạo lực, đời sống dân sự bị
công an hóa, bạo lực hóa!

Bị những nhóm lợi ích dẫn dắt, đất nước đã chìm trong
những tai họa của tham nhũng. Không có trí tuệ dẫn dắt,
đất nước lại chìm trong những tai họa đổ vỡ kinh tế.
Khinh trí tuệ, trọng bạo lực, bên cạnh Thủ tướng là viên
tướng công an hằm hè nhìn xã hội dân sự qua lỗ tròn của
chiếc còng số tám, đất nước lại chìm trong bạo lực Nhà
nước và ngột ngạt tăm tối trong những lệnh cấm, những
lệnh giới nghiêm trong đời sống tinh thần, văn hóa!

Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đã bị giải tán. Nơi những
trí tuệ được nói thẳng, nói thật, được đóng góp không
còn nữa. Những trí tuệ đích thực thôi đành về với dân
gian. Những viện khoa học nọ, viện khoa học kia thì nhiều
lắm, bộ nào, ngành nào cũng có những viện khoa học sang
trọng, hoành tráng, mĩ miều với đông đảo viện sĩ lấp lánh
học hàm, học vị nhưng đó chỉ là nơi những người có bằng
cấp khoa học chia nhau chức danh, chia nhau ghế ngồi để lĩnh
lương và để nghĩ ra những "đề tài khoa học" nhận tiền
tỉ mồ hôi nước mắt của dân về chia nhau. Nghiệm thu xong,
chia tiền xong, "đề tài khoa học" xếp vào ngăn kéo, lại
hăm hở tìm "đề tài khoa học" mới. Các Bộ, các Tổng
cục của hệ thống hành chính Nhà nước có viện khoa học thì
các Ban của tổ chức Đảng ngang cấp Bộ cũng phải có Viện
khoa học. Viện khoa học Dân vận. Viện khoa học lịch sử
Đảng. Viện khoa học Mác Lê nin...

Những viện khoa học mĩ miều đó nhiều như cây trong công
viên, mỗi viện hằng năm ngốn hàng chục, hàng trăm tỉ tiền
thuế của dân chỉ để làm dáng thì cứ bền bỉ tồn tại và
liên tục phát triển, viện khoa học mẹ đẻ ra viện khoa học
con. Đó là những viện khoa học chỉ có danh khoa học, chỉ có
học hàm, học vị khoa học mà không có trí tuệ khoa học.
Không có trí tuệ khoa học để làm việc nên họ chỉ còn
biết mang danh khoa học ra bán. Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng
nhưng danh khoa học của họ độc quyền bán cho Đảng của họ
và bán cho Nhà nước của Đảng được giá tới bạc tỉ!

Những nhà khoa học chân chính, những trí tuệ đích thực không
thể vô cảm và bất lương như vậy. Người thực sự có trí
tuệ cần mang trí tuệ đóng góp cho cuộc sống và trí tuệ
gọi trí tuệ, lương tâm gọi lương tâm, những trí tuệ và
lương tâm đó gọi nhau, tập hợp lại lập lên viện Nghiên
cứu Phát triển, IDS. Không nhận một xu từ tiến thuế của
dân, trí tuệ đích thực là tài sản quí, là vốn liếng lớn
sẽ tạo ra tiền bạc, của cải cho đất nước, tạo ra tiền
bạc của cải để phát triển Viện. Nhưng với một ông Thủ
tướng khinh trí tuệ, trọng bạo lực, vừa nhận chức người
đứng đầu Chính phủ, ông Thủ tướng đó liền kí lệnh
đuổi những trí tuệ trong Ban Nghiên cứu của Thủ tướng đi
cho khuất mắt thì viện IDS lại là cái gai ông phải dẹp bỏ,
ông liền kí quyết định 97/2009QĐ-TTg trong đó có những điều
khoản vô hiệu IDS, làm cho IDS không thể hoạt động theo tiêu
chí của IDS. IDS liền phải tự giải thể!

Những dự án tham nhũng chiếm hàng trăm, hàng ngàn hecta đất,
cướp đất của nhiều làng. Dân nhiều làng phải đội đơn
đi khiếu kiện. Hàng trăm gia đình mất đất. Hàng ngàn người
bơ vơ. Mỗi gia đình một cảnh ngộ, một nỗi đau. Mỗi
người một nỗi oan khiên, không ai có thể đại diện cho ai.
Dân đen, thân phận con ong cái kiến, từng tiếng kêu rời rạc,
yếu ớt, lạc lõng không ai đoái hoài. Hàng trăm, hàng ngàn
người cùng kêu nỗi oan khiên dậy đất của một thời đầy
ngang trái oan khiên mới mong động đến cửa quan thì ông Thủ
tướng hùng hồn chống tham nhũng bằng ngôn từ lại mau lẹ
đứng về phía quan tham lạnh lùng kí Nghị định 136/2006 cấm
dân khiếu kiện tập thể!

Cách mạng công nghiệp chấm dứt nếp sống bầy đàn, không có
cá nhân của nền sản xuất nông nghiệp thô sơ, cho người dân
bình thường ý thức về cá nhân trong cuộc đời. Cách mạng
dân chủ tư sản cho người dân quyền con người. Không có cách
mạng công nghiệp, chưa có cách mạng dân chủ tư sản, xã hội
Việt Nam nôn nóng, hối hả bước vào công nghiệp hóa với
những con người vẫn mang tâm lí, nếp sống và thói quen của
nền sản xuất nông nghiêp thô sơ, tâm lí, nếp sống an phận
và cam chịu. Dù an phận và cam chịu nhưng con giun xéo mãi cũng
quằn, những nông dân không còn ruộng đất trở thành công
nhân trong những nhà máy của những ông bà chủ tư bản phần
lớn là người nước ngoài. Bị chủ tư bản bóc lột tàn tệ,
những công nhân không còn cam chịu được nữa phải bảo nhau,
gọi nhau tổ chức đình công đòi quyền sống.

Công nghiệp hóa không phải chỉ là máy móc công nghệ, thiết
bị kĩ thuật. Công nghiệp hóa trước hết phải là con người,
là giải phóng con người, là mối quan hệ công bằng, bình
đẳng giữa người với người. Công nghệ kĩ thuật là điều
kiện vật chất và giải phóng con người là điều kiện xã
hội của công nghiệp hóa. Bước chân công nhân đình công là
bước đi tất yếu của xã hội Việt Nam vào công nghiệp hóa,
là bước tiến của xã hội Việt Nam.

Những cuộc đình công vừa chính đáng và cần thiết giành
quyền sống của người lao động, vừa là sự trưởng thành
của xã hội Việt Nam nhưng Thủ tướng Dũng lại sốt xắng
đứng ra bảo vệ sự bóc lột tàn nhẫn của những ông chủ,
bà chủ tư bản bằng việc kí nghị định 11 và 12/ 2008 cấm
công nhân đình công! Cấm công nhân đình công đòi quyền
sống, Thủ tướng Dũng đã ngăn chặn bước tiến của xã hội
Việt Nam, kìm hãm xã hội Việt Nam mãi mãi dừng lại trong sự
bóc lột man rợ của chủ nghĩa tư bản hoang dã.

<h2>3. NGƯỜI DÂN BỊ KHINH RẺ. QUYỀN CÔNG DÂN KHÔNG ĐƯỢC
NHÌN NHẬN. CUỘC SỐNG BẤT AN. TÍNH MẠNG MONH MANH</h2>

Theo tấm gương người đứng đầu Chính phủ, cả hệ thống
quyền lực Nhà nước cứ mặc sức tham nhũng và hành dân.
Người dân chỉ được cam chịu chấp nhận. Dân có tiếng nói
phản kháng với cái sai, cái ác liền có sự trả lời của
công an, tòa án và nhà tù! Mọi quyền Con Người cơ bản của
người dân đều bị Cấm! Cấm! Và Cấm! Chưa bao giờ pháp
luật bị sử dụng tùy tiện với dân, bạo lực Nhà nước
khắc nghiệt, tàn nhẫn với dân như thời Thủ tướng Dũng.

Tiến sĩ luật học Cù Huy Hà Vũ kiện Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng lạm quyền, cho triển khai dự án bô xít Tây Nguyên không
theo đúng qui trình pháp luật, gây thiệt hại nặng nề cho dân,
rước tai họa, nguy nan cho nước. Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật là hiện thực bình thường ở mọi
nước trên thế giới từ mấy trăm năm nay nhưng ở Nhà nước
Việt Nam Cộng sản cho đến tận thế kỉ 21 của văn minh tin
học, của thế giới phẳng, vẫn chưa có được điều bình
thường đó. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
chỉ là dòng chữ vàng son lấp lánh ghi trong Hiến pháp Việt
Nam, chỉ để làm đẹp, làm sang cho Hiến pháp Việt Nam. Còn
trong thực tế xã hội Việt Nam hoàn toàn không có sự bình
đẳng nhân văn đó. Đơn kiện ông Thủ tướng của tiến sĩ
Vũ hoàn toàn hợp pháp, là tiếng nói chính đáng, khẩn thiết
của nhân dân, của đất nước. Hai cấp tòa, cấp thành phố
và cấp tối cao, đều từ chối, không dám vào cuộc thụ lí
đơn kiện của tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ nhưng công an thì quyết
liệt vào cuộc, rình rập, bám sát người đứng đơn kiện
từng bước đi, từng cuộc điện thoại.

Tiến sĩ Vũ đi công việc, vào Sài Gòn, ở khách sạn. Công an
liền xông vào khách sạn và trong tay công an có ngay hai bao cao su
nhầy nhụa, tạo chứng cớ hồ đồ, vu vơ, áp đặt, bẩn
thỉu, thấp hèn, mờ ám và tàn bạo để bắt tiến sĩ Cù Huy
Hà Vũ. Sự mờ ám, thấp hèn và tàn bạo càng bộc lộ rõ trong
phiên tòa xử người nói tiếng nói dõng dạc, đàng hoàng,
chính đáng và hợp pháp của nhân dân, của đất nước.

Hiến pháp cho người dân quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia
quản lí Nhà nước và xã hội, quyền thảo luận các vấn đề
của Nhà nước, quyền kiến nghị với cơ quan Nhà nước.
Những bài viết và nói công khai, đàng hoàng về những chính
sách sai lầm của Nhà nước, về những việc làm tội lỗi
của quan chức Nhà nước của tiến sĩ Vũ là hợp pháp và vô
tội. Chỉ có tội khi tòa án chứng minh được người viết và
nói không đúng sự thật. Không chứng minh được điều đó,
không xét, tòa án chỉ xử, chỉ buộc tội. Áp đặt tội tuyên
truyền chống Nhà nước cho những bài viết và lời nói chính
đáng, hợp pháp của tiến sĩ Vũ chỉ ra những sai lầm và tội
lỗi của Nhà nước, tòa án đã đồng nhất Nhà nước với sai
lầm và tội lỗi.

Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, phiên tòa công khai mà người
dân đến dự tòa thì bị đàn áp, bắt bớ. Mờ ám, thấp hèn
và tàn bạo, trong phiên tòa, bị cáo và luật sư đều bị
chặn họng, không được tranh tụng. Giữa thời văn minh rực
rỡ của loài người, phiên tòa xử tiến sĩ Cù Huy Hà Vũ chỉ
là sự tái hiện lại cảnh đấu tố man rợ, mông muội thời
cải cách ruộng đất. Ngồi ghế quan tòa không còn là sự công
minh, nhân đạo của luật pháp và công lí mà là sự nhỏ nhen,
ngạo mạn, nhâng nháo, hùng hổ, hằn học hận thù của công
cụ bạo lực!

Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo, hai bao cao su tởm lợm là chứng
cứ duy nhất để bắt khẩn cấp tiến sĩ Vũ nhưng đến phiên
tòa, quan tòa cũng nhục nhã không dám nhắc đến chứng cứ là
hai bao cao su ô nhục. Dù không được đưa ra, không được
nhắc đến trong phiên tòa mờ ám, thấp hèn và tàn bạo nhưng
hai bao cao su nhầy nhụa, ô nhục còn mãi mãi chình ình và bốc
mùi tanh tưởi trong lịch sử tư pháp của Nhà nước Việt Nam
Cộng sản, còn mãi mãi nhầy nhụa và bốc mùi ô uế trong
lịch sử cầm quyền của đảng Cộng sản Việt Nam.

Dựa vào quyền uy để tham nhũng, dựa vào bạo lực để bưng
bít sự thật, để bóp chết những tiếng nói trung thực,
những vụ bắt bớ phi pháp, những phiên tòa mờ ám, thấp hèn
và tàn bạo liên tục diễn ra dưới thời Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng.

Duy trì đảng cầm quyền đứng trên pháp luật để tham nhũng,
bộ máy công cụ công an của Thủ tướng Dũng đối xử với
những người yêu nước vô cùng tàn nhẫn, mất tính người.
Bắt cóc trái pháp luật, giam cầm phi pháp bà Bùi Thị Minh
Hằng, khủng bố tinh thần, hủy hoại thân xác để bịt tiếng
nói yêu nước của người đàn bà quả cảm. Nhưng bộ máy
công cụ bạo lực của Thủ tướng Dũng càng độc ác, man rợ
thì tiếng nói lương tâm của người phụ nữ Việt Nam quả
cảm, tiếng của lịch sử Việt Nam càng lay động mạnh mẽ
những trái tim Việt Nam, càng vang xa ra thế giới văn minh, tố
cáo với thế giới văn minh về một Nhà nước bạo lực, chà
đạp luật pháp, chà đạp quyền Con Người.

Mờ ám, thấp hèn và tàn bạo với những tiếng nói trung thực
và yêu nước là đặc trưng những phiên tòa thời Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng. Những phiên tòa đó sẽ đi vào lịch sử
với tên gọi Phiên – Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng như lịch
sử đã ghi nhận những phiên tòa đưa cổ những người Cộng
sản vào máy chém theo luật 10/59 dưới thời ông Ngô Đình
Diệm cầm quyền ở miền Nam Việt Nam là Phiên – Tòa – Ngô
– Đình – Diệm!

Mức độ mờ ám, thấp hèn và tàn bạo của những Phiên –
Tòa – Nguyễn – Tấn – Dũng càng ngày càng tăng và đỉnh
điểm về sự mờ ám, thấp hèn, tàn bạo của Phiên – Tòa –
Nguyễn – Tấn – Dũng là phiên tòa xử ba nhà báo nồng nàn
yêu nước và lẫm liệt khí phách đấu tranh đòi tự do, đòi
quyền Con Người, nhà báo Nguyễn Văn Hải, nhà báo Tạ Phong
Tần, nhà báo, luật sư Phan Thanh Hải.

Ông tướng công an là cố vấn kè kè bên cạnh ông Thủ tướng
nên trong xã hội, công an cũng luôn kè kè bên người dân, công
an trở thành chủ thể, là bộ mặt, là tiếng nói của chính
quyền với người dân và cũng là hung thần, là hiện thân của
cái ác trong cuộc sống.

Những trí thức viết Kiến nghị gửi lãnh đạo Nhà nước,
những nơi nhận Kiến nghị đều im lặng. Những người lãnh
đạo Nhà nước coi dân, coi trí thức như hư vô, như không có,
nếu có cũng chỉ là bầy đàn, bầy ong bầy kiến, không đáng
trả lời. Lãnh đạo Nhà nước không thèm trả lời Kiến nghị
của trí thức nhưng công an thì đến từng nhà người kí Kiến
nghị dằn mặt, răn đe.

Công an chặn cửa không cho người dân ra khỏi nhà đi biểu
tình chống Đại Hán cướp biển đảo Việt Nam, giết dân lành
Việt Nam. Công an chốt chặn suốt đêm ngày, ngày này qua ngày
khác quanh nhà người có chính kiến khác biệt với chính
quyền, đi đâu một bước công an bám theo một bước. Người
có tiếng nói khác biệt với chính thống vẫn là công dân mà
bị công an ngang nhiên tước đoạt quyền công dân, trở thành
người tù ngay trong nhà mình, là người tù ngay trong cuộc sống
đời thường quí giá của cuộc đời. Công an vô cớ xông vào
nhà khám xét, bắt người có chính kiến khác biệt vất lên ô
tô chở về đồn công an như chở một đồ vật. Công an bắt
người dân yêu nước biểu tình chống Đại Hán xâm lược
rồi vật ngửa ra, khiêng lên ô tô như khiêng heo cho một công
an khác đứng trên bậc cửa ô tô đạp tới tấp vào mặt
người dân yêu nước.

Hành xử với dân như vậy là hành xử của đám lưu manh, côn
đồ. Và lưu manh, côn đồ thứ thiệt cũng được công an sử
dụng như công cụ bạo lực Nhà nước để khủng bố, đàn áp
dân. Tự xưng là thương binh xông vào cơ quan Nhà nước hành
hung cán bộ Nhà nước, chửi tục và tụt quần ăn vạ giữa
cơ quan Nhà nước thì chỉ có lưu manh, côn đồ mới hành xử
như vậy. Người dân bình thường cũng đủ tỉnh táo nhận ra
đám người tự nhận thương binh làm trò côn đồ đó theo
lệnh của ai. Bảy trăm cơ quan ngôn luận Nhà nước làm ngơ
trước những biểu hiện của xã hội đang bị bạo lực hóa,
côn đồ hóa nhưng có tờ báo lớn của chính thống lại lu loa
lên án người bị nạn, bị côn đồ gây sự đe dọa!

Chế tạo ra những thứ hôi thối, bẩn thỉu ném lên tường
nhà, đổ vào cửa nhà dân. Đổ sơn, đốt cổng nhà dân...
Những người dân phải hứng chịu trò côn đồ bẩn thỉu đó
là những người đã từng là tù chính trị trong nhà tù Cộng
sản, đã nhiều lần bị công an vô cớ bắt giữ, khám xét nên
người dân đều biết rõ ai đã ra lệnh cho lũ côn đồ làm
trò bẩn thỉu đó!

Công an đánh chết dân ngoài đường, đánh chết dân trong đồn
công an diễn ra khắp nơi, ngày càng nhiều. Doanh nghiệp nước
ngoài bị mất một số sản phẩm trong kho. Anh công nhân theo
dõi việc xuất sản phẩm được mời lên đồn công an hôm
trước thì hôm sau đã là cái xác không hồn. Cái chết của anh
công nhân cao trên một mét bảy, nặng trên bảy mươi cân
được công an giải thích là do anh tự treo cổ bằng sợi dây
điện thoại mỏng manh! Anh công nhân mới cưới vợ trẻ, hai
vợ chồng trẻ có việc làm ổn định, có cuộc sống vững
vàng, đã mua được đất chuẩn bị xây ngôi nhà mơ ước để
đón những đứa con của hạnh phúc và điều quan trọng là anh
đã khẳng định mình vô tội trong vụ mất sản phẩm của
doanh nghiệp và đang chứng minh sự vô tội đó vậy mà viện
Kiểm sát tối cao sau ít ngày "điều tra" lấy lệ lại xưng
xưng kết luận là anh công nhân tự tìm đến cái chết vì hối
hận! Đó là kết luận của những thế lực liên kết tạo
thành những nhóm lợi ích, kết luận của bạo lực Nhà nước,
không phải là kết luận của công lí, của lương tâm , của
lẽ phải.

Thời Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bạo lực đã thay công lí.
Cuộc sống chỉ có Bạo lực! Bạo lực! Và Bạo lực! Công lí
như mặt trời trong đêm, không còn có trong cuộc sống nữa.
Bóng công an, bóng bạo lực, bóng tối Trung Cổ đè xuống cuộc
sống. Công an giết dân. Côn đồ giết dân. Mạng sống của
người dân quá mong manh. Xã hội đầy nhiễu nhương, bất an.

Cuộc sống bị công an hóa, bạo lực hóa và Nhà nước đi
đầu nêu tấm gương sử dụng bạo lực trong nhiều mối quan
hệ dân sự với dân. Đại tá, giám đốc công an thành phố
chỉ huy cuộc hành quân binh chủng hợp thành, công an và quân
đội phối hợp, bài binh bố trận như một trận đánh sống
mái với quân thù, bao vây, nã súng vào ngôi nhà đơn sơ, chơ
vơ trên bãi biển chỉ có đàn bà và trẻ con của gia đình anh
nông dân Đoàn Văn Vươn ở Tiên Lãng, Hải Phòng. Ba ngàn cảnh
sát chiến đấu của Bộ Công an cùng lực lượng công an
huyện, công an tỉnh, áo giáp, tay khiên, tay súng trùng trùng
đội ngũ, ầm ầm ra quân, trấn áp, xua đuổi vài trăm nông
dân tay không, đầu trần, chân đất ở Văn Giang, Hưng Yên.
Bạo lực Nhà nước được huy động cao nhất giành mảnh đất
sống của người nông dân giao cho nhà tư bản để họ kinh
doanh làm giầu trên sự khốn cùng của những người nông dân
đã góp xương máu mồ hôi dựng lên Nhà nước này. Hàng chục
người dân lương thiện đã bị công an đánh chết trong các
đồn công an trên cả nước khi người dân bị công an bắt
chỉ vì những lỗi nhỏ trong sinh hoạt như đi xe máy không
đội mũ bảo hiểm, to tiếng cãi nhau với người thân, với
hàng xóm...

Đau xót và tủi nhục cho nền văn minh Sông Hồng rực rỡ và
cho mảnh đất Thăng Long – Hà Nội ngàn năm Văn hiến là chính
ở trung tâm văn minh Sông Hồng, chính ở kinh đô ngàn năm văn
hiến lại là nơi người dân bị công an đánh chết nhiều
nhất, chết thương tâm nhất. Giữa thủ đô Hà Nội công an
treo cao cái slogan chữ lớn bầy tỏ lòng trung thành của công an
với đảng Cộng sản: Công an nhân dân chỉ biết còn đảng
còn mình, dưới cái slogan ấy nhiều người dân Hà Nội đã
bị công an đánh chết thê thảm: Ngày 21.11.2009, anh Nguyễn
Mạnh Hùng, 33 tuổi bị đánh chết trong trại tạm giam của
công an quận Hà Đông, Hà Nội. Chỉ ba tháng sau, ngày 21.1.2010,
anh Nguyễn Quốc Bảo, 33 tuổi, bị đánh chết trong trại tạm
giam của công an quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm tháng sau, ông
Nguyễn Phú Trung, 41 tuổi bị hai công an xã Thủy Xuân Tiên,
huyện Chương Mĩ, Hà Nội đánh chết. Tám tháng sau, ngày
28.2.2011, ông Trịnh Xuân Tùng, 53 tuổi, bị trung tá Nguyễn Văn
Ninh, công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội đánh
gãy cổ ở bến ô tô Giáp Bát dẫn đến cái chết trong đau
đớn. Đau đớn cho người đang chờ chết, càng đau đớn gấp
bội cho người sống còn lương tâm. Người dân Hà Nội còn
chưa nguôi ngoai, chưa thể vơi nỗi căm phẫn ghê tởm trước
sự độc ác, nhẫn tâm giết người của viên trung tá công an
Nguyễn Van Ninh thì ngày 30.8.2012, công an xã Kim Nỗ, huyện Đông
Anh, Hà Nội ngay trong buổi chiều bắt giam ông Nguyễn Mậu
Thuận, 54 tuổi, vì xích mích với hàng xóm, đã đánh chết ông
Thuận ngay trong trụ sở công an xã!

Nhà nước nào, xã hội đó. Nhà nước bạo lực tất tạo ra
xã hội bạo lực. Những va chạm xích mích nhỏ từ trong gia
đình đến ngoài xã hội đều giải quyết bằng bạo lực,
bằng máu, bằng sự tước đoạt mạng sống của nhau. Cha giết
con. Vợ giết chồng. Anh giết em. Người yêu giết người
yêu... xảy ra hàng ngày trên khắp đất nước. Những cuộc
thanh toán đẫm máu thường xuyên xảy ra trên đường phố,
trong làng quê. Chú bé Lê Văn Luyện chưa đến tuổi thành niên
lạnh lùng vung dao giết cả nhà bốn người chủ tiệm vàng
để vơ một nắm vàng. Thời bạo lực Nguyễn Tấn Dũng đã
sản sinh ra tội ác Lê Văn Luyện.

Đất nước của những bài dân ca, của những câu ca dao, thành
ngữ chan chứa tình yêu thương: <em>Thương Người như thể
thương thân</em>, bây giờ là đất nước của bạo lực, hận
thù, của máu và nước mắt! Đất nước Việt Nam hiền hòa,
gấm vóc của tôi ơi, có bao giờ đau đớn và tối tăm thế
này chăng?

Văn minh tin học đã mang lại cho Con Người cuộc sống kì
diệu, Với văn minh tin học, Con Người làm được những việc
mà trước đây chỉ có thần thánh trong những câu chuyện cổ
tích, thần thoại mới làm được. Con Người đã trở thành
thần thánh. Được sống với những tiện nghi kĩ thuật do công
nghệ thông tin mang lại, Con Người còn được sống trong những
giá trị nhân văn cao cả. Quyền Con Người đã là phổ quát,
là đương nhiên ở mọi xã hội. Nhưng trên đất nước Việt
Nam thân yêu của tôi với ông Thủ tướng khinh trí tuệ, trọng
bạo lực, giữa kỉ nguyên văn minh tin học, người dân Việt
Nam vẫn chưa được sống kiếp Người, vẫn chỉ là bầy đàn,
bầy ong, bầy kiến, vẫn phải sống trong bạo lực Trung Cổ.
Quyền Con Người bình dị vẫn chỉ là thứ xa xỉ, vẫn là
nỗi khao khát, mơ ước của người dân Việt Nam!

Tôi viết trong nghẹn ngào, đến đây nước mắt đã làm nhòe
tất cả, tôi không thể viết được nữa!

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/tin-tuc/20121011/pham-dinh-trong-ong-thu-tuong-khinh-tri-tue-trong-bao-luc),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét