Trong hệ thống cực quyền, những nấc thang bên trên có đặc
điểm là quyền lực tập trung vào tay chỉ một số người,
điều đó không chỉ tước đoạt quyền của người dân mà
còn biến các quan chức cấp cao của chính phủ trung ương thành
những người thừa hành của một lãnh tụ tối cao. Những nấc
thang thấp lại mang đặc điểm là nô bộc tuyệt đối. Từ
đỉnh xuống đáy, hoàn toàn không có sự độc lập về tính
cách và tư duy, tất cả đều phải ngoan ngoãn quy phục những
kẻ có quyền trong mọi lĩnh vực của đời sống.
Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng áp dụng cơ cấu quyền
lực theo kiểu kim tự tháp như Tần Thủy Hoàng vậy. Trên
đỉnh tháp chỉ có một nhúm người, đấy là Ban Thường vụ
Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc,
mà Mao Trạch Đông chính là đầu não. Mao có quyền quyết
định tất cả mọi vấn đề, trên thực tế, ông ta có địa
vị rất giống với địa vị của một hoàng đế. Ngoài chức
vụ là người lãnh đạo Đảng và đứng đầu nhà nước, ông
ta còn là Chủ tịch Quân ủy Trung ương, điều đó tạo điều
kiện cho ông ta kiểm soát lực lượng vũ trang và có quyền
lực cực kì lớn. Những người khác trên đỉnh kim tự tháp
quyền lực kính trọng và sợ Mao và thường xuyên lo lắng làm
sao giữ được chức vụ của mình. Thế là, chế độ chuyên
chính vô sản của Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành chế
độ chuyên chính của cá nhân Mao Trạch Đông.
Mặc dù về danh nghĩa Mao Trạch Đông là người lãnh đạo
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhưng trên thực tế ông ta
chính là vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, mà lại là
vị hoàng đế quyền lực nhất trong số những vị hoàng đế
đã từng cai trị Trung Quốc. Trong thời kì ở Diên An, đã có
lần Mao hỏi người phiên dịch tiếng Nga của mình là Sư
Triết (師哲) về sự khác nhau giữa Tổng thống và Hoàng đế.
Sư Triết trình bày một cách có hệ thống, trên cơ sở kiến
thức chính trị của ông, nhưng Mao cười lớn và nói: "Trên
thực tế, cũng chỉ là một thôi!". Năm 1951, người ta đã
trình Mao danh sách những khẩu hiệu chào mừng ngày Quốc tế
Lao động 1 tháng 5 để ông ta phê duyệt, ông ta tự mình thêm
vào câu: "Mao Chủ tịch muôn năm!" Rõ ràng là ông ta đã tự
coi mình là một hoàng đế rồi.
Năm 1955, theo mong muốn của Mao, chính sách kinh tế chuyển sang
"tiến nhanh" được thể hiện bằng chỉ tiêu sản lượng
cao với tốc độ lớn, kết quả là tạo ra áp lực chung trong
tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Việc thu mua
quá nhiều ngũ cốc đã làm nhiều nông dân chết đói ngay từ
năm 1956. Chu Ân Lai, Trần Vân và những người khác ban đầu
không có ý định chống lại Mao, nhưng do những yêu cầu của
thực tiễn công tác, họ đã áp dụng những biện pháp sửa sai
nhằm "chống lại sự nóng vội trong phát triển kinh tế"
(gọi là "phản mạo tiến" – 反冒進). Mao nổi đóa, Chu Ân
Lai suýt bị mất chức. Năm 1958, khi Mao trở nên cuồng tín,
những quan chức khác đã theo đuôi ông ta và chỉ mãi đến
cuối năm 1958, đầu năm 1959, sau khi xảy ra những hậu quả
cực kì trầm trọng họ mới chịu áp dụng những biện pháp
sửa sai. Tuy nhiên, khi bị Bành Đức Hoài phê bình ở hội
nghị Lư Sơn, Mao lập tức quay ra chống lại Bành; ông ta không
những bác bỏ những biện pháp sửa sai mà còn tăng cường
thúc đẩy những chính sách sai lầm của năm 1958. Kết quả là
những chính sách đã từng làm nhiều nông dân chết đói tiếp
tục kéo dài thêm ba năm nữa.
Trong thời gian đó, cả nước chỉ có một nhà tư tưởng, một
người có thẩm quyền về mặt lý luận, đấy chính là Mao
Trạch Đông. Tư tưởng của Mao là hệ tư tưởng lãnh đạo
cả nước và toàn thể nhân dân. Là người nắm được quyền
lực tối thượng cả về chính trị lẫn quân sự, đồng thời
là "ánh sáng" tư tưởng, Mao là hiện thân của nền chính
trị thần quyền thế tục, hợp nhất trung tâm của quyền lực
với trung tâm của chân lí. Mọi ý kiến bất đồng đều bị
coi là tà đạo, còn nói gì đến hi vọng có đảng đối lập.
Người dân không chỉ không dám phê phán chính sách của nhà
nước, mà nếu có sự bất mãn ở trong đầu thì nỗi khiếp
sợ cũng làm họ kìm nén ngay thái độ phê phán trước khi nó
phát ra ở đầu môi. Sự "thống nhất" về mặt tư tưởng
diễn ra như thế đấy, "tất cả mọi người cùng cười,
khóc và chửi bới cùng một giọng".[i]
Sự sợ hãi và dối trá do chế độ toàn trị gây ra còn là
những điều kiện căn bản để hệ thống có thể tiếp tục
hoạt động. Sợ hãi gây ra dối trá. Chính phủ có quyền
trừng phạt và tước đoạt của người ta bất cứ thứ gì.
Trừng phạt và tước đoạt gây ra sợ hãi. Người càng có
nhiều thì càng sợ nhiều vì trừng phạt sẽ làm cho anh ta mất
mát nhiều hơn. Quan chức và trí thức có nhiều hơn người dân
thường và kết quả là họ thậm chí còn sợ hãi hơn và thể
hiện "lòng trung thành" với hệ thống hơn. Nhằm thỏa mãn
và tự vệ, họ tham gia vào cuộc ganh đua một mất một còn
về khả năng nói dối và giả vờ tin vào những điều dối
trá. Những phát biểu của các quan chức, các ngành khoa học xã
hội, nghệ thuật, phương tiện truyền thông đại chúng,
trường học, thậm chí khẩu hiệu dán trên mọi bức tường,
tạo ra và truyền bá những điều dối trá từ ngày này qua
ngày khác, năm này qua năm khác, tiếp tục lừa dối và nô
dịch quần chúng nhân dân.
Cơ cấu tổ chức giống hệt nhau như thế thịnh hành trên tất
cả các địa phương của Trung Quốc và cùng thực hiện những
chính sách rập khuôn. Mỗi người đều sống trong một tổ
chức do Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo, cùng hô những
khẩu hiệu như nhau, cùng sử dụng những câu cửa miệng về
chính trị như nhau, cùng tham gia những hội nghị có nội dung
như nhau vào cùng một thời điểm giống nhau. Sự đồng nhất
hóa của xã hội Trung Quốc có nghĩa là bất cứ thảm họa nào
do chính sách sai lầm gây ra cũng có thể ảnh hưởng tới cả
nước, và không nạn nhân nào có thể thoát được. Trong những
chương sau độc giả sẽ thấy những hoàn cảnh tương tự tại
những tỉnh cách xa nhau cả ngàn dặm, đấy là kết quả không
thể tránh khỏi của chính sách đồng nhất hóa về mặt chính
trị.
Trong cái kim tự tháp quyền lực này, các quan chức ở mọi
tầng nấc đều là nô lệ của tầng trên và tìm mọi cách
nịnh hót họ bằng mọi phương tiện sẵn có, đồng thời lại
hành động như những ông chủ chuyên chế đối với tầng
dưới. Vì tất cả đều muốn tiến lên nấc thang cao hơn,
nhưng nỗi sợ mất vị trí hiện thời của họ, dù là nô lệ,
còn lớn hơn nữa. Họ tin tưởng một cách mù quáng vào lãnh
đạo, sùng bái quyền lực, ngả theo những xu hướng đang giữ
thế thượng phong và cam chịu mọi thứ xảy ra với mình.
Quyền lực càng tập trung thì đấu đá trong nội bộ càng
mạnh. Đấu đá càng mạnh thì Mao Trạch Đông càng sợ mối đe
dọa của những người xung quanh ông ta và những vụ thanh
trừng của ông ta lại càng dữ dội hơn. Trong cuộc tranh giành
quyền lực khốc liệt và tàn nhẫn này người ta sẵn sàng nói
dối và bán đứng đồng đội nhằm thăng tiến và bảo vệ
chính mình.
Trong quá trình quản lí, ý của cấp trên ở mỗi nấc tiếp
theo lại được nâng dần lên, tiếng nói của cấp dưới càng
lên cao càng bị đè nén thêm. Càng lên cao sai lầm của cấp
trên càng bị buông lỏng cho nên hậu quả của chúng cũng tai
hại hơn. Tình hình thực tế ở cấp thấp nhất lại được
những tầng nấc bên trên che đậy, mỗi tầng phủ lên thêm
một lớp, kết quả là những người lập chính sách cấp cao
hoàn toàn không nắm được sự thật. Bằng cách đó, những
chính sách sai lầm bị gia tăng bởi cả ý kiến phản hồi tích
cực và tiêu cực và chỉ bị phát hiện khi thảm họa đã xảy
ra. Việc sửa chữa những sai lầm này lại không được làm
gây phương hại tới uy tín của lãnh tụ, cho nên sửa sai không
bao giờ đạt được hiệu quả mong muốn. Nông dân là người
gánh chịu tai họa.
Trong hệ thống phong kiến trước đây, người dân có quyền im
lặng. Hệ thống toàn trị tước đoạt cả quyền đó. Trong
hết phong trào chính trị này đến phong trào chính trị khác,
trong những cuộc họp và hội nghị đủ mọi cấp và mọi kích
cỡ, mỗi người buộc phải "thể hiện quan điểm", "trình
bày suy nghĩ" và "trải lòng ra" với Đảng. Mỗi người
phải mở toang những chỗ thầm kín nhất trong lòng mình cho
Đảng kiểm tra. "Trình bày quan điểm" trong tình hình chính
trị căng thẳng buộc người ta phản bội lại chính lương tâm
của mình và đánh mất khả năng kiểm soát đối với phần
còn lại cuối cùng trong tâm hồn mình. Sự tự hạ nhục
được lặp đi lặp lại như thế đã đưa người ta đến
việc chà đạp liên tục lên những thứ mà họ coi trọng nhất
và tâng bốc những thứ mà trước đây họ khinh bỉ nhất.
Bằng cách đó, hệ thống toàn trị đã tạo ra sự thoái hóa
đặc tính dân tộc của người Trung Quốc. Tình trạng điên
rồ và sự tàn nhẫn mà người dân thể hiện trong "Đại
nhảy vọt" và "Đại Cách mạng Văn hóa" là kết quả của
sự thoái hóa đó và cũng là "thành tựu" vĩ đại của hệ
thống toàn trị.
Chế độ không coi cái giá phải trả hoặc áp bức là quá lớn
trong khi thực hiện những lí tưởng cộng sản, mục tiêu tối
cao của toàn dân. Nông dân chịu gánh nặng chủ yếu của quá
trình thực hiện những lí tưởng này: họ gánh trên vai chi phí
của công nghiệp hóa, tập thể hóa, bao cấp cho các thành phố
và thói xa xỉ của các cán bộ trên mọi tầng nấc.
Phần lớn cái giá này được áp đặt thông qua sự độc
quyền mua và bán của nhà nước. Nông dân phải bán sản phẩm
của mình cho chính phủ với giá không thể bù đắp được chi
phí sản xuất. Ngũ cốc do nông dân sản xuất trước hết và
trên hết là để đáp ứng nhu cầu của dân thành thị đang gia
tăng một cách nhanh chóng. Việc hệ thống này sử dụng những
biện pháp hành chính nhằm áp đặt bằng bạo lực quá trình
công nghiệp hóa đòi hỏi sự gia tăng nhanh chóng dân cư trong
thành phố và sản phẩm nông nghiệp dành cho xuất khẩu để
đổi lấy máy móc. Vì vậy mà không thể để nông dân ăn no
được và thu mua chính là ăn cướp ngũ cốc của nông dân. Lưu
Thiếu Kỳ đã có lần công nhận một cách thẳng thắn như sau:
<div class="special_quote"><em>Hiện nay có mâu thuẫn giữa số
lượng ngũ cốc mà nhà nước cần với số lượng ngũ cốc mà
nông dân muốn bán, và đây là mâu thuẫn cực kì nghiêm trọng.
Nông dân muốn bán cho nhà nước số ngũ cốc dư thừa sau khi
họ đã được ăn no. Nếu chính phủ chỉ thu mua sau khi nông
dân đã ăn no thì những người khác sẽ không đủ ăn: đấy
là công nhân, giáo viên, các nhà khoa học và những người
thành thị khác. Nếu những người này không đủ ăn thì sẽ
không thể công nghiệp hóa được và sẽ phải giảm bớt quân
đội đi, không thể xây dựng nền quốc phòng
được.</em>[ii]</div>
Lưu Thiếu Kỳ nói đúng, và điều đó chứng tỏ rằng trong
hệ thống này, chính phủ không muốn cho nông dân ăn no. Sự
thiếu hụt ngũ cốc sau khi nông dân đã bán "phần thặng
dư" của họ cho chính phủ là một trong những nguyên nhân làm
nhiều người chết đói đến như thế.
Trong khi ở thành phố tiến hành quốc hữu hóa thì ở nông
thôn tiến hành tập thể hóa. Tài liệu chính thức gọi đây
là "phong trào hợp tác hóa nông nghiệp". Trên thực tế
"hợp tác" và "tập thể" là hai thứ khác nhau. Hợp tác
được xây dựng trên cơ sở lợi ích cá nhân, còn tập thể
thì tước đoạt lợi ích của người ta. Hợp tác là các bên
cùng có lợi và giúp đỡ lẫn nhau trên cơ sở sở hữu tư
nhân, còn tập thể thì xóa bỏ sở hữu tư nhân vì lợi ích
của sở hữu công cộng. Trung Quốc tiến hành không phải là
phong trào hợp tác hóa mà là tập thể hóa. Tập thể hóa nông
nghiệp đã tước đoạt các quyền và lợi ích của nông dân.
Cơ sở kinh tế cho việc thiết lập chế độ toàn trị là phủ
nhận quyền sở hữu tư nhân và phủ nhận lợi ích cá nhân.
Không có phong trào tập thể hóa nông nghiệp thì hệ thống
toàn trị không thể tồn tại được ở Trung Quốc.
Tập thể hóa nông nghiệp đưa vào tập thể tất cả các
phương tiện sản xuất. Nông dân và cán bộ đội sản xuất
không có quyền quyết định trồng cây gì, diện tích trồng là
bao nhiêu và bằng phương tiện gì. Trong quá trình hợp tác hóa,
nông dân được giữ lại một ít đất, đủ để trồng rau cho
gia đình sử dụng, nhưng vào năm 1958 mảnh đất nhỏ này cũng
bị tập thể hóa nốt. Tất cả sản phẩm nông nghiệp, trong
đó có lương thực thực phẩm, bông và dầu ăn đều bị nhà
nước mua hết. Đảng ủy và chính quyền cấp trên của xã
quyết định mỗi người nông dân được sử dụng bao nhiêu
ngũ cốc và loại ngũ cốc nào. Buổi sáng dân làng tập trung
lại để nghe lãnh đạo đội phân công lao động, họ làm
việc cùng nhau dưới sự lãnh đạo của đội trưởng.
Khi độc quyền của nhà nước trong việc mua và bán đã trở
thành hiện thực thì tất cả các mặt hàng cần thiết cho
cuộc sống hàng ngày của cả dân thành thị lẫn nông thôn
đều được cung cấp qua hệ thống tem phiếu của nhà nước.
Những tờ tem phiếu này chỉ được đổi lấy hàng hóa tại
khu vực mà người sở hữu đăng kí hộ khẩu mà thôi. Hệ
thống đăng kí hộ khẩu rất chặt chẽ, muốn rời khỏi khu
vực, dù trong một thời gian ngắn, cũng phải có giấy thông
hành do chính quyền địa phương cấp, lại phải mang theo tem
lương thực, phiếu dầu ăn cùng các loại tem phiếu khác. Khi
đến nơi còn phải trình giấy tờ cho công an địa phương để
đăng kí thì mới được ở và được sử dụng tem phiếu để
mua lương thực và dầu ăn. Tem phiếu có hai loại: tỉnh và
toàn quốc. Tem phiếu toàn quốc được sử dụng bên ngoài
tỉnh mà người đó cư trú, muốn nhận loại tem này thì phải
trình giấy thông hành do Sở/Ty Công an tỉnh cấp.
Ngoài nông nghiệp, nông dân không được làm bất cứ việc gì
khác, muốn rời khỏi làng phải được phép của đội trưởng
sản xuất. Như vậy là, công việc và đời sống của người
nông dân bị chính quyền giới hạn chặt chẽ trong khuôn khổ.
Nhu yếu phẩm thì được tập thể (Công xã Nhân dân), nằm
dưới sự quản lí chặt chẽ của chính quyền, cung cấp. Nếu
xảy ra sai lầm trong chính sách làm cho tập thể không thể cung
cấp được những món hàng nhu yếu phẩm này thì người nông
dân bị trói chân trói tay, chỉ có chết, không có lối thoát
nào khác.
Công xã Nhân dân là từ hợp tác xã nông nghiệp mà ra, đây là
chế độ toàn trị đã phát triển trên một tầng cao mới. Sự
hợp nhất của bộ máy quản lí chính quyền và quản lí làng
xã trong các Công xã Nhân dân tạo ra bộ máy quản lí hành
chính cơ sở của nhà nước và xã hội dựa trên sự hợp
nhất về mặt xã hội. Quá trình này không chỉ hợp nhất bộ
máy quản lí nhà nước với bộ máy quản lí sản xuất mà còn
làm cho tất cả các hoạt động kinh tế đều phụ thuộc vào
mục tiêu chính trị, làm cho tất cả tài sản đều nằm dưới
quyền kiểm soát của quan chức nhà nước và đem cơ cấu tổ
chức của chính phủ thay thế cho gia đình, tôn giáo và tất
cả những hình thức tổ chức xã hội khác.
Khi các Công xã Nhân dân vừa được thành lập, người ta đã
áp dụng hệ thống phân phối liên kết việc cung cấp và hệ
thống tem phiếu với tiền lương. Hệ thống tem phiếu là
phương tiện "cung cấp" cho người dân thường, thông qua các
quan chức tất cả các cấp, những món nhu yếu phẩm mà họ
cần dùng mỗi ngày. Đây là điều kiện để các quan chức
kiểm soát không chỉ tài sản của công xã mà thông qua nhu yếu
phẩm, họ còn kiểm soát cả các thành viên của công xã nữa.
Nếu các quan chức không "cung cấp" thì thành viên công xã
không thể nào sống được. Vì chính phủ không có đủ lượng
hàng hóa cung cấp cho nên hệ thống tem phiếu chỉ tồn tại
trong một thời gian ngắn. Nhưng nó đã gây ra lãng phí khủng
khiếp, đặc biệt là về lương thực thực phẩm.
Trong năm 1958 có một giai đoạn khi bộ đội được đưa về
sống cùng với dân, gọi là quân sự hóa tổ chức, áp dụng
chiến thuật tác chiến vào sản xuất và tập thể hóa đời
sống hàng ngày. Công việc của cả đàn ông lẫn đàn bà trong
Công xã Nhân dân được tổ chức song song với luyện tập quân
sự như là cách kết hợp hoạt động quân sự. Thông qua những
dự án lớn như "Sản xuất thép đại trà", "Đại thủy
nông" và "Sản xuất nông nghiệp đại trà", các quan chức
sắp xếp, tập trung và chỉ huy nông dân theo lối nhà binh.
Nhà ăn tập thể và nhà trẻ biến cách sống truyền thống
với gia đình là đơn vị thành cách sống tập thể với đội
sản xuất là đơn vị. Mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ gia
đình. Sau khi chức năng kinh tế của gia đình, như một đơn
vị kinh tế và phương tiện tồn tại đã bị xóa bỏ, người
nông dân không còn có thể dựa vào lao động của mình để
tìm kiếm thức ăn từ tự nhiên được nữa, mà phải dựa
hoàn toàn vào nhà nước, dựa vào nhà ăn của công xã, đấy
là nơi cung cấp cho họ đồ ăn, thức uống.
Nhà ăn công xã là nguyên nhân chính làm nhiều người chết
đói. Quá trình hình thành nhà ăn công xã diễn ra đồng thời
với việc xóa bỏ đơn vị gia đình và cướp bóc tài sản
của nông dân. Bếp trong từng gia đình bị đập bỏ, dụng cụ
nấu nướng, bàn và ghế thì bị đưa vào nhà ăn công xã. Tất
cả lương thực thực phẩm và củi đun được đưa về nhà ăn
công xã, tất cả gia súc, gia cầm và rau xanh đều do thành viên
công xã thu hoạch. Một số nơi, chỉ có nhà ăn công xã mới
được xây ống khói.
Thiệt hại đầu tiên do nhà ăn công xã gây ra là mất mát
lương thực. Trong hai tháng hoạt động đầu tiên, tất cả các
thành viên công xã, không phụ thuộc vào đóng góp của họ
trong quá trình sản xuất, đều ăn ở nhà ăn công xã. Lúc đó
lo lắng của Mao và các nhà lãnh đạo khác về việc "sẽ làm
gì nếu có quá nhiều lương thực" được truyền xuống tới
tận quần chúng. Nông dân cảm thấy rằng Trung Quốc có nhiều
lương thực và khi số lương thực hiện nay hết thì chính phủ
sẽ cung cấp thêm. Một số công xã sử dụng hết số lương
thực mà họ có ngay từ cuối năm 1958 và chờ nhà nước bổ
sung, nhưng chẳng bao giờ có.
Nhà ăn công xã đẩy các thành viên vào hoàn cảnh cực kì tồi
tệ. Người xếp hàng rất dài, ai đến chậm thì nhịn. Trong
các khu vực miền núi, nơi cư dân sống rải rác, nhà ăn nằm
rất xa, mang được về đến nhà thì thức ăn đã nguội hết.
Chất lượng thức ăn thật là khủng khiếp. Khi lương thực
cạn kiệt, thành viên công xã mang rau dại đến nhà ăn để
nấu, những món này còn tệ hơn nữa. Tình hình này làm cho
nạn đói còn tệ hại hơn. Nhưng nhà ăn công xã lại trở
thành nơi chứa chấp đặc quyền đặc lợi của cán bộ; họ
bao giờ cũng tìm cách ăn cho no, nạn tham nhũng hoành hành cùng
với việc tịch thu một cách bất hợp pháp số lương thực
thực phẩm vốn đã ít làm cho các thành viên công xã đã đói
càng đói thêm.
Chức năng quan trọng nhất của nhà ăn công xã là áp đặt
"chuyên chính vô sản" lên dạ dày của mỗi người. Khi nhà
ăn công xã bắt đầu hoạt động, đội trưởng sản xuất
liền trở thành đội trưởng của cả nhà ăn, những người
tỏ ra bướng bỉnh có thể bị tước luôn khẩu phần. Trên
thực tế, nhà ăn công xã buộc dân làng phải đưa thìa xúc
thức ăn của họ cho lãnh đạo, và bằng cách đó, đưa mạng
sống của mình vào tay lãnh đạo; không còn được cầm thìa
múc lấy thức ăn, dân làng mất ngay quyền kiểm soát chính
mạng sống của mình. Ở một số chỗ trong tác phẩm này, tôi
đã tìm được bằng chứng về sự kiện làm thế nào mà việc
tịch thu lương thực thực phẩm tại một số địa phương đã
làm người dân chết đói. Hàng ngàn người đã chết một cách
oan ức vì bị cán bộ cơ sở đánh đập hoặc ngược đãi.
Dương Úy Bình (楊蔚屏), ủy viên Ban Thư kí Tỉnh ủy Hà Nam,
trong "Báo cáo về sự kiện ở Tín Dương" đề ngày 15 tháng
10 năm 1960, đưa ra những số liệu cụ thể như sau: 2.104
người ở huyện Cận Quang Sơn (僅光山) và huyện Hoàng Xuyên
(潢川) bị đánh cho đến chết, 254 người ở huyện Hoàng
Xuyên bị đánh đến mức trở thành tàn phế. Không chỉ dân
làng mà cả những cán bộ địa phương có thái độ bất hợp
tác cũng bị giết và bị đánh. Ở làng quê, cái gọi là
chuyên chính vô sản, trên thực tế, đã trở thành chế độ
chuyên chế của cán bộ, những kẻ có quyền lực lớn có thể
đối xử rất tàn tệ với người dân và thuộc cấp dưới
quyền.
Trong quá trình công xã hóa, có chiến dịch gọi là chống lại
"báo cáo láo về sản lượng và phân phối lén lút" và tổ
chức nhà ăn công xã, những người có thái độ lừng chừng,
những người lén lút ăn hạt giống của công xã vì đói quá,
những người không đủ sức tham gia vào những dự án thủy
lợi lớn, bị trừng phạt rất dã man. Có hàng chục biện pháp
trừng phạt khác nhau, trong đó có treo lên xà nhà rồi đánh,
quỳ trong một thời gian dài, đưa đi diễu trên đường phố,
bắt nhịn ăn, đứng dưới nắng hay ngoài trời lạnh, cắt tai
hay biện pháp gọi là "đậu xào" (nạn nhân bị những
người đứng xung quanh thay nhau xô đẩy và đánh đập). Tất
cả đều khủng khiếp, đều không thể nào chịu đựng nổi.
Ở công xã Bành Tân (彭新), huyện La Sơn (羅山), địa khu Tín
Dương, 16 đảng viên dự bị tham gia đánh người đã được
"trả công" bằng việc chính thức kết nạp vào Đảng. Một
người không được kết nạp vì không chịu tham gia vụ đánh
người nói trên. Một số chương và phần trong tác phẩm này
có trình bày bằng chứng rằng có nhiều trường hợp bị chết
vì bị đánh đập tại một số tỉnh. Cần phải nói rằng
những trường hợp này được đưa ra ánh sáng trong chiến
dịch sửa sai diễn ra vào năm 1961. Đa số trường hợp xảy ra
ở những đội sản xuất "lạc hậu" "hạng ba", và không
phải đội sản xuất nào cũng xảy ra những vụ bi kịch như
thế. Dẫu sao, cái gọi là những đội sản xuất "lạc
hậu", theo Mao, chiếm tới một phần ba tổng số đội trong
cả nước, một tỉ lệ phải nói là quá cao.
Trong những điều kiện bình thường, khi nạn đói xảy ra, dân
chúng thường kêu gọi sự trợ giúp từ bên ngoài hay chạy sang
những vùng khác. Nhưng trong hệ thống chính quyền của Trung
Quốc lúc đó, dân làng không có quyền tìm kiếm sự giúp đỡ
hay chạy đi nơi khác. Các quan chức mọi cấp sử dụng mọi
phương tiện họ nắm trong tay nhằm ngăn chặn tin tức về nạn
đói để nó không lan truyền ra thế giới bên ngoài. Sở Công
an kiểm soát tất cả thư từ và giữ lại những bức thư gửi
ra những khu vực khác. Thị ủy Tín Dương buộc bưu điện
địa phương giữ lại 12.000 bức thư kêu gọi trợ giúp từ
bên ngoài. Nhằm ngăn chặn, không cho tin tức về nạn đói lan
truyền ra ngoài, cả làng bị đặt trong tình trạng nội bất
xuất ngoại bất nhập, người dân bị cấm không được ra
khỏi nhà. Những người tị nạn, tức là những người đã
tìm cách trốn được, bị dẫn đi diễu hành trên đường
phố, bị đánh hay trừng phạt bằng những biện pháp khác như
những kẻ "lang thang".
Đa số chịu đựng, một ít người chống đối hệ thống đã
bị nó nghiền nát. Trước một hệ thống chính trị tàn nhẫn
như thế, quyền cá nhân đơn giản là không tồn tại. Hệ
thống giống như một cái khuôn đúc; kim loại dù có rắn đến
mức nào, nhưng một khi đã bị đun chảy và đổ vào khuôn thì
sẽ có hình dạng giống như nhau cả. Dù là ai, sau khi đi qua
hệ thống toàn trị, tất cả đều trở thành một người có
hai bộ mặt nhìn vào hai hướng khác nhau: bạo chúa hay nô lệ,
tùy thuộc vào vị trí của anh ta với cấp trên hay cấp dưới
của mình. Mao Trạch Đông là người làm ra cái khuôn đó (nói
một cách chính xác hơn, ông ta là người kế tục và hoàn
thiện mô hình chuyên quyền độc đoán), và chính ông ta, ở
khía cạnh nào đó, cũng là đày tớ của chính cái khuôn đó.
Trong khuôn khổ của hệ thống này, hành động của cá nhân Mao
là hành động có ý thức, nhưng ở mức độ nào đó những
hành động này lại nằm ngoài tầm kiểm soát của ông ta.
Không ai, thậm chí cả Mao, có đủ sức chống lại hệ thống.
Mặc dù ông ta đã sớm nhận thức được những vấn đề nổi
lên vào năm 1958 và đã đưa ra một số chỉ thị nhằm chỉnh
đốn lại, nhưng không có kết quả. Theo logic của thời đó và
trong khuôn khổ thịnh hành lúc đó, những cái hiện nay là vô
lí rành rành thì lúc đó lại là có lí và là chuyện thường
ngày.
Chế độ toàn trị là chế độ lạc hậu nhất, dã man nhất
và phi nhân nhất so với tất cả những chế độ khác trong
thế giới hiện đại. Vài chục triệu người vô tội chết
trong một nạn đói kéo dài ba năm là hồi chuông báo tử cho
hệ thống này. Phong trào giáo dục xã hội chủ nghĩa và Cách
mạng Văn hóa diễn ra sau đó đã không những không cứu được
hệ thống mà còn làm cho nó trở thành vô phương cứu chữa.
<div class="boxright320"><img
src="http://www.procontra.asia/wp-content/uploads/2012/08/C%C3%B4ng-x%C3%A3-Nh%C3%A2n-d%C3%A2n-Trung-Qu%E1%BB%91c.-%E1%BA%A2nh-Internet.jpg"
/></div>
Sau hơn 20 năm cải cách kinh tế, hệ thống toàn trị đã trở
nên linh hoạt hơn; các Công xã Nhân dân đã bị giải tán từ
lâu, độc quyền của nhà nước trong việc mua và bán cũng đã
bị bãi bỏ, và người dân đã có quyền tìm kiếm và phát
triển cách sống của mình thông qua thị trường. Trung Quốc
đã trải qua một cuộc chuyển hóa cực kì to lớn. Nhưng vì
hệ thống chính trị vẫn không thay đổi, những thay đổi
ngoạn mục trong lĩnh vực kinh tế và xã hội chỉ làm tăng
thêm mâu thuẫn giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng kinh
tế mà thôi. Biểu hiện rõ nhất của mâu thuẫn này là việc
phân phối một cách bất bình đẳng thành quả và giá phải
trả của công cuộc cải cách. Những người phải trả giá
đắt nhất cho công cuộc cải cách lại là những người
được hưởng lợi ít nhất, và trong một số trường hợp còn
trở thành thành viên của tầng lớp bị thua thiệt nữa. Những
người phải trả giá ít nhất cho công cuộc cải cách lại là
những người hưởng lợi nhiều nhất và trở thành thành viên
của giai cấp đặc quyền đặc lợi. Những vụ lạm dụng đan
xen với nhau trong nền kinh tế thị trường chỉ nhằm thu lợi
nhuận và quyền lực không hạn chế của chế độ toàn trị
đã gây ra vô vàn bất công và làm gia tăng sự bất bình trong
đa số thuộc tầng lớp dưới.
Trong thế kỉ mới, tôi tin rằng những người cầm quyền cũng
như người dân thường đều nhận thức một cách thực tâm
rằng hệ thống toàn trị đã đi tới giai đoạn cáo chung rồi.
Vấn đề bây giờ là làm sao giảm thiểu được những biến
động xã hội và thiệt hại khi hệ thống thay đổi. Đây là
vấn đề cần phải xem xét. Tôi tin rằng nếu mỗi người
đều tiếp cận vấn đề không phải từ quyền lợi cá nhân
hay quyền lợi của nhóm mà vì quyền lợi của xã hội rộng
lớn hơn và tiến hành lựa chọn một cách có ý thức nhằm
thực hiện công cuộc cải cách thì chúng ta có thể tìm được
biện pháp nhằm giảm đến mức tối thiểu cú sốc và thiệt
hại mà nó gây ra. Cơ sở của nền kinh tế thị trường đã
tạo ra nền tảng kinh tế vững chắc cho hệ thống chính trị
dân chủ, còn xã hội toàn trị thì đã nới lỏng thành xã
hội hậu toàn trị rồi. Thị trường phát triển cùng với quá
trình dân chủ hóa. Tôi tin chắc rằng một ngày nào đó Trung
Quốc sẽ chứng kiến chế độ toàn trị được thay thế bằng
chế độ dân chủ. Và ngày đó sẽ chẳng còn xa nữa.
Bằng tác phẩm này, tôi đã dựng trước bia mộ cho ngày tàn
của hệ thống toàn trị, để cho các thế hệ sau biết rằng
trong giai đoạn chuyển tiếp của lịch sử, tại một số
nước người ta đã từng thiết lập nên một hệ thống nhân
danh "giải phóng nhân loại" nhưng kết quả thực sự lại
là sự nô dịch con người. Hệ thống này tự quảng bá là
"Đường lên thiên đàng" nhưng trên thực tế lại là
"Đường tới diệt vong".
<strong>Nguồn:</strong> Tạp chí "<em><strong>Trung Hoa đương
đại</strong></em>" (2010), số 19 (66), tháng 9, trang 755-776). <a
href="http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/10670564.2010.485408#preview">Bản
tiếng Anh</a>.
Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra; © 2012 Bùi Xuân Bách, Phạm
Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ
___________________________
<strong>Lời cảm tạ:</strong> Chúng tôi, những người dịch, xin
chân thành cám ơn những người bạn thân đã cổ vũ và giúp
đỡ rất nhiều, chẳng hạn như tìm giúp cho bản tiếng Hán,
bớt thời gian quý báu của mình đọc trước bản dịch và
đóng góp nhiều ý kiến xác đáng.
<strong>Lưu ý về chú thích:</strong>
- Chú thích của tác giả sẽ viết tắt là TG.
- Chú thích của người dịch bản tiếng Anh sẽ viết tắt là
TA.
- Chú thích của người dịch bản tiếng Việt sẽ viết tắt
TV.
- Tên riêng nào (chỉ còn có hai cái) chúng tôi chưa tra được
nguyên văn tiếng Hán, đành phỏng đoán sát nhất và đánh dấu
hoa thị (*).
___________________________
[i] TA: Trong những trang sau tác giả gán trích dẫn này cho tác
phẩm Luật pháp (The Laws) của Plato, được Karl R. Popper dẫn
lại trong Xã hội mở và những kẻ thù của nó (The Open Society
and Its Enemies).
[ii] TG: Lưu Thiếu Kỳ, "Diễn văn tại Hội nghị công tác mở
rộng Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, 27
tháng 1 năm 1962, in trong Tuyển tập Lưu Thiếu Kỳ, tập 2 (Bắc
Kinh: Nhân dân xuất bản xã, 1985), trang 441–442.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/tin-tuc/20120914/duong-ke-thang-nen-chinh-tri-hai-dan-cua-mao-trong-thoi-ki-dai-nhay-vot-o-trung),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét