Nguyễn Thái Linh - Tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế (Kỳ I)

<div class="boxleft200"><img
src="http://tiasang.com.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/ImageHandlerLarge.ashx?width=250&height=152&HomeDirectory=%2fPortals%2f0%2fVietTotal.Articles%2fChinhtrixahoi%2f&fileName=Khao-le-2.jpg&portalid=0&i=4387&q=1"
/><div class="textholder">Lễ hội dân gian ở đảo Lý Sơn tái
hiện
mô hình đội hùng binh bảo vệ Hoàng Sa</div></div>
<strong>Tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa có thể xem như một trong những tranh chấp phức
tạp, lâu dài nhất trong lịch sử luật quốc tế. Thực tế
tranh chấp với nhiều khía cạnh lịch sử, pháp lý, chính trị
v.v… đòi hỏi một nỗ lực tổng thể khi tìm hiểu. Trong
khuôn khổ bài viết ngắn này, một cách khái quát, chúng tôi
muốn trình bày và cân nhắc luận thuyết của các bên tranh
chấp dưới ánh sáng luật pháp quốc tế.</strong>

Trong tranh chấp Hoàng Sa, các bên tranh chấp là Việt Nam, Trung
Quốc và Đài Loan đều đòi hỏi chủ quyền đối với toàn
bộ quần đảo.

Tranh chấp Trường Sa bao gồm các bên Việt Nam, Trung Quốc,
Đài Loan, Philippines, Malaysia và Brunei, trong đó Việt Nam, Trung
Quốc và Đài Loan đòi hỏi chủ quyền đối với toàn bộ
quần đảo, Philippines (mới tham gia tranh chấp từ năm 1951) và
Malaysia (từ năm 1978) đòi hỏi chủ quyền với một phần quần
đảo, còn Brunei chỉ đòi hỏi một đảo (Louisa Reef, từ năm
1984).

<h2>I. Luận thuyết của Việt Nam</h2>

<strong>1. Từ thời kỳ nhà nước phong kiến, Việt Nam đã
có danh nghĩa pháp lý đối với các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa dựa trên quyền phát hiện và chiếm cứ hiệu quả
đối với lãnh thổ vô chủ (terra nullius).</strong>

Theo luật quốc tế, bản thân quyền phát hiện đầu tiên
một lãnh thổ vô chủ không đủ để tạo ra danh nghĩa pháp lý
cho quốc gia phát hiện. Muốn thụ đắc chủ quyền, quốc gia
này phải tiếp tục chiếm cứ hiệu quả lãnh thổ đó. Hai
nguyên tắc cơ bản trong việc thụ đắc chủ quyền <strong>là
nguyên tắc thực sự</strong>, tức là chiếm hữu thực sự lãnh
thổ vô chủ, coi nó như một bộ phận lãnh thổ của mình và
thực thi quyền hạn nhà nước, quản lý hành chính trong một
thời gian hợp lý; <strong>với nguyên tắc công khai</strong> –
việc chiếm hữu phải được các quốc gia khác công nhận.
<em>(1)</em> Một cá nhân hay một công ty không thể thụ đắc
chủ quyền lãnh thổ.

Ngoài yếu tố vật chất (corpus), việc chiếm hữu thực sự
đồng thời còn đòi hỏi yếu tố tinh thần (animus) nghĩa là ý
chí của quốc gia muốn chiếm hữu lãnh thổ vô chủ.

Để chứng minh cho quyền phát hiện và chiếm hữu thực sự
của mình, Việt Nam đã đưa ra các luận cứ sau:

- Nhà nước phong kiến Việt Nam đã biết đến các quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi đó được gọi dưới tên chung
là Đại Trường Sa, Hoàng Sa hay Vạn Lý Trường Sa và coi chúng
là một phần lãnh thổ của mình.

- Trong suốt ba thế kỷ từ XVI đến XIX, chính quyền phong
kiến Việt Nam đã thực thi liên tục chủ quyền của mình ít
nhất là trên quần đảo Hoàng Sa bằng cách thường xuyên cử
các đội thuyền Hoàng Sa và Bắc Hải đến các đảo này hàng
năm, trong nhiều tháng, để khảo sát, đo đạc, khai thác tài
nguyên một cách có hệ thống, thu lượm các tài sản chìm
đắm, xây miếu dựng đền và trồng cây như các biểu tượng
khẳng định chủ quyền, tổ chức thu thuế, cứu trợ các tàu
thuyền nước ngoài gặp nạn. Việc thực thi chủ quyền này
diễn ra hoàn toàn không gặp bất cứ sự phản đối hay tranh
chấp nào từ phía các quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, và có
đầy đủ cả yếu tố vật chất (corpus) lẫn tinh thần
(animus).

Để chứng minh cho luận cứ này, Việt Nam đã đưa ra các
nguồn tài liệu chính thức của nhà nước như Đại Nam thực
lục tiền biên (1600-1775), Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ
thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776), Đại Nam thực lục
chính biên (1848), Đại Nam Nhất Thống Chí (bộ sách địa lý
lịch sử chung của Đại Nam 1865-1882), Lịch triều hiến chương
loại chí (1821), Hoàng Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương
giám khảo lược (1876), các châu bản triều Nguyễn về các
bản tấu, phúc tấu, các dụ của các Vua, và hàng loạt bản
đồ, tài liệu của nước ngoài thời kỳ đó. <em>(2)</em>

Các tác giả Jaseniew Vladimir và Stephanow Evginii trong cuốn
<em>"Biên giới Trung Quốc: từ chủ nghĩa bành trướng truyền
thống đến chủ nghĩa bá quyền hiện nay"</em>, sau khi trình
bày các sự kiện cho thấy việc thực thi chủ quyền liên tục
của nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cũng nhấn mạnh: <em>"từ lâu đời, chính quyền
phong kiến Việt Nam đã sát nhập các quần đảo như Hoàng Sa
và Trường Sa vào bên trong biên giới lãnh thổ nhà nước Việt
Nam."</em> <em>(3)</em>

<strong>2. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ tại Việt Nam,
Pháp đã đại diện cho Việt Nam trong việc thực thi và bảo
vệ chủ quyền trên các quần đảo.</strong>

Năm 1899, toàn quyền Paul Doumer ra đề nghị chính phủ Pháp
một hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, công việc
này không thực hiện được vì thiếu ngân sách.

Ngày 8.3.1925, toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng Sa
thuộc lãnh thổ nước Pháp. <em>(4)</em> Các chuyến khảo sát và
nghiên cứu khoa học đã được thực hiện ở quần đảo Hoàng
Sa từ năm 1925 và ở Trường Sa từ năm 1927.5

Năm 1930, chính quyền Pháp ở Đông Dương cử phái đoàn
đến treo cờ trên quần đảo Trường Sa. Sau đó, từ năm 1930
đến 1933, các đơn vị hải quân Pháp đã chiếm cứ các đảo
chính của quần đảo này: đảo Trường Sa (13.4.1930), đảo An
Bang (7.04.1933), đảo Ba Bình (10.4.1933), nhóm Hai Đảo (10.4.1933),
Loai Tạ (11.4.1933), Thị Tứ (12.4.1933) cùng các đảo nhỏ xung
quanh các đảo nói trên. Việc chiếm cứ này được thông báo
trong Công báo của Cộng Hòa Pháp ngày 26 tháng 7 năm 1933 và
Công báo Đông Dương ngày 25 tháng 9 năm 1933. Việc chiếm cứ
này không gặp bất cứ sự phản đối nào từ phía Trung Quốc,
Philippines, Hà Lan (khi đó đang chiếm Brunei) hay Mỹ. Nước Anh
yêu cầu giải thích và tuyên bố thỏa mãn với hồi đáp của
Pháp. <em>(6)</em>

Ngày 2.12.1933, Thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer sát nhập
quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.

Ngày 30.3.1938 hoàng đế Bảo Đại đã ra chiếu chỉ sát
nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên. Ngày 15 tháng 6
năm 1938, Toàn quyền Đông Dương J. Brévié ra nghị định thành
lập một đơn vị hành chính tại Hoàng Sa. Sau đó chính phủ
Pháp tiến hành chiếm cứ thực sự toàn bộ quần đảo. Một
đội quân cảnh vệ được cử đến đồn trú thường xuyên
tại đây. Vào năm 1938, bia chủ quyền được dựng lên với
dòng chữ <em>"Cộng Hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần
đảo Hoàng Sa, 1816 – đảo Hoàng Sa – 1938"</em>. Một hải
đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến được
đặt trên đảo Hoàng Sa <em>(7)</em>.

Năm 1939, Nhật chiếm đóng Trường Sa, đổi tên quần đảo
thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần đảo) và đặt chúng dưới
quyền tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Tháng 4 năm 1939, Pháp
gửi công hàm phản đối các hành động quân sự của Nhật và
khẳng định quần đảo này là một phần lãnh thổ của An Nam
<em>(8)</em>.

Ngay sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, chính quyền Pháp đã
lập tức khôi phục lại sự có mặt của mình trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 6 năm 1946, một phân đội
của Pháp đã đổ bộ lên Hoàng Sa để chiếm lại quần đảo.
Tháng 10 năm 1946, chiến hạm của Pháp mang tên
<em>"Chevreud"</em> đã đến Trường Sa và đặt bia chủ quyền
trên đảo Ba Bình <em>(9)</em>.

Cuối năm 1946, khi Trung Hoa Dân Quốc cử quân đội đến
chiếm đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), Pháp đã
phản đối và yêu cầu họ rời khỏi quần đảo.

Như vậy, với tư cách nhà nước bảo hộ đại diện cho
quyền lợi của An Nam, chính phủ Pháp không hề từ bỏ mà
vẫn thực thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa
một các liên tục. Đối với Trường Sa, Pháp coi đây là lãnh
thổ vô chủ và đã chiếm cứ thực sự trước khi các nước
khác có mặt trên quần đảo này mà không gặp sự phản đối
đáng kể nào từ phía các quốc gia khác.

<strong>3. Chủ quyền của Việt Nam tiếp tục được thực thi
và bảo vệ sau khi Pháp rời khỏi Đông Dương</strong>

Ngày 14.10.1950, chính phủ Pháp chính thức trao lại cho chính
quyền Bảo Đại việc quản lý hai quần đảo.

Trong phiên họp thứ 7 tại Hội nghị hòa bình San Francisco
vào ngày 7.9.1951, đại diện Quốc Gia Việt Nam (chính quyền
Bảo Đại) là thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Trần
Văn Hữu đã chính thức tuyên bố khẳng định chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không có một
phản đối hay bảo lưu nào từ phía 51 nước tham dự Hội
nghị. Cả Trung Quốc và Đài Loan đều vắng mặt trong hội
nghị này. <em>(10)</em> Tuy nhiên, Trung Quốc bảo lưu yêu sách
của họ đối với các quần đảo qua tuyên bố của bộ
trưởng ngoại giao Chu Ân Lai ngày 15.8.1951.

Sau Hiệp ước Geneva năm 1954, hai quần đảo được Việt Nam
Cộng Hòa kiểm soát. Ngày 22 tháng 8 năm 1956, sau khi quân Pháp
rút đi, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập ngay lập
tức sự kiểm soát của họ tại Hoàng Sa và Trường Sa và
đối phó với Trung Quốc trong tranh chấp này. <em>(11)</em>

Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, với tư cách người thừa
kế danh nghĩa pháp lý cùng các quyền và yêu sách của Pháp,
đã liên tục tiến hành quản lý hành chính, khảo sát, khai
thác và bảo vệ hai quần đảo bằng các hành động như: cắm
cờ, lập bia chủ quyền trên quần đảo Trường Sa (8.1956), sát
nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam (7.1961), khẳng
định chủ quyền đối với hai quần đảo bằng thông cáo của
Bộ Ngoại Giao ngày 15 tháng 7 năm 1971, sát nhập quần đảo
Trường Sa vào tỉnh Phước Tuy (9.1973), cấp phép cho khai thác
phân chim, bắt giữ nhóm quân Trung Quốc giả dạng ngư dân xâm
chiếm nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa (2.1959). Tháng 1
năm 1974, khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm toàn bộ các đảo
Hoàng Sa, chính quyền đã phản ứng mạnh mẽ và tận dụng
mọi cơ hội để khẳng định chủ quyền của mình như: gửi
thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo An và Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc đề nghị can thiệp, tuyên bố khẳng định chủ quyền
tại Hội nghị Ủy ban Kinh tế Viễn Đông (3.1974) và tại Hội
nghị lần thứ ba của Liên Hợp Quốc về Luật Biển tại
Caracas (7.1974), công bố sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa
(2.1975).

<strong>4. Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra
đời ngày 2.7.1976 là bên kế thừa hợp pháp của hai nhà nước
trước đó, tiếp tục sở hữu danh nghĩa pháp lý đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho đến nay.</strong>

Thực thi chủ quyền của mình, Việt Nam đã thành lập
huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng
(12.1982), lập thị trấn Trường Sa bao gồm quần đảo Trường
Sa, thị xã Cam Ranh và các đảo phụ cận (4.2007), liên tục có
quân đồn trú tại quần đảo Trường Sa. Các lãnh đạo của
Việt Nam tiến hành các chuyến đi thăm và khảo sát quần đảo
Trường Sa nhằm khẳng định chủ quyền như: các chuyến thăm
của Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh, chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Nguyễn Quyết, tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân
dân Việt Nam Đoàn Khuê vào tháng 5.1988, chuyến thăm của ủy
viên Bộ Chính trị Phạm Thế Duyệt vào tháng 4.1998.

<em>Đón đọc kỳ II: Luận thuyết của Trung Quốc và Đài
Loan</em>

____________________

<strong>Chú thích:</strong>

<em>Tác giả xin trân trọng cảm ơn các góp ý của TS. Dương
Danh Huy, TS. Nguyễn Đức Hùng và TS. Lê Vĩnh Trương cho bài
viết này.</em>

1. Wójciech Góralczyk, Stefan Sawicki, Đại cương công pháp quốc
tế, Warszawa, Wydawnictwo Prawnicze LexisNexis, 2007.

2. Các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế,
sách trắng của Bộ Ngoại giao Việt Nam, 1988

3. Jaseniew Vladimir, Stephanow Evginii, Biên giới Trung Quốc: từ
chủ nghĩa bành trướng truyền thống đến chủ nghĩa bá quyền
hiện nay, Moscow, 1982

4. Jean-Pierre Ferrier, Le conflit des iles Paracels et le problème de la
souveraineté sur les iles inhabitées, Annuaire francais de droit
international, vol.21, 1975

5. Monique Chemillier-Gendreau, Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa, Hà Nội, 1998

6. Beauvois Marcel, Les archipels Paracels et Spratley, Vietnam Press
nr.7574, ngày 27.11.1971

7. Monique Chemillier-Gendreau, sđd

8. Rowiński Jan, Biển Đông, khu vực tiềm tàng tranh chấp ở
châu Á, Warszawa, 1990

9. Samuels Marwyn S., Contest for the South China Sea, New York, 1982

10. Rowiński Jan, sđd

11. Nguyễn Hồng Thao, Luật quốc tế và chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Viện Luật kinh tế biển
Monaco 2000

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12802), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét