Huỳnh Thục Vy - Tại sao là Miến Điện mà không phải Việt Nam?

Đã gần hai tháng trôi qua nhưng dư âm của cuộc bầu cử Quốc
hội bổ sung ở Miến Điện vẫn có sức lan tỏa lớn. Vẫn
còn nhiều dè dặt, thậm chí là hoài nghi về những đổi thay
chính trị chóng vánh ấy, nhưng điều đó không có nghĩa là
chúng ta không được quyền tin tưởng vào một tương lai mới,
tốt đẹp hơn cho xứ sở vàng này.

<h2>Miến Điện thay đổi, Việt Nam thì chưa</h2>

Nhiều nguyên nhân của sự thay đổi được nói đến: 1/ do tác
động của Hoa Kỳ và phương Tây lên chính quyền Miến Điện
vì họ không muốn Miến Điện với vị trí địa chính trị
quan trọng, rơi vào tay Trung cộng; 2/ do sức ép về sự nghèo
khổ, lạc hậu và ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc; 3/ do
tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của những người lãnh
đạo Miến Điện trước hiện trạng đất nước bị cô lập
với thế giới ; 4/ do sự đấu tranh ngoan cường của nhân dân
Miến Điện dưới biểu tượng Aung San Suu Kyi, cùng với tác
động của các cuộc nổi dậy ở Ả Rập khiến Nhà cầm
quyền nhận thấy sự cần thiết phải nới lỏng chính sách cai
trị "bàn tay sắt" của mình nếu không muốn chịu chung số
phận với những kẻ độc tài đã ra đi ở Ả Rập…

Có thể mức độ tác động của những nhân tố này lên sự
cải cách chính trị ở Miến Điện là không giống nhau, nhưng
thiển nghĩ nguyên nhân của vấn đề nằm trong mối quan hệ
cộng hưởng tất cả các nhân tố này. Không phải là cái này
hay cái kia mà là tất cả; vấn đề là nhấn tố nào đóng vai
trò cốt yếu, thúc đẩy các nhân tố còn lại.

Với nguyên nhân đầu tiên, tức là vị trí chiến lược của
Miến Điện đã giúp họ, ta có thể đặt câu hỏi là Việt Nam
với bờ biển dài nhìn ra một vùng biển chiến lược không
quan trong trong con mắt người phương Tây và Mỹ sao? Nếu căn
cứ vào nguyên nhân thứ hai, tức tình trạng nghèo khổ và bị
cô lập, thì ta ngỡ ngàng tự hỏi: Bắc Triều Tiên không nghèo
khổ và bị cô lập với thế giới ư? Về nguyên nhân thứ ba,
nếu tập đoàn độc tài Miến Điện yêu nước thì sao lại
khiến Miến Điện kiệt quệ như thế rồi mới đổi ý, tại
sao mới đây họ vẫn đàn áp đẫm máu các cuộc biểu tình
năm 2007; lâu nay họ vẫn cai trị bằng chính sách khắc nghiệt,
tại sao bỗng nhiên trở nên đầy lương tri như thế? Và với
nguyên nhân cuối cùng, ta có thể nhận thấy rằng, người Mỹ
và phương Tây chỉ can thiệp vào những nơi mà tự nó đã có
một phong trào vững mạnh và cũng chính sự phản kháng mạnh
mẽ ấy của người dân Miến mới là điều gợi lên trong tâm
trí những kẻ cầm quyền ý muốn thay đổi nhiều nhất, vì
họ cảm thấy thực sự bất an về tương lai của mình. Với
kiến thức hạn hẹp của mình, tôi nghĩ, đây mới là nguyên
nhân nền tảng, là điều kiện tiên quyết, ảnh hưởng đến
các nguyên nhân còn lại.

<h2>Miến Điện phản kháng mạnh mẽ, Việt Nam thì chưa</h2>

Từ cách nhìn nhận rằng một phong trào quần chúng phản kháng
bền vững và mạnh mẽ là vô cùng quan trọng, nhiều câu hỏi
cứ quanh quẩn trong đầu tôi, và có lẽ cũng ám ảnh khá
nhiều người. Tại sao ngay từ năm 1974 đã có những cuộc
biểu tình lớn ở Miến Điện, và năm 1988 đã có nửa triệu
người tham gia meeting nghe bà Aung San Suu Kyi đọc diễn văn? Tại
sao năm 2007, hơn 20.000 người bao gồm các nhà sư và dân chúng
Miến Điện đi biểu tình, còn Việt Nam vào năm 2011, số
người đi biểu tình chỉ bằng 1/10 con số ấy vào lúc cao
điểm (dù ở ta, chỉ là biểu tình phản đối Trung Quốc chứ
không phải là biểu tình đòi tự do dân chủ - một đòi hỏi
tiến bộ, quan trọng và cũng nhạy cảm hơn nhiều)?

Người Miến Điện không sợ hãi sao? Không, đã là con người
không ai muốn mang sự an toàn và sinh mạng của mình ra thách
đố, đặc biệt là thách đố những kẻ cai trị có vũ trang.
Người Miến Điện cũng vậy. Bằng chứng là theo các phóng
viên quốc tế có mặt tại Miến Điện, sau những tuyên bố
cải cách của chính quyền, nhiều người dân còn rất dè dặt,
có người còn không dám dừng lại nhìn ảnh Aung San và con gái
quá lâu vì họ e ngại những sự "cởi trói" này là giả
dối (kiểu như năm 1986 Nguyễn Văn Linh "cởi trói văn nghệ
sĩ ").

Người Miến Điện dám dấn thân vì họ từng có kinh nghiệm
với nền dân chủ ư? Đồng ý kinh nghiệm về một nền dân
chủ là điều kiện thúc đẩy lòng kháo khát được sống tự
do. Nhưng người dân bình thường rất dễ quên, trong một
khoảng thời gian đủ dài bị cai trị quá khắt nghiệt, họ
sẽ quên mất mình từng được hưởng điều gì; huống chi
lớp người đã từng kinh qua nền dân chủ ở Miến Điện vào
thời điểm năm 1988 đã già và những người hăng hái đấu
tranh nhất trong cuộc nổi dậy 8888 lại là những người trẻ.
Và một câu hỏi quan trọng được đặt ra ở đây là: người
miền Nam Việt Nam không có kinh nghiệm với dân chủ sao?

Hay vì dân Miến Điện quá đói khổ và thiếu thốn mọi
phương tiện khiến họ phải đấu tranh, còn ở Việt Nam dù sao
vẫn còn có thể chịu đựng được? Chúng ta hãy nhớ lại,
năm 1962 khi Ne Win thiết lập chế độ độc tài, thì đến năm
1974, tức là 12 năm sau, đã có những cuộc biểu tình phản
kháng chế độ. Còn ở miền Bắc Việt Nam, từ năm 1954 trải
qua cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu cùng thời kỳ tem
phiếu bao cấp đói khổ cùng cực, cho đến năm 1986 là hơn ba
mươi năm, thành thị và làng quê tan hoang nhưng không có cuộc
phản kháng nào xảy ra cả. Ở miền Nam, từ năm 1975 đến 1986
trải qua thời kỳ bao cấp quằn quại cũng gần 12 năm nhưng
mọi thứ vẫn im ắng. Bởi vậy, sự nghèo đói không thể là
động lực giúp dân chúng vượt qua sợ hãi để đứng lên,
nếu không muốn nói là nó có thể làm kiệt quệ tinh thần
phản kháng.

Vậy thì tại sao Miến Điện có một phong trào phản
kháng mạnh mẽ như thế, còn chúng ta thì không? Có lẽ nếu
muốn đơn giản hóa vấn đề, ta chỉ cần quy kết cho vận
mệnh mỗi dân tộc. Nhưng dù sao trước tiên chúng ta hãy tự
cho mình cơ hội suy nghĩ một chút về vấn đề này.

<h2>Người Miến Điện giữ được nội lực, Người
Việt Nam thì đã mất nội lực </h2>

Từ trước khi bà Aung San Suu Kyi về nước năm 1988, những
cuộc biểu tình lớn đã nổ ra; nhưng không thể phủ nhận sự
tham gia và lãnh đạo của bà đối với Liên Đoàn quốc gia vì
Dân chủ đã làm phong trào đấu tranh dân chủ Miến Miến có
thêm sức mạnh và sự gắn kết. Nhận định và đánh giá cao
vai trò của bà - con gái một vị anh hùng dân tộc trong việc
kết nối mọi thành phần đấu tranh, các trưởng lão dày dạn
kinh nghiệm đã mời bà tham gia và trở thành người lãnh đạo
Liên đoàn cũng như phong trào đối lập, dù trước đó bà chưa
có kinh nghiệm chính trị nào. Tôi thật sự khâm phục những
con người khả kính này, những con người đã đặt quyền lợi
dân tộc lên trên cái tôi hão huyền để có được một
người lãnh đạo có uy tín, một biểu tượng của phong trào -
điều mà những người đối lập ở Việt Nam chưa có được.
Bởi, như một người bạn mà tôi quý trọng đã nói rằng:
"<em>những người hoạt động ở Việt Nam có một tâm lý
rất lạ: một mặt họ chống lại lãnh đạo (hiểu theo nghĩa
lãnh tụ), mặt khác họ hành xử đầy tính lãnh tụ</em>".
Vậy là ngay từ bước đầu tiên này chúng ta đã không thể
sánh với người Miến Điện; còn chuyện thế nào là lãnh
đạo, thế nào là lãnh tụ và vai trò của người lãnh đạo,
tôi xin được nói trong một bài khác.

Có một người lãnh đạo nhiều uy tín là một điều quan
trọng, nhưng sẽ là vô ích nếu người dân không hưởng ứng.
Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây, khi nói về sự lớn mạnh
của phong trào phản kháng ở Miến Điện chính là cái NỘI
LỰC của họ. Dù sợ hãi chế độ độc tài, người Miến
Điện đã có được một thứ NỘI LỰC mà người Việt Nam
không có. NỘI LỰC ấy nằm ở sức mạnh văn hóa.

Mặc dù dưới những năm cầm quyền của mình, Ne Win muốn học
tập Trung Quốc, định hướng cho Miến Điện theo con đường
XHCN. Nhưng nhìn chung Miến Điện không bị áp đặt một chủ
thuyết nào lên toàn bộ hệ thống chính trị, xã hội, kinh
tế. Chế độ cầm quyền ở đó là quân phiệt chứ không
phải cộng sản như Việt Nam. Một chính thể độc tài không
mang theo mình một chủ thuyết độc hại như chủ nghĩa cộng
sản thì bản chất nó cũng gần giống với một nền quân chủ
chuyên chế; nó có thể làm cho xã hội trì trệ và lạc hậu,
nhân cách xuống cấp ở một mức độ nào đó nhưng ít ra nó
không phá hủy triệt để những giá trị văn hóa truyền thống
của xã hội, để thay vào đó là một loại văn hóa, loại mô
hình xã hội bệnh hoạn, duy ý chí như trường hợp Việt Nam,
Trung Quốc.

Ở Miến Điện, văn hóa, đạo đức và tôn giáo vẫn giữ
được giá trị nội tại, đời sống văn hóa tinh thần của
người dân vẫn nhân văn và thuần phác. Một nền luân lý
Phật giáo đúng nghĩa đứng ở vị trí trung tâm trong đời
sống tinh thần của họ. Như những nhà báo quốc tế ghi nhận
thì, người dân Miến tuy sống nghèo khổ nhưng rất hiền lành,
đa số họ thiền định mỗi ngày. Nghèo khổ và lạc hậu ở
họ không đồng nghĩa với sự hèn nhát và sự xuống dốc về
văn hóa và đạo đức. Chính vì giữ được sức mạnh tinh
thần ấy, chính vì đứng trên cái trụ văn hóa nhân bản, trong
đói khổ, đàn áp và sợ hãi, người dân Miến không ngừng
phản kháng, đòi tự do, dân chủ.

Trái lại, dưới chế độ cộng sản Việt Nam, văn hóa, đạo
đức và các truyền thống tôn giáo tốt đẹp đã gần như bị
hủy hoại tận gốc rễ. Một xã hội hiện đại nửa mùa,
một nền văn hóa mới theo kiểu Tây phương chưa xây dựng
được (mà chỉ bắt chước người ta những thói xấu), còn
cội nguồn văn hóa truyền thống thì đã biến thái thành
những thứ quái dị. Những nhân đức hiền lành, chất phác,
lòng yêu nước thiết tha biến thành những mánh mung, lừa
đảo, vị kỷ. Một tôn giáo truyền thống từng góp phần to
lớn xây dựng nên khí chất Việt Nam, bây giờ đã trở thành
một thứ mê tín dị đoan. Đã mấy mươi năm sống dưới một
chế độ độc tài hủy diệt văn hóa, bóp méo ý chí lành
mạnh và làm thui chột năng lực tinh thần thì lúc đói khổ
chúng ta chỉ lo miếng cơm, lúc sung túc chúng ta chỉ lo hưởng
thụ. Mất cái gốc tinh thần (văn hóa, luân lý) chúng ta đang
lâm vào một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng về ý chí và nhân
cách. Cái gốc của mọi hành động là tinh thần, ý chí yếu
đuối, tinh thần bạc nhược, thì chẳng thể làm những việc
lớn lao (nếu không có những điều kiện đột biến làm đòn
bẩy).

Vì thế, giáo dục dân trí thông qua những luận bàn nghiêm túc
về văn hóa (kể cả văn hóa chính trị), đạo đức, xã hội,
chính trị… sẽ là cực kỳ cần thiết để vực dậy cái
nội lực đã hư hao ấy; để chính sự phục hồi này, nếu
không tạo được một biến cố cho sự đổi thay thì nó cũng
giúp cho một thể chế tiến bộ trong tương lai dễ vận hành
hơn. Và như John Stuart Mill đã nói: "<em>Một dân chúng có thể
còn chưa sẵn sàng cho một thiết chế tốt đẹp, nhưng việc
nhen nhóm lên lòng mong ước có được thiết chế ấy phải là
phần việc cần thiết cho sự chuẩn bị</em>". Văn hóa suy
đồi, tinh thần khiếp nhược chính là những thứ chúng ta
phải chung tay từng giờ để tháo gỡ, hầu mang lại một nội
lực mới cho dân tộc. Có nội lực ấy rồi, không những chúng
ta có thể dễ dàng xóa bỏ chế độ độc tài, mà còn có thể
tiến vào chế độ dân chủ tự do không chút trở ngại.

Huỳnh Thục Vy
Sài Gòn, ngày 25 tháng 5 năm 2012

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12799), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét