Xích Tử - Nghị quyết trung ương 4: Sự khốn cùng của (phương pháp) cách mạng

Việc Đảng CSVN ra nghị quyết trung ương 4 khoá XI <a
href="http://www.tinmoi.vn/nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-4-mot-so-van-de-cap-bach-ve-xay-dung-dang-hien-nay-05730939.html">"Một
số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay"</a>,
nhìn từ một số tiên đề xuất phát, là:

1) Một việc cấp bách, cần thiết phải làm vì những nguyên
nhân được nêu trong mục I của văn bản Nghị quyết.

2) Một công cụ lãnh đạo tầm chính sách nhằm đạt các kết
quả kỳ vọng được nói trong phần Mục tiêu của Nghị
quyết.

3) Một cách phủ dụ nhân dân để củng cố niềm tin vào
Đảng, vốn đã sa sút đến mức tận cùng.

4) Một cách tạo nên tính chính danh của cuộc đấu đá nội
bộ nhằm cấu trúc lại phân công quyền lực, lợi ích của
các thiết chế trong hệ thống chính trị, các nhóm, các êkip
đã hình thành trên nền tảng lợi ích, kể cả quyền lợi
truyền thừa các vị trí lãnh đạo trong tương lai cho đường
dây gia tộc, thân hữu.

Tuy nhiên, cũng từ những ngụ ý đó của việc ra Nghị quyết,
đã cho thấy sự mâu thuẫn, lúng túng, khủng hoảng và khốn
cùng của phương pháp lãnh đạo.

Trước hết, Nghị quyết trung ương 4, dù được giải thích
như là việc thường xuyên trong công tác xây dựng đảng, song
qua đó đã thừa nhận sự thất bại sau tất cả cố gắng
thường xuyên của công tác này. Khi khẳng định <em>"Từ khi
thực hiện đường lối đổi mới.... đã ban hành nhiều chủ
trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng"</em>
(văn bản nghị quyết), <em>"Từ trước đến nay, Đảng ta
luôn luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Đã có không
ít các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư về xây dựng Đảng. Các Cương lĩnh, Văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc đều có đề cập đến công
tác xây dựng Đảng; có đại hội có báo cáo riêng về xây
dựng Đảng. Chỉ tính từ Đại hội VI đến nay, Ban Chấp hành
Trung ương đã ban hành 8 nghị quyết, Bộ Chính trị ban hành 6
nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng. Ban Bí thư khoá VII
đã chỉ đạo tiến hành tổng kết 20 năm xây dựng Đảng
thời kỳ 1975 - 1995; Ban Bí thư khóa IX chỉ đạo tổng kết
một số vấn đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới
(1986 - 2006), trong đó có phần về xây dựng Đảng"</em> (Phát
biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng trong hội nghị quán triệt
nghị quyết cấp trung ương), nhưng <em>"công tác xây dựng
Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có
những yếu kém , khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ
chậm khắc phục...". "Một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên... suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống..."</em> (trích văn bản nghị quyết), đảng đã
thừa nhận, như được phân tích trong phần nguyên nhân chủ
quan của văn bản nghị quyết, rằng toàn bộ quá trình xây
dựng, chỉnh đốn đảng từ trước đến nay đã thất bại
hoàn toàn. Bởi lẽ, nếu không thất bại, những thành công,
kết quả tích lũy của công tác này qua từng giai đoạn sẽ
không cho phép xảy ra tình trạng yếu kém, khuyết điểm lại
ngày càng nặng hơn.

Sự thất bại đó, cùng với những phân tích trong đoạn nguyên
nhân chủ quan nói trên của nghị quyết, có thể khái quát chung
thành những khủng hoảng về phương pháp lãnh đạo, tổ chức,
xây dựng đảng và giáo dục đảng viên như sau:

1. Sự tự giác chấp hành, tu dưỡng, rèn luyện của đảng
viên đối với các yêu cầu của đạo đức cách mạng, tính
đảng vô sản, điều lệ, qui định, chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng, pháp luật nhà nước để tự hoàn
chỉnh, hoàn thiện mình trở thành đảng viên tốt, công dân
tốt, hết lòng phụng sự tổ quốc, nhân dân là không có,
không đầy đủ xét trong nhân cách của từng người và tỉ
lệ về lượng trong tổng số đảng viên. Con đường giáo dục
theo nguyên tắc lêninít này cho chính đảng cộng sản để dẫn
dắt đất nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản đã phá sản
và trở thành ảo tưởng của một biểu hiện về văn hóa,
của kỳ vọng nhân văn chủ nghĩa trong một thời kỳ lịch sử
lãng mạn bi đát. Sức đề kháng cộng sản của đảng viên là
không có thật; con người, trước hết là con người và cuối
cùng cũng là con người. Có thể, một lúc nào đó, người con
vì đảng mà đứng lên tố thằng cha của mình; song hành vi đó
khó và không thể trở thành bản chất, hiểu theo nghĩa bản
chất được hình hành theo thiết kế của mô hình chính trị -
xã hội.

2. Các nguyên tắc sinh hoạt đảng về tự phê bình và phê
bình, về tập trung dân chủ và các yêu cầu về thiết lập
những mối quan hệ xã hội mới giữa đảng viên với đảng
viên, giữa từng đảng viên với đảng có tính chất duy đức,
duy cảm đã chịu thất bại. Công cụ để quảng canh sản
phẩm con người hàng loạt, đồng phục theo <em>"tổng hòa các
mối quan hệ xã hội"</em> mới không đạt yêu cầu.

3. Điều lệ đảng, và kể cả Qui định về những điều
đảng viên không được làm – một loại văn bản vi hiến,
kém văn minh, đã không có hiệu lực gì đối với việc giáo
dục đảng viên và xây dựng đảng.

4. Hệ thống ủy ban kiểm tra các cấp và công tác kiểm tra
của đảng không có tác dụng, không góp phần được bao nhiêu
đối với yêu cầu quản lý, xử lý, giáo dục đảng viên và
xây dựng đảng. Trong một số trường hợp, các hành vi tiêu
cực (tham nhũng, bao che...) lại nảy sinh từ quá trình công tác
kiểm tra.

5. Sự can thiệp của luật pháp vào tổ chức đảng, hoạt
động của đảng và đảng viên là không được, bị hạn
chế, không hiệu quả và có lúc bị cố ý vô hiệu hóa một
cách lạc hậu và hình thức (chẳng hạn khai trừ đảng đối
với đảng viên bị truy tố trước khi ra tòa) dẫn đến những
hệ lụy rất tiêu cực. Nói cách khác, quá trình chuyển mối
quan hệ giữa đảng với nhà nước và toàn bộ các thiết chế
xã hội khác, xác định tọa độ của đảng về mặt luật
pháp và tọa độ pháp lý của cá nhân đảng viên – công dân
theo yêu cầu pháp quyền hóa các mối quan hệ xã hội không
được thực hiện một cách đồng bộ, đầy đủ; cơ chế
đảng trị, đức trị kiểu của đảng, đảng đứng trên
luật pháp, đảng can thiệp vào luật pháp vẫn còn quá rõ và
cũng là nguyên nhân tạo ra các nguyên nhân được nêu trong
nghị quyết. Về thực tiễn, đã được lý thuyết hóa, pháp
luật Việt Nam hiện hành không can thiệp được vào đảng
viên, tổ chức đảng và các hoạt động của đảng (kể cả
hoạt động kinh tế, các can thiệp của đảng vào đảng viên
với tư cách là thực thể công dân, cá nhân được luật pháp
bảo vệ).

Những khái quát nói trên, tựu trung, chứng minh sự phá sản
trong tư duy và lý thuyết, học thuyết của đảng cộng sản
về con người, nhân cách, về khoa học xây dựng con người,
xây dựng xã hội và xây dựng chính mình với tư cách là một
tổ chức chính trị, một chính đảng. Sự phá sản này có
tính phổ biến, bắt đầu từ những quan niệm của Marx quá
đơn giản về con người, về quan hệ giữa con người và chủ
nghĩa cộng sản, từ sự hãnh tiến, kiêu ngạo của Lênin và
những học trò sau đó của ông sau thắng lợi của cách mạng
xô viết ở Nga, vốn đã là một sự vượt ra ngoài qui luật
dự báo của Marx, bị bạo lực hóa, quân sự hóa triệt để
để tiếp tục mở rộng, phát triển từ 1945 đến thập kỷ 80
thế kỷ XX trong những hoàn cảnh chính trị đặc thù và phần
lớn là phi marxist, từ thất bại, khủng hoảng và sụp đổ
một cách có hệ thống của các thể chế chính trị mệnh danh
là xã hội chủ nghĩa cũng trong một hiện tượng chính trị
thế giới mệnh danh là hệ thống. Sự thăng trầm của giấc
mơ xã hội xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa đó gắn
liền và xuất phát một cách biện chứng với sự lầm lạc
về quan niệm con người của chủ nghĩa Mác – Lênin được
khái quát trong Tuyên ngôn của đảng cộng sản như một niềm
tin tôn giáo.

Từ trong sự phá sản, khủng hoảng đó, vốn đã được lãnh
đạo của đảng hiểu được trong cách nói hiểu bệnh, bắt
mạch, ra toa, bốc thuốc, trị bệnh v.v...

Đúng ra là phải thay đổi phương thức đi, đảng vẫn kiên
trì ra một nghị quyết mà tính khủng hoảng, phá sản thấy
được ngay trong sự sinh thành và cả dự báo kết quả của
nó.

1. Về mặt logic, để ra một nghị quyết có nội dung như nghị
quyết 4 – xây dựng, chỉnh đốn đảng, kiểm điểm, phê
bình, vạch ra và xử lý cái sai; qua đó có thể phát hiện
những cá nhân vi phạm về tư tưởng chính trị, đạo đức,
tham nhũng, quan liêu v.v.., chủ thể ra nghị quyết được giả
định không thể là đối tương bị vi phạm đó. Không ai lại
phấn khởi tạo ra một công cụ chế tài để xử lý những
việc của chính mình mà cũng chính mình đã nhận ra, muốn
được chế tài để tốt hơn. Thế nhưng, như nghị quyết chỉ
ra, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã vi phạm.
Vậy thì bộ phận nhỏ đó ở đâu, khi mà chính TBT sau đó là
phần lớn cán bộ, đảng viên và nhân dân rất hồ hởi đón
nhận nghị quyết? Đã khẳng định như vậy, chắc chắn TBT có
thể chỉ ra được bộ phận này; BCH trung ương khi biểu quyết
nghị quyết cũng chỉ ra được bộ phận này; Ban Tổ chức
trung ương, đứng đầu là Trưởng ban, khi xác định suy thoái
về đạo đức, lối sống <em>"là sa vào chủ nghĩa cá nhân,
sống ích kỷ, thực dụng, vụ lợi, lo vun vén cho bản thân và
gia đình, không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, để
vợ (chồng), con và người thân lợi dụng chức quyền của
mình để trục lợi, tiến thân; là cơ hội, hám danh, chạy
chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy tội, chạy tuổi, chạy
bằng cấp...; là đố kỵ, kèn cựa địa vị, cục bộ, bè
phái, gây mất đoàn kết trong Đảng; là quan liêu, xa dân, vô
cảm trước khó khăn, nỗi khổ của nhân dân, bất chấp đạo
lý, dư luận vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm; là kiêu
ngạo, tự phụ, gia trưởng, độc đoán, tùy tiện, vô tổ
chức, tham nhũng, lãng phí, sống xa hoa, hưởng lạc"</em>
(trích hướng dẫn số 11 ngày 14/3/2012 của Ban Tổ chức trung
ương) tất nhiên có thể chỉ ra chủ thể của những vi phạm
đó. Tại sao lại không làm cái công việc chỉ ra để xử lý,
đỡ phải tốn quá nhiều thời gian họp hội và tiêu tốn
tiền của của dân ? Hay đó cũng là một kiểu bao che, vi phạm
chính Qui định những điều đảng viên không được làm?

Suy cho cùng, trước hết, đây cũng là một khủng hoảng kiểu
người bệnh tự chẩn bệnh và bốc thuốc chữa bệnh; là một
kiểu tát nước cứu thuyền thủng do chính mình làm thủng.

2. Về phương pháp, trong 4 nhóm giải pháp, đảng vẫn trở lại
những bổn cũ đã dùng và vô hiệu: tự giác, tự soi mình, tự
nhìn mình, làm gương, tự phê bình, phê bình, kiểm điểm cùng
với những việc khác như các cơ chế chính sách, công tác cán
bộ, công tác kiểm tra, chế độ sinh hoạt đảng, thông tin
tuyên truyền, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn,
học tập và làm theo tư tưởng tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh v.v...

Có khác chăng chút ít, như quá trình tuyên truyền nghị quyết
đã nhấn mạnh, là qui trình kiểm điểm, phê bình làm từ trên
xuống; cấp trên thực hiện trước để làm gương và việc
lấy ý kiến nhận xét của các tập thể, cá nhân ngoài tổ
chức đảng của người kiểm điểm, kể cả ý kiến của số
cán bộ đã nghỉ hưu.

Tuy nhiên, sự lúng túng cũng thể hiện ngay trong những cái khác
này. Cho đến nay, chưa có phương án nào chỉ rõ cách thức làm
gương của cấp trên đối với cấp dưới, ngoài cái thứ tự
trước – sau. Kết quả kiểm điểm của cấp trên không
được thông báo cho cấp dưới. Hơn nữa, chất lượng của
việc kiểm điểm không hoàn toàn phụ thuộc vào cái thứ tự
trước – sau: có những vi phạm của cấp dưới có nguyên
nhân, có sự tham gia, chia chác, chỉ đạo từ cấp trên.

Việc lấy ý kiến của số cán bộ lão thành, cán bộ nghỉ
hưu cũng vậy. Ngoài tác dụng trấn an, phủ dụ các cụ, cách
làm này cũng sẽ tạo nên một sự đấu đá thế hệ dữ dội,
thậm chí là trả thù nhau, nếu phiếu ý kiến của các cụ
được ghi nhận, xử lý đầy đủ. Lý do thì ai cũng biết,
trong hoàn cảnh Việt Nam. Có lẽ đây là lần đầu tiên đảng,
trực tiếp là TBT, huy động và kích hoạt lực lượng này tham
chiến.

Cùng với sự lúng túng trong phương pháp, các phương châm
triển khai nghị quyết lại như một thức bòng bong rối mù.
Văn bản nghị quyết viết <em>"nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né
tránh...đồng bộ, có trọng tâm...kết hợp "chống và xây",
"xây và chống"...kiên quyết, kiên trì...làm từng bước
vững chắc...bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan,
đồng thời không để rơi vào trì trệ, hình thức... giữ
đúng nguyên tắc (không nói rõ nguyên tắc gì – XT), không để
các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi
dụng..."</em>.

Hướng dẫn số 11-HD/BTCTW ngày 14/3/2012 của Ban Tổ chức trung
ương lại càng cẩn thận, chi tiết hơn cả nghị quyết của
tập thể Ban chấp hành:

<div class="special_quote"><em>"tiến hành nghiêm túc, thận trọng,
làm đến đâu chắc đến đó...khắc phục tình trạng xuê xoa,
nễ nang cũng như lợi dụng để "đấu đá", trù dập, vu
cáo lẫn nhau với những động cơ không trong sáng"...," tiến
hành kiểm điểm với phương châm phòng ngừa, ngăn chặn,
"trị bệnh cứu người", giúp nhau cùng tiến bộ, vì sự
trong sạch, vững mạnh của mỗi cá nhân, tổ chức và sự
nghiệp chung của Đảng... không chủ quan, nóng vội, máy móc,
cứng nhắc"</em>.</div>

Sự ràng buộc bởi các phương châm đó, cuối cùng cũng chỉ
tạo ra những chỉ dẫn cho một cách làm cũ kỹ, vô hiệu, sẽ
tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc và có khi cũng chỉ có
cái tốn kém đó là rõ nhất. Đến nay các cấp đã làm xong
việc phổ biến, quán triệt nghị quyết và kế hoạch thực
hiện và bắt đầu giai đoạn lấy ý kiến. Tuy nhiên, như đã
nói ở trên, mỗi cấp, theo thời gian qui định, độc lập
thực hiện việc của cấp mình một cách âm thầm, không có
thông tin gì về việc làm gương. Phần quảng bá cho việc
triển khai nghị quyết trên các phương tiện thông tin đại
chúng rất mờ nhạt, nghèo nàn vì không có tin tức, thời sự
công khai. Tuy hướng dẫn là làm kiên trì, từng bước thận
trọng, làm đâu chắc đó và thường xuyên nhưng tất cả đều
phải kết thúc vào tháng 11/2012 và không biết sau đó sẽ làm
gì. Một điểm cũng rất mù mờ khác làm cho việc tự kiểm
điểm của các tập thể, cá nhân lúng túng là nghị quyết
không xác định thời gian của nội dung kiểm điểm (năm,
nhiệm kỳ hay cả đời); sự cố tình tránh đi mốc thời gian
kiểm điểm có khi là một khía cạnh hài hước của một cuộc
vận động được xem như hết sức nghiêm túc này.

Vì tất cả những hàm ý về khủng hoảng, khốn cùng của
phương pháp lãnh đạo cách mạng đó, cho đến nay, trong phát
ngôn của các vị lãnh đạo cao nhất tại các cuộc họp, các
chuyến làm việc ngành, cơ quan đơn vị và địa phương, chủ
đề nghị quyết không được mặn mà gì lắm và có vẻ trống
đánh xuôi kèn thổi ngược. Trong 4 vị tứ trụ, Thủ tướng
và Chủ tịch Quốc hội hình như chưa có phát biểu gì rõ, có
ấn tượng về nghị quyết. Chủ tịch nước, trong cuộc tiếp
xúc cử tri ngày 2/5 tại Tp Hồ Chí Minh, khi trả lời báo Tuổi
trẻ, đã nói: "Chúng ta đang nói đến "một bộ phận không
nhỏ..." thì bộ phận này ở đâu phải được chỉ ra cụ
thể. Nhóm lợi ích nằm ở đâu cũng phải được chỉ ra,
"nếu cuối nhiệm kỳ này, trung ương công bố rằng việc
thực hiện nghị quyết trung ương 4 thật tốt, nhưng tham nhũng,
lãng phí không giảm là không thành công..., nếu như trung ương
lãnh đạo chống tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ không làm
giảm đi, không đẩy lùi được thì cũng có nghĩa nghị quyết
trung ương 4 không thành công. Nếu không muốn nói là thất
bại." Thế nhưng, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, phát biểu
sau đó một vài ngày, lại có ý rằng không phải phát hiện
được nhiều vụ tham nhũng là thực hiện nghị quyết thành
công. Không biết nên hiểu từ đâu và như thế nào.

<strong>Xích Tử </strong>



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12574), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét