Trần Giao Thủy - Em không phải là hạng gái nhơ nhớp thấp hèn (I)

Đây là bài viết sau khi đọc qua hai luận văn nghiên cứu
điền dã về khu kinh tế mại dâm tại Thành phố Hồ Chí Minh
(Tp HCM) của tiến sĩ Kimberly Kay Hoang, người vừa được Hội
Xã hội học Hoa Kỳ (The American Sociological Association, ASA) chấm
giải <em>"Luận án hay nhất"</em> năm 2012.

Người viết đã đọc để biết và viết để hiểu thêm cùng
giới thiệu lại những kết quả và nhận định của tác giả
một công trình nghiên cứu rất đáng chú ý về một góc nhỏ
của người phụ nữ trong xã hội Việt Nam hiện đại.

Hai báo cáo, <em>"Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and
Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City's Sex Industry"</em>(1) và
<em>"She's Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho Chi Minh
City,"</em> (2) là những công trình đã đoạt giải luận văn
sinh viên cao học tại các đại học Cornell (2008), UC Berkeley
(2010) và những giải thưởng khác cuả ASA và giải Cheryl Allyn
Miller, Những nhà Xã hội học cho Phụ nữ trong Xã hội (2011).
Tác giả Kimberly Hoàng tốt nghiệp cử nhân về Communication &
Asian American Studies tại đại học UC Santa Barbara và theo học Xã
hội học tại đại học Stanford trước khi hoàn tất học trình
tiến sĩ Xã hội học (chú trọng về phụ nữ, giới tính và
tình dục) tại đại học UC Berkeley.

<center><img src="http://dcvonline.net/images/052012/KKHoang.jpg" /></center>

<em><center>Tác giả Kimberly Kay Hoang, Ph.D.
Nguồn ảnh: sociology.rice.edu</center></em>

Sau cuộc nghiên cứu điền dã kéo dài bảy tháng trong khoảng
2006 đến 2007 ở ba khu mại dâm phân tầng rõ rệt tại Tp HCM,
tác giả đã đi đến những nhận định:

<div class="special_quote">

- Người nước ngoài da trắng không phải là khách trả tiền
nhiều nhất;

- Không phải phụ nữ bán dâm nào cũng là người trong giới
nghèo hèn;

- Phụ nữ bán dâm, tùy hoàn cảnh, đã biết khai thác tối đa
tất cả tiềm năng có sẵn, từ trình độ văn hóa, tiền bạc,
đến thể xác, để hành nghề;

- Quan hệ giữa kẻ bán-người mua (dâm) là một sự trộn lộn
chuyện mây mưa với tiền và cả <em>"tình"</em>. Nghĩa là
ngoài phần lao động thể xác (đổi sex lấy tiền) phụ nữ
bán dâm ở Tp HCM còn có phần lao động tình cảm (theo thuyết
của Arlie Hochschild).
</div>

<h2>Phương pháp nghiên cứu</h2>

Với sự chấp thuận của Đại học Stanford năm 2006 và UC
Berkeley năm 2007, tác giả đã thực hiện bảy tháng nghiên cứu
điền dã trong lĩnh vực dân tộc học - chia làm ba lần - từ
giữa tháng 6 năm 2006 đến tháng 8 năm 2007 tại thành phố Hồ
Chí Minh. Để bảo vệ người hành nghề và khách mại dâm,
đại học Stanford và UC Berkeley yêu cầu tác giả phải có lời
đồng ý của những người nhận tham gia vào cuộc nghiên cứu.

Tại địa bàn nghiên cứu, tác giả đã quan sát, thu gặt dữ
liệu như người trong cuộc (participant observation) bằng các
cuộc phỏng vấn, sinh hoạt với phụ nữ hành nghề và khách
mua dâm ở quán bar, cà phê, nhà riêng, tiệm ăn, trung tâm mua
sắm và trên đường phố trong ba khu mại dâm phân tầng rõ
rệt - hạ, trung và cao cấp.

Tất cả phụ nữ hành nghề, tham gia vào cuộc nghiên cứu này
đều trên 18 tuổi, tự ý chọn làm việc độc lập trong khu
vực mại dâm; họ không phải là những phụ nữ hay trẻ vị
thành niên bị mua bán hay ép buộc buôn bán tình dục.

Một điểm đặc biệt, dù trá hình cơ sở hoạt động là
những tiệm hớt tóc, hay quán bar, hoặc đóng vai nhân tình với
khách hàng tất cả những phụ nữ hành nghề mại dâm đều
gọi họ là <em>"gái đi khách"</em> thay vì là gái điếm hay
gái mại dâm vì nghề mại dâm không được phép hoạt động
tại Việt Nam.

Ba khu vực được tác giả chú trọng đến là khu mại dâm
dành cho đàn ông Việt Nam ít tiền, khu mại dâm dành cho khách
người da trắng nước ngoài, và khu vực mại dâm dàng riêng cho
đàn ông Việt Kiều. Lý do những vùng mại dâm này được
chọn làm địa bàn nghiên cứu vì quan hệ khách-gái đi khách
ở những khu vực đó đều xảy ra ở nơi công cộng, dễ quan
sát, và hoạt động ở đó cũng là phần lớn của kỹ nghệ
mại dâm tại Tp HCM.

Tác giả cũng đã trở lại Tp HCM 15 tháng trong khoảng 2009-2010
để nghiên cứu về quan hệ khách-gái đi khách trong các không
gian riêng tư và kín đáo hơn như tại các quán karaoke dành cho
đại gia Việt Nam và các doanh nhân châu Á.

Trong đợt nghiên cứu đầu, tác giả đã thực hiện 13 cuộc
phỏng vấn chính thức với 7 khách mua dâm cùng 6 gái đi khách
và đã gặp một số khó khăn khi dùng phương pháp phỏng vấn
chính thức; dễ hiểu vì phụ nữ mại dâm thường không chịu
trả lời phỏng vấn; tuy nhiên họ đã đồng ý để tác giả
đi theo, quan sát sinh hoạt thường ngày của họ. Hơn nữa, tác
giả cho biết, cả khách và gái đi khách không phải lúc nào
cũng thành thật nói tại sao họ lại chọn hành nghề mại dâm
hay quan hệ thực sự giữa gái đi khách và khách mua dâm.

Thí dụ, gái đi khách cao cấp thường nói họ vào nghề vì
nghèo túng nhưng sự thật, khi tác giả theo đến tận nhà, thì
biết họ thuộc những gia đình khá giả ở địa phương và
ngay cả khi so sánh với tiêu chuẩn thế giới.

Đối với tác giả, phương pháp <em>"quan sát như người trong
cuộc"</em> (participant observation) là yếu tố quan trọng nhất
đã giúp tác giả ghi nhận kỹ càng để nghiên cứu về quan
hệ phức tạp giữa những người mua và kẻ bán dâm.

Tác giả bắt đầu bằng cách bỏ thời gian lai vãng các quán
bar và hè phố địa phương để làm quen với phụ nữ hành
nghề, khách mua dâm cũng như các chủ quán. Giai đoạn hai là
lúc phương pháp <em>"quan sát như người trong cuộc"</em>
được áp dụng triệt để song song với những cuộc phỏng
vấn không chính thức với những phụ nữ hành nghề mại dâm
đã đồng ý tham gia vào cuộc nghiên cứu.

Là phụ nữ gốc Việt sống ở nước ngoài đã giúp tác giả
dễ dàng hơn để làm quen, hỏi chuyện các phụ nữ hành nghề
mại dâm. Họ thường tránh đàn ông với những câu hỏi tìm
tòi vì cho đó là công an chìm đang làm việc. Dù biết tác giả
là người nghiên cứu sống ở nước ngoài và sẽ viết lại
về mình nhưng tất cả các phụ nữ mại dâm đêu không quan
tâm; ngược lại họ để ý và muốn biết về tác giả và
đời sống của tác giả ở Mỹ ra sao.

Về phía khách mua dâm, dù tất cả đều biết tác giả là
người làm nghiên cứu ở Hoa Kỳ nhưng ngoại kiều da trắng và
Việt kiều tỏ ra cởi mở hơn đàn ông Việt Nam trong nước khi
giao tiếp với tác giả.

Trong thời gian nghiên cứu điền dã tác giả đã làm bạn với
hai người lái xe ôm Việt Nam là Cường và Lộc - hai người
đã hướng dẫn tác giả đi vào khu mại dâm cấp thấp nhất
và làm thế nào để ứng xử thích hợp với khách mua dâm và
phụ nữ hành nghề trong khu vực đó.

Trong bảy tháng nghiên cứu, mỗi tuần tác giả làm việc, quan
sát tại hiện trường ba ngày, và để ba ngày ghi chép lại dữ
liệu và nhận định. Sinh hoạt của tác giả thường bắt
đầu bằng những buổi sáng ở những tiệm hớt tóc cũng là
nhà chứa cho phụ nữ mại dâm cấp thấp hành nghề; và những
buổi ăn trưa hay đi mua sắm với khách mua dâm và phụ nữ mại
dâm ở bậc trung và cấp cao. Tác giả trao đổi bằng tiếng
Việt với khách mua dâm và phụ nữ hành nghề mại dâm cấp
thấp. Trong khu vực mại dâm bậc trung và cao cấp tác giả sử
dụng cả tiếng Anh và tiếng Việt với khách và gái đi khách.

Tất cả ghi chép của tác giả đều bằng Anh ngữ và không
dùng tên thật để phòng khi giới chức tránh địa phương
muốn kiểm tra máy tính.

Dữ kiện tác giả trình bày trong luận căn dựa trên những
quan sát và các phỏng vấn chính thức với 54 phụ nữ mại dâm
và 26 khách hàng. Trong đó là 12 phụ nữ mại dâm và bốn khách
hàng trong khu vực thấp, 31 gái đi khách và 15 khách mua dâm trong
khu vực hạng trung, và 11 phụ nữ mại dâm và 7 khách hàng trong
khu mại dâm cao cấp.

Sau cùng, tác giả trình bày và phân tích ba trường hợp điển
hình về mối quan hệ tình dục, liên đới, và riêng tư giữa
khách hàng và phụ nữ mại dâm trong ba khu vực phân tầng trong
kỹ nghệ tình dục tại Tp HCM.

<h2>Mại dâm tại Việt Nam - Bối cảnh lịch sử</h2>

Theo tác giả Kimberly Hoàng, kỹ nghệ mại dâm hiện đại tại
Đông Nam châu Á đã phát triển nhanh từ thời thuộc địa Pháp
và trong giai đoạn chiến tranh Việt Nam với sự thiết lập các
căn cứ quân sự tại nhiều nơi khác nhau trong vùng. Tình trạng
này ban đầu đã giúp tạo nên hình ảnh, ở phương Tây, phụ
nữ Á châu là những người đàn bà ngoan ngoãn và đẹp kỳ
lạ.

<center><img src="http://dcvonline.net/images/052012/phapthuoc.jpg"
/></center>

<em><center>Ngoan ngoãn và đẹp kỳ lạ - Việt Nam thời Pháp
thuộc
Nguồn ảnh: OntheNet</center></em>

Nghề mại dâm tại Việt Nam phát triển theo sự thuộc địa
hóa mãnh liệt của Pháp tạo ra một khu vực mới để phục
vụ đàn ông thực dân. Trước thời là thuộc địa của Pháp,
Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp; sự phát triển các trung
tâm đô thị lớn hội tụ các cơ quan hành chính, thương mại,
và tài chánh của chính phủ thực dân đã làm đảo lộn cấu
trúc kinh tế, thuận lợi cho nghề mại dâm phát triển. Bị
ảnh hưởng nhiều nhất trong thời thuộc địa là khu vực Sài
Gòn-Chợ Lớn - nơi từng được gọi là <em>"Hòn ngọc Viễn
Đông"</em>. Dân số tại đây vụt tăng từ 13.000 người năm
1883 lên đến 250.000 người năm 1932. Tại những thành phố
giống như Saigon, chính phủ thực dân cố gắng đưa ra những
đạo luật nhằm kiểm soát nghề mại dâm bằng cách buộc phụ
nữ hành nghề mại dâm phải ghi danh với chính phủ quận lỵ.
Lý do cơ bản để chính quyền Pháp ban hành luật gắt gao để
bao vệ đàn ông thực dân không bị vướng vào các bệnh hoa
liễu. Tuy nhiên, những luật lệ đó đã hoàn toàn thất bại
vì những chủ nhà thổ thường là các tổ chức bí mật.
Những ổ điếm thường được trá hình là những quán cà phê,
nhà hút thuốc phiện, hay quán nhậu khiến việc kiểm soát
nghề mại dâm trở nên rất khó khăn.

<center><img src="http://dcvonline.net/images/052012/gai-pre75.jpg"
/></center>

<em><center>Bar - Saigon, Việt Nam trước 1975
Nguồn ảnh: OntheNet</center></em>

Trong chiến tranh Việt Nam, chính sách của Bộ Quốc Phòng Mỹ
lúc bấy giờ là ngăn chận mại dâm bất cứ khi nào có thể
làm được. Tuy nhiên, tập tục xã hội Mỹ trong những năm 1960
đã trở nên bớt căng về vấn đề sinh dục. Đến năm 1966,
tại Saigon có hơn 1000 quán bar, hơn 100 hộp đêm và có ít nhất
30 vũ trường. Khi số binh sĩ Mỹ tham chiến tại Việt Nam tăng
thì nhu cầu mại dâm cũng tăng theo. Có khoảng 1/2 triệu lính
Mỹ và binh sĩ Việt Nam trong năm 1967, cùng lúc có độ vài trăm
ngàn phụ nữ làm việc trong kỹ nghệ mại dâm. Đường phố
Saigon, cạnh các căn cứ và cư xá quân sự, dày đặc những
quán bar để phục vụ khách hàng gần như toàn là đàn ông
Mỹ.

Sài Gòn sụp đổ vào 30 tháng Tư 1975 và sau đó đổi tên là
Tp HCM. Dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa, chính quyền cộng
sản đề ra những chương trình "phục hồi nhân phẩm" nhằm
loại trừ nghề mại dâm. Sau hơn 10 năm suy sụp về mặt sản
xuất, lạm phát gia tăng, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã đề ra
một chính sách cải cách gọi là Đổi Mới - chuyển đổi
Việt Nam XHCN thành một quốc gia theo nền kinh tế thị trường
(định hướng xã hội chủ nghĩa); có nghĩa là Việt Nam vẫn
giữ lại chế độ chính trị một đảng cầm quyền. Từ đó,
Tp HCM trở thành một địa điểm có lưu lượng cao về tư bản
và người nước ngoài. Nổi tiếng là <em>"Vùng kinh tế Miền
Nam"</em>, kinh tế Tp HCM chiếm 35% tổng sản lượng quốc gia.
Năm 2006, Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới,
hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Tác giả Kimberly Hoàng
xếp Tp HCM vào hạng một thành phố quốc tế đang lên thay vì
là một thành phố toàn cầu vì vẫn chưa có một hệ thống
giao thông cao cấp, một sàn giao dịch chứng khoán tầm cỡ
quốc tế, và có ảnh hưởng trên thế giới.

Đây chính là luận điểm của tác giả cho rằng Tp HCM là
thành phần ven biên của thị trường tư bản toàn cầu; ở đó
cấu trúc xã hội và kinh tế ngày càng bị ảnh hưởng do sự
toàn cầu hóa từ ngọn - do lưu lượng người và vốn nước
ngoài vào Việt Nam - và sự áp dụng chủ nghĩa vượt phạm vi
quốc gia từ gốc. Người Việt Nam trong nước nắm bắt những
quan hệ, mốc nối từ ngoài để sinh tồn hoặc nâng cao mực
sống là những người đang áp dụng chủ nghĩa vượt phạm vi
quốc gia từ gốc.

Suốt 20 năm qua ít ai để ý đến độ phát triển của nghề
mại dâm tại Việt Nam. Trên thực tế, nghề mại dâm đã lập
tức tăng cao ngay sau khi chính sách Đổi Mới đước áp dụng.
Hiện nay có khoảng 200.000 phụ nữ Việt Nam đang hành nghề
trong kỹ nghệ mại dâm.

<em>Còn tiếp</em>

© DCVOnline

______________________

(1) Kimberly Kay, Hoang, Economies of Emotion, Familiarity, Fantasy, and
Desire: Emotional Labor in Ho Chi Minh City's Sex Industry, Sexualities
13(2): 255-272. 2010.

(2) Kimberly Kay, Hoang, She's Not a Dirty Low Class Girl: Sex Work in Ho
Chi Minh City, Journal of Contemporary Ethnography 40(4): 367-396. 2011.

DCVOnline minh họa.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12657), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét