Hamvas Béla - Văn hóa cổ và văn hóa thời hiện đại

<div class="special_quote"><em>(Trích trong tiểu luận triết học
Scientia sacra)</em></div>

Từ một thí nghiệm vô nghĩa là gần đây người ta mong muốn
gán cho văn hóa một sự quan trọng thái quá, nên chắc chắn
thời nào văn hóa cũng được coi trọng.

Không cần thiết cứ phải đặt tên là văn hóa. Có thể canh
tác đất, thiên nhiên, vật chất, khả năng, tài năng, tri thức
con người; và chỉ canh tác được những thứ này. Không thể
canh tác tinh thần, bởi tinh thần là kẻ thực hiện việc canh
tác.

Văn hóa là sự canh tác thế giới vật chất một cách tích
cực.

Nhưng trong thời cổ, văn hóa không nằm trong ý nghĩa như thế.
Bởi vì canh tác cũng giống như các hoạt động khác, không sở
hữu ý nghĩa độc lập riêng liên quan đến thế giới vật
chất.

Trong thời cổ, người ta không tách thế giới vật chất ra
khỏi hiện thực tinh thần, không coi là hai sự vật riêng
biệt; khi canh tác thiên nhiên, sự canh tác này được đặt
thành sự phụ thuộc từ hiện thực tinh thần.
Văn hóa như một lý thuyết độc lập không có ý nghĩa gì
hết.

Gần đây người ta nói, văn hóa là tư tưởng hình thành độc
lập với con người, là thứ sáng tạo ra trật tự sống, ra
các tập quán, các hình thức, các công cụ, các đối tượng
xã hội từ trên xuống một cách độc quyền như thống trị,
giống như việc tạo ra nghệ thuật, pháp luật, quan điểm,
thậm chí: tinh thần, và như vậy gần đây nhất người ta đã
nâng văn hóa lên thành một lý thuyết điều chỉnh sự sống
tự trị.

Một từ duy nhất về lý thuyết này cũng chớ nên để xổng,
bởi nhầm lẫn này đưa lại một cơ hội cực kỳ hiếm hoi
để diễn đạt sự khác biệt giữa canh tác thời cổ và thời
kỳ lịch sử.

Không nên để lỡ cơ hội này, bởi vì sự khác biệt trong
canh tác thời cổ và trong thời kỳ lịch sử có ý nghĩa quyết
định đến mức, nếu một người nào đó định miêu tả sự
canh tác thời cổ, mà quên xem xét thời hiện tại, thì chỉ
nêu một từ thôi, người ngày nay cũng không thể hiểu nổi.

Câu chuyện bắt đầu như sau: con người thời kỳ lịch sử
(sau Công nguyên - ND) cũng giống con người trước thời kỳ
lịch sử đều cực kỳ nhấn mạnh đến việc nâng cao mức
sống. Con người hiện đại đã thành công trong việc tạo ra
cả một đội quân công cụ và các phụ tùng, nhưng các công
cụ và các phụ tùng này chỉ liên quan đến tất cả những gì
bên ngoài.

Trong khi việc hoàn hảo hóa bề mặt bên ngoài đạt đến mức
độ cực kỳ cao, thì con người, không chỉ không thay đổi mà
còn đặc biệt suy thoái đi. Ở đây không phải vấn đề:
chất lượng đời sống tinh thần của con người hiện đại
được trang bị bằng điện, sưởi ga, telefon, radio hay máy bay
không cao hơn đời sống tinh thần của người nguyên thủy bao
nhiêu. Mà vấn đề là: lý tưởng tính con người trang bị cho
mình không dựa trên một nền tảng nào cả.

Những lý thuyết đạo đức lý tưởng cao vời vợi không ngăn
chặn nổi con người chớ sống một đời sống gần như hoàn
toàn vô giá trị đạo đức. Những yêu cầu to lớn quá cỡ
chứa đựng tràn ngập trong các lý thuyết về nhà nước, nghệ
thuật, trong các sở thích ưu tiên, nhưng không ai có thể thực
hiện nổi, thậm chí niềm cảm hứng về các yêu cầu này cũng
biến mất từ hàng thế kỷ nay.

Hiện thực tinh thần trong kích thước tổng thể của nó có
mặt trong hiện tại, tôn giáo, nghệ thuật, triết học, đạo
đức đại diện cho nó. Nhưng khả năng hiện thực hóa những
điều này từ phía con người đã hoàn toàn biến mất.

Người ta thản nhiên xây dựng những lý thuyết cao quá khổ
về tôn giáo, về đạo đức, về trật tự, về sự sống
đích thực. Yêu cầu của sự canh tác có, nhưng không ai phù
hợp với những yêu cầu này, và sự canh tác này không thể
hiện thực hóa.

Con người hiện đại sống trong một giả bộ về trình độ
tinh thần cực kỳ cao; nhưng thực chất trình độ này là một
ảo tưởng trắng trợn, bởi từ hệ thống tinh thần này không
ai thực hiện nổi bất cứ cái gì.

Người ta gọi văn hóa là mức độ tinh thần, đạo đức,
trật tự, sở thích đã qua giáo dục, là sự sống hối hả,
là những yêu cầu cao, những lý tưởng con người hiện đại
tự đặt ra cho mình.

Bản thân con người hiện đại không với tới được nền
văn hóa này, ở sâu hơn, trong bản năng, trong tư tưởng, trong
đam mê, nhu cầu tinh thần của họ thực ra phát triển một
cách buông thả. Cái mà con người hiện tại đặt tên là văn
hóa, không phải một sự canh tác tích cực mà là một thứ lý
tưởng tính quá cỡ.

Bằng ánh sáng soi rọi từ bên trong có thể hiểu ngay được
tình thế này. Con người càng hoạt động năng động bao nhiêu,
càng nảy sinh nhiều tư tưởng tinh thần sáng sủa bấy nhiêu.
Điều này không còn nghi ngờ gì nữa. Sự hoạt động càng có
hiệu quả bao nhiêu, tinh thần - người cha của hoạt động -
càng được hiện thực hóa một cách trực tiếp bấy nhiêu.

Từ điều này tự nó cho thấy sự hoạt động càng yếu ớt
và vô hiệu quả bao nhiêu, trong con người càng ít tư tưởng
bấy nhiêu, nói cách khác: hoạt động tinh thần càng bị thu
hẹp lại bao nhiêu, hành động càng bất lực và trống rỗng
bấy nhiêu.

Bởi, hoạt động không là gì khác ngoài một tinh thần đã
được thực hiện, và tinh thần không là gì khác, ngoài tình
yêu thương, một thứ tinh thần tích cực, thứ tinh thần của
NGƯỜI CHA, không cần chỉ dẫn tự nó cũng đã có thể hiểu
được.

Có loại hoạt động trong đó tinh thần được thực hiện một
cách đầy đủ; có loại hoạt động trong đó tinh thần bị thu
hẹp lại; và có loại hoạt động trong đó hoàn toàn vắng
bóng tinh thần. Đây là loại hoạt động trong đó không có sự
tích cực, sự tạo dựng, không có tình yêu thương. Đây là
loại hoạt động trống rỗng, phi bản chất, phi sức mạnh,
trong đó không thể thực hiện bất cứ cái gì, bởi không có
gì để thực hiện.

Sự thu hẹp tinh thần xảy ra khi trong hành động, con người
không thực hiện tinh thần người cha của tình yêu thương nhân
gian, mà thay thế vào đấy cái TÔI của cá nhân, khiến hành
động chỉ mang tính chất cá nhân; không để hành động xảy
ra trong sự tích cực trong sạch ban đầu của nó, mà gắn cái
TÔI vào, và như vậy, phá vỡ tình yêu thương.

Văn hóa, mà con người hiện đại đặt tên và cho là như vậy,
không phải sự canh tác tích cực thế giới vật chất, mà là
sự lý tưởng hóa đặt trên đời sống và không liên quan gì
đến đời sống.

Hoạt động của con người hiện đại không tạo dựng, không
mang tính tích cực, mà là thứ hoạt động rỗng, phi bản
chất, yếu ớt, chỉ thu hẹp, đóng khung tinh thần lại, trong
nhiều trường hợp còn làm biến mất tinh thần. Sự lý tưởng
hóa văn hóa, đối nghịch với việc ứng dụng hóa hành động,
bởi vậy hiện thực và thực hành vắng bóng trong sự lý
tưởng hóa này.

Khả năng canh tác tích cực thế giới vật chất ở đây hoàn
toàn không nổi lên. Tinh thần không chạm tới đời sống và
đời sống cũng chẳng chạm tới tinh thần. Không có khả năng
cho quá trình hiện thực hóa.

Một mặt là sự trừu tượng hóa lý tưởng, mặt khác, vắng
bóng sự ứng dụng của thực hành vật chất đã bị thô
thiển hóa, bởi con người hiện đại không sống trong tinh
thần đồng nhất với tình yêu thương, mà chỉ sống trong cái
TÔI riêng của nó. Về điều này, bàn thế là đủ.

<h2><center>2.</center></h2>

Con người thời lịch sử, nhất là thời hiện nay sống trong
một sự nhầm lẫn, rằng sự canh tác đích thực tự mình cần
tạo ra, mục đích tự mình cần lập ra, tiêu chuẩn tự mình
cần xây dựng, và các lý tưởng tự mình cần nghĩ ra. Họ quay
cái TÔI của họ vào việc đi tìm tinh thần, mục đích, tiêu
chuẩn và các lý tưởng. Sau đó gọi sự tìm kiếm những thứ
họ tự đặt ra là văn hóa.
Họ không biết rằng: tinh thần của canh tác tích cực thế
giới vật chất không cần tìm kiếm. Ngay từ thuở ban đầu,
tinh thần như một lời tuyên ngôn đã có sẵn, và nếu như nó
không được gìn giữ trong các cuốn sách thiêng đi chăng nữa,
nó vẫn được giữ như tình cảm bất biến bất tử của linh
hồn con người.

Cần phải làm gì, cần tiếp tục hoạt động gì, cần duy trì
tiêu chuẩn nào, cần thực hiện những lý tưởng nào, điều
này cái tinh thần của tình yêu thương trong con người đều
biết đến từ sự vĩnh cửu.

Các sức mạnh trong con người có đâu phải để tìm ra một
tinh thần mới. Và điều này cũng không thể; một tinh thần
mang tính chất cá nhân chỉ là sự bóp méo của một định
luật tinh thần siêu việt duy nhất mà người Ấn độ gọi là
dharma. Và khi con người thời kỳ lịch sử đặt ý chí của
cái TÔI cá nhân vào vị trí của định luật tinh thần phổ
quát, họ đã phá hỏng tinh thần.
Các sức mạnh không dùng để tìm ra tinh thần mới mà để
thực hiện tinh thần vĩnh cửu và phổ quát. Truyền thống bảo
vệ thứ tinh thần vĩnh cửu và phổ quát này, thứ tinh thần
ngay từ thuở ban đầu đã từng có, vẫn đang có và sẽ tiếp
tục có như một lời tuyên ngôn.

Như vậy văn hóa không phải là sự tìm ra, tạo ra một tinh
thần, một mục đích tiêu chuẩn chưa bao giờ có ở đâu, mà:
văn hóa là việc hiện thực hóa thứ tinh thần đã được
truyền thống giữ gìn.

Lấy một ví dụ đơn giản: Các thư viện khoa học lớn của
thời hiện đại giữ gìn những biểu hiện tinh thần gắng
sức khủng khiếp trong hàng triệu tập sách. Để thực hiện
điều này con người phải bỏ vào đấy một số lượng lớn
các nhà bác học, rất nhiều công việc, công sức, thời gian,
giấy mực, công việc in ấn. Và không bao giờ có thể đo đếm
hết nổi những hy vọng, đam mê, lương tâm, kỷ luật, suy tư
đi kèm với việc thực hiện những cuốn sách này.
Vậy mà chẳng có gì chắc chắn, giữa hàng triệu cuốn sách
này có một tác phẩm là hiện thực của nhân loại trong đời
sống. Toàn bộ nền văn hóa nhân đạo thời hiện đại, tâm
lý học, khoa học xã hội, văn học, triết học, đạo đức
học, mỹ học, ngôn ngữ học, khoa học tôn giáo đều không
thể thực hiện nổi, thậm chí không bao giờ thực hiện nổi,
không bao giờ có thể hiện thực hóa, và tất cả các tác
phẩm đều được tạo ra để không bao giờ có thể hiện
thực hóa chúng.

Hàng triệu tác phẩm này vô ích, thừa thãi, trong một khía
cạnh nào đấy vô nghĩa một cách đau đớn, như thể chưa bao
giờ được viết ra. Nỗi nhọc nhằn, niềm hy vọng, công sức,
chất liệu, đam mê, đổ vào một thứ lãng phí, bởi từ các
tác phẩm này không thể học được gì từ thực tế, tinh
thần của những tác phẩm này không thể thực hiện nổi.

Một <em>"nền văn hóa hùng hậu"</em>- lý tưởng tính, một
sự ba hoa khoác lác tày đình, vô nội dung, tạo dựng từ nhu
cầu phi hiện thực, với lợi ích phi hiện thực, với tiêu
chuẩn hoang tưởng, không chút quan hệ gì với sự sống thực
chất của con người, chưa từng có, và sẽ không bao giờ có.

Triết học hiện đại, đạo đức học, xã hội học, tâm lý
học tạo dựng trong một lý tưởng tính rỗng tuếch khiến
chúng không thể tác động đến đời sống của bất kỳ ai.
Và nếu một ngày toàn bộ những thư viện sách này biến mất
trên quả đất, không ai nhận ra sự thiếu hụt của chúng.

Thậm chí có thể đánh cuộc rằng: con người hiện đại đang
sống trong tôn giáo thiên chúa, nhưng nếu thiên chúa giáo một
ngày bỗng biến mất khỏi quả đất, không ai nhận ra sự
thiếu vắng này, nhất là các vị linh mục.

Tóm lại: trong toàn bộ thế giới hiện đại có một cái gì
đó thiếu cơ bản, giả dối, thổi phồng, bên trong nó là một
sự lường gạt rỗng tuếch, luôn vin vào các lý tưởng, vào
thiên chúa giáo, vào các giá trị đạo đức, nhưng không ai tin
và thậm chí không ai có ý định thực hiện nó. Toàn bộ đời
sống hiện đại có một cái gì đó không thực chất.

Và điều để phân biệt con người cổ với con người hiện
đại chính là điều này: sự thực chất của con người.

Tinh thần về bản chất không khác; tôn giáo, siêu hình học,
đạo đức, trật tự nhà nước, các lý tưởng, sở thích, các
mục đích giống nhau, bởi vì những thứ này trong thời gian và
ở các dân tộc đều như nhau.

Sự khác biệt là: con người cổ sống trong tinh thần, tin vào
tinh thần và đấy là nội dung và số phận của họ, để
thực hiện tinh thần. Sự thực hiện này là hoạt động siêu
hình của đời sống; đây chính là sự canh tác mạnh mẽ, tích
cực của con người vào thế giới vật chất.

Trong hoạt động thực hiện tinh thần này mang tinh thần
người cha của tình yêu thương; chính vì vậy trong toàn bộ
sự canh tác chứa đựng tính chất tôn giáo và siêu hình, và
chính vì vậy sự hoạt động này là một sự sùng bái.

Con người hiện đại, dù biết về siêu hình, về tính chất
sùng bái của hoạt động, về đặc tính tôn giáo của sự canh
tác, nhưng họ không tin, họ vứt bỏ yếu tố tinh thần, và
nội dung cuộc đời của họ: thay cái TÔI cá nhân vào vị trí
tình thương yêu của người cha trong bản chất của hoạt
động.

Tất cả những gì liên quan đến tinh thần của thời hiện
đại đều mang tính chất không tưởng. Cái sẽ thực hiện
trong tương lai không bao giờ hiện thực hóa, mà chỉ là không
tưởng: bởi vậy thời hiện đại là Lời mang tính chất không
tưởng và chủ nghĩa không tưởng là hành vi đặc thù của nó.

Bởi vậy lương tâm của toàn bộ nhân loại thời hiện đại
là một lương tâm hư hỏng: nó thừa biết tất cả những gì
nó nói, đòi hỏi, tuyên bố, thành lập, gắn liền với sự
thực hiện. Nó thu thập lý thuyết, đề ra các mục tiêu, nói
về các tiêu chuẩn, tuyên bố các giá trị, nhưng kẻ đầu
tiên không nghĩ đến việc thực hiện những điều này chính
là kẻ đề ra và tuyên truyền.

Tất cả những gì nhân loại thời hiện đại suy nghĩ và lên
kế hoạch, như một kẻ bắt buộc chịu đựng những khó khăn
thường xuyên đổ lên đầu, không hy vọng nhỏ nhất là
được trả công. Tinh thần thời hiện đại, như mới đây
nhất người ta nói: không hiện sinh, là một thứ phi bản
chất, phi tinh thần, phi cá nhân, rỗng tuếch và không thể
hiện thực hóa.

Nhân loại thời hiện đại về tổng thể đã tự nhầm lẫn
bản thân với các loại lý thuyết của họ. Riêng biệt từng
con người hiện đại, nhất là những kẻ mệnh danh sáng tạo
ra văn hóa, các nhà đạo đức, nhà giáo, các nhà bác học, linh
mục, các đại diện nhà nước đều cho rằng mình đang sống
một đời sống tinh thần rất cao mà không hề nhận ra thứ
tinh thần họ tuyên bố không cái gì được thực hiện.

Những tư tưởng cao siêu đẹp đẽ không hề mang tính phổ
quát, và đứng về mặt cá nhân cũng không thực hiện nổi,
toàn bộ là một ảo tưởng tri thức, núp dưới nó là những
con người đê tiện, kiêu ngạo, huênh hoang, rỗng tuếch, kệch
cỡm, và trước hết là những kẻ ngu muội.

<h2><center>3.</center></h2>

Cần đặt giới hạn cho khái niệm hậu quả. Bởi vì trên nền
tảng này, nếu ai muốn kiểm tra những hiện tượng của đời
sống hiện đại, cần giải thích và mổ xẻ ra toàn bộ.

Một lần nữa cần nhấn mạnh rằng, trong đời sống hiện
đại, tinh thần có mặt trong thời hiện tại như trong tất cả
các thời kỳ khác, chỉ không được hiện thực hóa. Không
được hiện thực hóa bởi con người không canh tác thiên nhiên
vật chất trong tinh thần của yêu thương người cha vĩnh cửu,
mà chỉ muốn canh tác bằng cái TÔI. Và bởi thế không thể.

Hậu quả là: tinh thần không tiếp xúc được với thiên nhiên,
mối quan hệ và tương quan giữa hai thế gian bị gián đoạn:
tinh thần nằm lại trong lý tưởng tính, bởi không hiện thực
nổi, hàng triệu cuốn sách thừa thãi vô nghĩa, các sức mạnh
tự nhiên tự giải phóng thoát khỏi sự kiểm tra của tinh
thần, tự do gây sự và rồ dại, điều này có thể thấy rõ
trong đời sống nhà nước, trong xã hội, trong số phận và
trong thế giới linh hồn của con người.

Hậu quả đầu tiên của tinh thần không hiện thực hóa là ý
nghĩa của đời sống bị thất lạc và lu mờ.

Bởi vì đời sống không phải là một cái gì tự nó có ý
nghĩa, tự nó mang một ý nghĩa. Đời sống tồn tại trong vòng
quay của thiên nhiên vật chất, và nếu thiếu sự tiếp xúc
với tinh thần, nó trở nên bất lực và mù lòa, cũng như trở
nên vô nghĩa và tối tăm.

Giữa những môi trường như vậy không có một khả năng để
biến bất kỳ mức độ nào thành cái phổ quát. Mức độ của
các sự vật sẽ là con người, là cái TÔI, là cái bắt đầu
của sự phi mức độ, của sự vắng thiếu mức độ, của
chủ nghĩa ngụy biện trí tuệ, của đạo đức vô chính phủ
trong đời sống nhà nước, như Khổng tử đã nói: <em>"Quyền
lực là những kẻ to mồm, mốt là nghệ thuật, và đạo đức
giả là đời sống hàng ngày."</em>

Hậu quả của việc đánh mất mức độ- một lần và mãi mãi
– là tất cả mọi người bắt buộc phải tự đặt ra cho
mình chuẩn mực của cái tốt và cái xấu, thực ra chỉ là
một chuẩn mực nhất thời. Đạo đức bị cá nhân hóa và tự
ứng biến đánh mất đi đặc thù hợp lý của nó, để rốt
cục cái tốt và cái xấu không là gì khác ngoài quyền lợi cá
nhân, là thứ thay đổi từng giây từng phút.

Các quy tắc đời sống biến mất; sự bắt chước vô nghĩa,
lối sống tự do cá nhân trở thành tập quán. Tính chất trực
tiếp của cộng đồng xã hội chấm dứt, phép lịch sự, sự
sang trọng, nền nếp giáo dục, sự nhậy cảm đối với cái
TÔI hỗn loạn chỉ còn là gánh nặng. Không ai quan tâm đến
một đời sống chung lành mạnh, bởi tất cả mọi người còn
mải tìm kiếm cho thú vui riêng của mình.

Giữa những môi trường như vậy không thể nói đến một sự
canh tác tích cực. Đời sống trở nên vô nghĩa, sự vô nghĩa
này thẩm thấu toàn bộ mọi khía cạnh, mọi khoảnh khắc của
cuộc sống. Sự canh tác tích cực lúc đầu trở thành gánh
nặng, sau đó trở nên sự cưỡng bức và cuối cùng thành sự
nô lệ. Ở mức độ này sự canh tác mang tên gọi: lao động.

Lao động thực chất chính là hoạt động, nhưng vì không có
quá trình hiện thực hóa của tinh thần nên lao động trở
thành một hoạt động vô nghĩa, khổ sở, nặng nhọc, thấp
hèn và đầy đọa trong đời sống.

Nếu cuộc sống không có ý nghĩa, lúc đó mục đích sống của
con người là sự hưởng thụ vô nghĩa, sự hưởng thụ của
một cái TÔI vô trách nhiệm. Và nếu đời sống vô nghĩa,
hoạt động lúc đó cũng vô nghĩa, và hoạt động vô nghĩa này
chính là: công việc làm hàng ngày.

<h2><center>4.</center></h2>

Nhân loại thời hiện đại, đặc biệt trong khoảng một trăm
năm gần đây đã đặt việc giải quyết vấn đề lao động
thành một trong những mục đích quan trọng nhất của tư
tưởng. Nhưng không đạt được kết quả gì, lao động tiếp
tục vẫn ở vị trí như cũ: lao động là nô lệ, là cưỡng
bức, là sự rùng rợn, và nguyên nhân của nó thật đơn giản.

Người ta không nhìn thấy tất cả không phải bắt đầu từ
lao động, mà từ điều này: tất cả các hoạt động của
đời sống cần mang một Ý Nghĩa.

Trong tức khắc, lao động một lần nữa sẽ biến thành một
canh tác tích cực, nghĩa là nếu một lần nữa các giá trị
tinh thần được hiện thực hóa, mọi vấn đề được giải
quyết ngay lập tức.

Trong thời hiện đại, chỉ duy nhất một hình thức lao động
giữ đặc tính canh tác. Người nghệ sĩ trong thời hiện đại
là kẻ duy nhất hiện thực hóa nổi các giá trị tinh thần. Và
lao động nghệ thuật là thứ lao động duy nhất không biến
thành sự nô lệ bức bối, mà thậm chí tồn tại một cách
lôi cuốn, đẹp đẽ và hoàn chỉnh.

Trong lao động nghệ thuật, con người trực tiếp hoàn thành
những giá trị tinh thần, và như vậy trực tiếp canh tác thiên
nhiên vật chất. Công việc này là tấm gương và giấc mơ
đáng ghen tị cho những công việc khác. Và chắc chắn, chừng
nào sự hiện thực hóa trong các lĩnh vực đời sống - như
công việc của người nghệ sĩ - còn chưa thực hiện được,
chừng đó mọi lý thuyết, luật lệ, mọi công cuộc cải cách
lao động, mọi cưỡng bức đều vô ích.

Đây không phải vấn đề tiền công, thời gian lao động,
không phải vấn đề xã hội, mà duy nhất - độc nhất chỉ
là: mối quan hệ với thế giới vật chất của tinh thần yêu
thương từ người Cha.

Con người, như Zarathustra nói, hoặc là người cha hoặc là kẻ
cướp của thiên nhiên. Con người, hoặc hiện thực hóa tinh
thần yêu thương, lúc đó là người cha của thiên nhiên, hoặc
không hiện thực hóa nổi, lúc đó là kẻ cướp của thiên
nhiên.

Chúng ta biết ơn sự canh tác cổ không chỉ vì các loài thực
vật, lúa, cây ăn quả, cây trồng đã thuần hóa; không chỉ vì
những loài gia cầm, ngựa, bò, cừu; không chỉ vì tất cả
những đồ vật cơ bản dành cho gia đình và đời sống của
chúng ta; mà chúng ta còn biết ơn thời cổ vì tri thức hoàn
hảo của thế giới con người, vì hình ảnh đã tạo dựng và
hoàn thành hoàn chỉnh về con người.

Bởi vì thời cổ đã canh tác thiên nhiên bằng tinh thần của
người cha âu yếm vị tha, tinh thần này thấm đẫm trong sự
thuần hóa mỗi một loại thực vật, trong cộng đồng, trong
linh hồn con người. Sự hiện thực hóa tinh thần người cha
tạo dựng vẻ đẹp của trái đất, tạo dựng hòa bình cho
cộng đồng, cho sự phát triển của thành phố, cho sự hiền
hòa của tính cách.
Và khi con người không bao giờ hiện thực hóa nổi tinh thần
của người cha nữa, nó nhất thiết trở thành kẻ cướp của
thiên nhiên.

Kẻ cướp không chỉ của đất, không chỉ triệt hạ những
cánh rừng, tàn sát lũ súc vật, tước đoạt tài nguyên của
núi, mà nhân dân còn trở thành kẻ cướp của nhân dân, giai
cấp trở thành kẻ cướp của giai cấp, con trẻ thành kẻ
cướp của các bậc thân sinh, thân sinh thành kẻ cướp của con
trẻ, đàn ông thành kẻ cướp của đàn bà, đàn bà thành kẻ
cướp của đàn ông, nông dân thành kẻ cướp của thị dân,
thị dân thành kẻ cướp của công nhân, giai cấp thống trị
thành kẻ cướp của kẻ bị trị.

Con người hoặc là cha hoặc là kẻ cướp của đất,
Zarathustra đã nói.

Và khi không là người cha của đất, không thể hiện thực hóa
tinh thần của lòng yêu thương, lúc đó nó nhất thiết trở
thành kẻ cướp, coi đất như chiến lợi phẩm cần chia bôi cho
một bè lũ, bất kể đấy là một dân tộc hay một giai cấp.

Bản năng ăn cướp đã tạo ra cuộc đấu tranh của các dân
tộc, các giới tính, các chủng loài, tạo ra cuộc đấu tranh
của các thế giới quan- hay nói một cách ngắn gọn: tạo ra
cuộc đấu tranh người ta hay gọi là đấu tranh sinh tồn.

Thời cổ có nhận thức về khái niệm chăm lo sự sống, nhưng
không có khái niệm đấu tranh sinh tồn.

Bởi con người thời cổ đứng trên thiên nhiên, như một
người chủ, người cha của thiên nhiên, như một vị vua tốt
cai trị trên thế gian.

<h2><center>5.</center></h2>

Ở đây phê phán nhân loại thời kỳ lịch sử không phải là
mục đích, mà mục đích là làm nổi bật sự khác biệt của
văn hóa thời cổ và thời kỳ lịch sử, và chỉ cần trích
dẫn một câu nói của Zarathustra, cùng sự giả thích câu nói
đó là đủ đạt đến mục đích này.

Con người thời cổ là người cha của thiên nhiên; là cha của
thiên nhiên bởi con người đã canh tác đời sống với tinh
thần tích cực của tình yêu thương của người cha.

Bởi vì: <em>"Tất cả, cái gì sống và có trên thế gian- kinh
Zohár đã nói - chỉ để cho, và vì con người. Bầu trời có
để cho, và vì mọi thực thể, bởi bản thân các thực thể
và các sự vật không ý nghĩa và cũng chẳng có giá trị
gì."</em>

Sự canh tác không là gì khác ngoài việc hiện thực hóa tinh
thần của tình yêu thương; theo một quan điểm nhất định
nhiệm vụ của con người trong thiên nhiên vật chất không là
gì khác ngoài việc hiện thực hóa tinh thần của người cha,
trên tất cả mọi lĩnh vực vật chất và thiên nhiên: đất,
quan hệ con người, cộng đồng, với khả năng riêng của mỗi
con người.

Đây là mục đích đời sống và nhiệm vụ đời sống duy
nhất, con người hãy trở thành chủ, thành người chăm lo,
người thày, thành vua của thiên nhiên. Đây là trật tự sống
thiêng liêng. Đây là đời sống người trong mọi lĩnh vực,
mọi khoảnh khắc mang tính chất tinh thần, bởi vậy nó là sự
sùng bái trong cái toàn bộ.

Con người lịch sử không phải là người cha mà là kẻ cướp
của thiên nhiên. Họ coi thường vật chất: nhưng sự coi
thường này chỉ là một minh chứng sau cùng: họ cho phép mình
chống đỡ như vậy, vì trước hết họ chà đạp và cướp
bóc vật chất. Hành vi căm thù thiên nhiên vật chất trong
những thế kỷ gần đây là một quan niệm muộn mằn và lạc
lõng, để đánh lạc hướng việc chú ý đến bản chất.

Con người không thù hằn nổi thế giới vật chất, cái không
thể coi thường thì không thể là kẻ thù. Đây là lương tâm
tồi tệ của kẻ cướp, một kẻ mong muốn sám hối bằng một
thứ đạo đức giả. Thực chất, con người thời kỳ lịch
sử không phải là người cha của thiên nhiên, không biết hiện
thực hóa tinh thần của tình yêu thương. Họ không bao giờ
biết canh tác đất nữa, mà bằng thủ đoạn, hoặc phi thủ
đoạn, nhưng cướp bóc đất.

Đối với con người hiện đại, lúa gạo, ngô hoa quả, thịt
súc vật, cá của biển, quặng của núi, và trăm nghìn khả
năng bí ẩn của vật chất đều biến thành chiến lợi phẩm,
cũng như những đặc tính của điện, từ trường, hóa học,
và những người khác, các dân tộc khác, chủng loại người
khác cũng trở thành chiến lợi phẩm, đá, nước, đất, không
khí cũng trở thành chiến lợi phẩm, con người hiện đại
cướp bóc, dành cho cái TÔI riêng, và trong suốt quá trình
cướp bóc này, con người càng ngày càng trở nên nghèo đói,
thô bỉ, thù hằn, khép kín, khô cứng, thất thường, ngu tối,
đần độn và độc ác.

Nhiệm vụ đời sống của con người cổ là hiện thực hóa
tinh thần của tình yêu thương, đấy là trật tự sống thiêng
liêng; đấy là sự sùng bái.

Con người thời kỳ lịch sử cho rằng nhiệm vụ của đời
sống là việc thực hiện quyền lực của cái TÔI, và cảm
giác này tạo ra một trật tự đời sống thô bạo, hoang dại,
khép kín, ích kỷ, một trật tự đời sống đầy sự xúc
phạm. Cái tinh thần cao cả thường được giữ gìn trong lý
tưởng tính không được hiện thực hóa, cái con người hiện
đại đang thực hiện, đấy là bản năng chiến lợi phẩm của
cái TÔI ăn cướp.

Đây chính là sự khác biệt trong sự canh tác của con người
cổ và con người thời kỳ lịch sử.

Nhân loại thời kỳ lịch sử là một điển hình tối tăm
để sự giáo dục cổ hiện ra với toàn bộ sự sáng láng của
nó. Nếu không so sánh với thời kỳ lịch sử, chỉ nói sự
canh tác của con người thời cổ là một quá trình sùng bái
vị tha, là một trật tự đời sống thiêng liêng, chắc chắn
con người hiện đại sẽ không hiểu gì cả.

Cái gọi là nền văn hóa ngày nay đã che phủ toàn bộ bản
chất của sự canh tác cổ.

<center><h2>6.</h2></center>

Mục đích của canh tác cổ không phải tạo ra nền văn hóa, mà
là: biến mặt đất (đời sống trần thế) thành thiên
đường.

Thành thiên đường: bằng sự hoạt động thiêng liêng có tên
là lao động làm nảy nở đời sống phì nhiêu, giàu có, tốt
đẹp. Thiên nhiên chưa từng là kẻ thù của con người, mà là
cái kho của sự sống tự hiến dâng, để con người từ đó
nâng đời sống con người lên thành niềm vui thiêng liêng.

Bởi niềm vui không phải là gì khác, chính là: <em>"sự bổ
sung hoàn thiện của đời sống thiên nhiên"</em>, và ai muốn
đạt tới niềm vui, người đó muốn sự sống đạt đến sự
hoàn thiện.

Niềm hạnh phúc trần thế phụ thuộc vào việc con người có
biến thế gian thành hoa trái, cái đẹp, sự giàu có hay không;
có sắp đặt nổi đời sống theo những định luật của tinh
thần người cha hay không; có chiến thắng nổi mọi nhiễu
nhương và tăm tối hay không; có hiện thực hóa nổi tinh thần
của tình yêu thương giữa những con người với nhau và giữa
con người với thiên nhiên hay không. Nếu thực hiện nổi,
thiên nhiên sẽ ban cho con người đầy đủ châu báu của nó;
thiên nhiên và con người sẽ sống trong niềm vui và từ niềm
hạnh phúc này hóa thiên đường.

<em>"Mọi nền văn hóa chân chính đều là chủ nghĩa diệt
trừ ma quỷ (egzorcizmus)"</em> - Baader nói.

Sự sùng bái là một canh tác tích cực, là việc hiện thực
hóa tinh thần của tình yêu thương cao cả và là nhiệm vụ
lớn. Đây là cuộc chiến đấu chống lại những sức mạnh
đen tối, độc ác và gây tác hại trên thế gian. Sự trù phú
và cái đẹp, sự phồn thịnh là kết quả hoạt động trong nhu
cầu thu tóm toàn bộ sức mạnh của con người.

Nhưng con người thời lịch sử lại không hiểu nổi chính tác
dụng và ý nghĩa của việc xua đuổi ma quỷ trong hoạt động
sùng bái.

Bởi vậy các Quyền lực độc ác, tăm tối, gây tác hại đã
được giải phóng trong thời kỳ lịch sử: các Quyền lực mà
các cuộc chiến tranh dân tộc, các cuộc cách mạng, cái bản
năng ăn cướp đã phơi bày tính chất ma quỷ của nó, nhưng
không có gì sâu sắc và khủng khiếp hơn là cách mạng kỹ
thuật. Kỹ thuật không phải là sự sùng bái và văn hóa. Kỹ
thuật là thí nghiệm của các sức mạnh ma quỷ đã giải phóng
để hủy diệt đời sống trần thế.

Sự thức tỉnh đã bị mất cùng với sự biến mất của thời
cổ. Thời kỳ hoàng kim đã biến mất. Con người không bao giờ
hiện thực hóa tinh thần của người cha nữa, mà trở thành
kẻ cướp của đất, và quả đất trở nên tối tăm.
Sự sống thiên nhiên bị phá hỏng, và sự hoạt động trong
thiên nhiên không còn là niềm vui, sự trù phú, niềm hạnh phúc
nữa mà trở thành nhu cầu nặng nhọc cay đắng, thành sự đau
khổ, sự nghèo đói,và cơ cực.

Từ sự sùng bái được bảo vệ bằng niềm tin và niềm vui,
biến thành lao động nặng nhọc. Tinh thần biến mất khỏi lao
động. Biến thành một nền văn hóa thực dụng, một kho sách
– trừu tượng, rỗng tuếch, vô ích, vô sinh, một thứ văn
hóa không làm nảy sinh ra đời sống trù phú, không gây dựng
nên một trật tự phổ quát, và từ đó không nảy sinh ra một
niềm vui cao thượng. Đời sống người khô cằn đi, hóa đá,
thô bạo, khổ sở, đày đọa, tăm tối.

Bởi vì: <em>"Có những sức mạnh hiện thực hóa, và có
những sức mạnh cướp bóc, làm khô cằn, khô cứng, hóa đá
các hiện thực tinh thần"</em>.

<em>"Những sức mạnh để hiện thực hóa những hiện thực
tinh thần luôn luôn mở, quay vào trong và hướng lên trên; còn
những sức mạnh kẻ cướp luôn luôn mở ra ngoài và hướng
xuống dưới."</em>

Trong khoảnh khắc từ biệt thời cổ, con người không bao giờ
hiện thực hóa tinh thần của người cha nữa, mà trở thành
kẻ cướp, hướng quay vào trong và lên trên bị khóa lại, để
hướng quay ra ngoài và quay xuống dưới mở ra.

Không bao giờ còn có thể nhìn thấy ý nghĩa và mục đích trong
hoạt động của con người nữa; con người không biết rằng,
nhiệm vụ duy nhất của nó là xây dựng thiên đường từ
đất.

Con người đánh mất tinh thần, đánh mất những lý tưởng,
đánh mất thần linh, đánh mất niềm vui, niềm hạnh phúc, còn
bản thân nó bị đánh mất trong công việc, trong những sự
vật bên ngoài, trong bản năng quyền lực ăn cướp mặt đất,
trong việc chiếm đoạt chiến lợi phẩm thiên nhiên.

Sự canh tác không bao giờ còn là sự sùng bái nữa mà chỉ còn
là văn hóa.

<strong>Nguyễn Hồng Nhung dịch từ bản tiếng Hung</strong>

(Budapest. 2012-05-12)



***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12589), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét