<h2>Mở đầu</h2>
Sự trỗi dậy của Trung Quốc và sự quyết đoán ngày càng gia
tăng về tranh chấp ở biển Đông đã đưa vấn đề an ninh
biển lên hàng đầu trong nghị trình trình an ninh khu vực. Bài
viết này đưa ra các giả thuyết về sự trỗi dậy của Trung
Quốc trong 7 phần. Phần một xem xét nhận thức thay đổi của
các nước Đông Nam Á đối với sự lớn mạnh của Trung Quốc.
Phần hai nói về sự phát triển của sức mạnh hải quân Trung
Quốc. Phần ba chú trọng vào tính quyết đoán của Trung Quốc
ở khu vực biển Đông trong năm 2011, và phần bốn xem lại
phản ứng của các nước trong khu vực đối với sự quyết
đoán của Trung Quốc. Phần năm và sáu, phân tích chiến lược
quân sự quốc gia mới của Hoa Kỳ và mô hình an ninh khu vực
lấy ASEAN làm trung tâm. Bài này kết luận rằng, Đông Nam Á
nên <em>"chuẩn bị sẵn sàng để đối đầu"</em> do các
tranh chấp chủ quyền ở biển Đông khó giải quyết, chủ
nghĩa quốc gia về tài nguyên đang gia tăng và các chương trình
hiện đại hóa lực lượng hải quân đang diễn ra.
<h2>Đông Nam Á và sự trỗi dậy của Trung Quốc </h2>
<strong><em>Nền tự trị khu vực</em></strong>. Sau khi Hiệp hội
các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập năm 1967, các
nước thành viên chấp nhận hai phương thức chính để liên
hệ với các cường quốc bên ngoài. Phương thức đầu tiên,
các nước thành viên ASEAN đưa ra khái niệm tự trị khu vực
để ngăn cản bất cứ cường quốc nào dùng sức mạnh lấn
át Đông Nam Á. Việc ASEAN xác định tự trị khu vực qua hai
hình thức, gồm sự gia tăng số thành viên, từ 5 nước thành
viên ban đầu lên đến 10 trong số 11 nước Đông Nam Á (1).
Việc đòi quyền tự trị trong khu vực ASEAN cũng mang hình thức
tuyên bố chính trị và các hiệp ước bao trùm Đông Nam Á như
một khối, chẳng hạn như Tuyên bố về Khu vực Hòa bình Tự
do và Trung lập (năm 1971), Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác
ASEAN (năm 1976) và Hiệp ước Khu vực Đông Nam Á Phi Hạt nhân
(năm 1995). Trong những năm gần đây, ASEAN đã đề xuất khái
niệm tự trị khu vực bằng cách phê chuẩn Hiến chương ASEAN
và đề ra mục tiêu thành lập một Cộng đồng ASEAN vào năm
2015. Phương thức thứ hai của ASEAN trong quan hệ với các
nước bên ngoài là khẳng định tính trung tâm của mô hình an
ninh khu vực. Thí dụ, khi Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) được
thành lập năm 1994, ASEAN đòi hỏi phải là người <em>"tài
xế"</em> duy nhất.
Các nước Đông Nam Á muốn gia tăng lợi ích quốc gia của họ
qua quan hệ song phương với nhau và với các cường quốc lớn
bên ngoài. Trong khi đó, các nước ASEAN cũng tìm cách đẩy
mạnh lợi ích quốc gia đa phương qua ASEAN.
<strong><em>Sự trỗi dậy về kinh tế của Trung
Quốc</em></strong>. Lúc đầu, sự trỗi dậy về kinh tế của
Trung Quốc được các nước ASEAN xem như là một thách thức, do
lo ngại rằng điều này sẽ tạo nên sự chuyển hướng mậu
dịch và đầu tư từ Đông Nam Á. Các nước ASEAN cũng lo sợ
bị kéo vào quỹ đạo của Trung Quốc trong quan hệ lệ thuộc
như một nguồn cung cấp nguyên liệu thô. Một mối lo ngại
khác là, ảnh hưởng của sự trỗi dậy của Trung Quốc lên
các mối quan hệ kinh tế của Hoa Kỳ đối với khu vực. Nhiều
nước Đông Nam Á dựa vào thị trường Hoa Kỳ để phát triển
đất nước. Họ lo ngại Hoa Kỳ sẽ áp dụng các chính sách
bảo hộ mậu dịch sẽ gây ảnh hưởng tới họ.
Một bước ngoặt chính yếu đối với quan điểm về Trung
Quốc đã xảy ra trong cuộc khủng hoảng tài chánh châu Á năm
1997 – 1998 khi các chính sách hỗ trợ của Trung Quốc tương
phản với các chính sách của quỹ Tiền tệ Quốc tế (do Hoa
Kỳ hỗ trợ) đặt điều kiện vay mượn tiền. Trung Quốc
không những không hạ giá đồng nguyên mà còn đóng góp vào
các gói trợ giúp trong vùng. Giờ đây, các nước Đông Nam Á
xem sự trỗi dậy của Trung Quốc là một cơ hội và động cơ
chính cho sự phát triển toàn vùng. Trong những năm gần đây,
nỗi lo sợ Hoa Kỳ sẽ rút về sau bức tường bảo hộ mậu
dịch đã giảm bớt do sự cổ động của Hoa Kỳ về Hiệp
định Khung về Thương mại và Đầu tư, và Hiệp ước Đối
tác Xuyên Thái Bình dương.
Tóm lại, cuối thập niên 1990, Đông Nam Á xem Trung Quốc là
một đối tác kinh tế không thể thiếu, nhưng không phải là
đối tác duy nhất. Ví dụ, Trung Quốc và ASEAN đã ký Hiệp
ước Thương mại Tự do với 6 nước thành viên có nền kinh
tế phát triển của ASEAN, có hiệu lực từ tháng 1 năm 2010 và
sẽ có hiệu lực với 4 nước thành viên kém phát triển nhất
của ASEAN vào năm 2015.
<strong><em>Việc hiện đại hóa quân sự của Trung
Quốc</em></strong>. Đầu thập niên 1990, Trung Quốc được coi
như là mối đe dọa quân sự cho khu vực vì sự khẳng định
chủ quyền của họ ở biển Đông. Năm 1992 và 1995, trong khi
không nêu tên Trung Quốc, ASEAN ban hành hai tuyên bố với mối lo
ngại, yêu cầu các nước hạn chế việc sử dụng hay đe dọa
sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ.
Năm 1997, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh quan điểm an ninh
mới. Và vào năm 2002, Trung Quốc và ASEAN ký Tuyên bố Ứng xử
của Các bên ở biển Đông. Kết quả của những diễn biến
này là mối <em>"đe dọa của Trung Quốc"</em> giảm dần.
Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc đã tạo nền móng cho việc
hiện đại hóa và biến đổi của lực lượng vũ trang. Trên
nhiều phương diện, đây là sự phát triển bình thường. Ví
dụ, sự lệ thuộc của Trung Quốc ngày càng nhiều vào các
tuyến đường giao thương hàng hải để xuất khẩu hàng hóa
và nhập khẩu nguyên liệu thiên nhiên, đã đưa đến nhu cầu
bảo vệ các tuyến đường giao thông hàng hải này (SLOCs).
Việc hiện đại hóa quân đội Trung Quốc cũng nhắm tới việc
sáp nhập với Đài Loan và ngăn cản không cho Đài Loan tuyên
bố độc lập. Sau cuộc khủng hoảng tại eo biển Đài Loan năm
1995-1996, khi nỗ lực hăm dọa Đài Loan của Trung Quốc dẫn
đến sự can thiệp của hải quân Hoa Kỳ, Trung Quốc tìm cách
phát triển khả năng, mà Lầu Năm Góc đặt tên là khả năng
chống tiếp cận/ từ chối khu vực, để giữ chân lực lượng
tàu sân bay Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình dương.
Tháng 2 năm 2012, báo cáo cho biết Trung Quốc sẽ gia tăng gấp
đôi chi tiêu quốc phòng trong vòng 3 năm từ 119,8 tỷ đô la
trong năm 2011, lên tới 238,2 tỷ đô la vào năm 2015. Điều này
có nghĩa là ngân sách quốc phòng Trung Quốc sẽ lớn hơn tổng
ngân sách quốc phòng của 12 nước có chi tiêu lớn nhất khu
vực châu Á-Thái Bình Dương (và gấp 3 lần ngân sách quốc
phòng của Nhật Bản dự trù cho năm 2015) (2).
Việc gia tăng khả năng quân sự của Trung Quốc cũng liên quan
tới biển Đông, nơi Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei có
tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với Trung Quốc. Sự khẳng
định mạnh mẽ của Trung Quốc đã đưa đến mối quan ngại
cho an ninh khu vực về những ý định chiến lược của Trung
Quốc và sự thách thức đối với vai trò chính yếu của Hoa
Kỳ. Nhiều quốc gia Đông Nam Á đã tìm kiếm sự bảo đảm
của Hoa Kỳ trong việc tiếp tục có mặt trong vùng. Hoa Kỳ đã
đáp lại các quan ngại này bằng cách tuyên bố, Hoa Kỳ có
lợi ích quốc gia trong vấn đề tự do và an toàn giao thông
hàng hải, đường hàng không, trong vùng biển quốc tế và mậu
dịch không bị cản trở.
<strong><em>ASEAN và các đại cường</em></strong>. Thách thức lớn
đối với lợi ích chiến lược của Đông Nam Á là khả năng
tranh chấp của các đại cường có thể làm hại tính trung tâm
và tự trị khu vực của ASEAN. Sự tranh chấp của các cường
quốc có thể dâng cao và ảnh hưởng sự bền chặt của ASEAN,
vì các thành viên sẽ cân nhắc, liệu nghiêng về một cường
quốc có bảo đảm cho an ninh quốc gia của họ hơn là đa
phương với ASEAN hay không. Các nước ASEAN thiên về sự cân
bằng giữa các siêu cường và không muốn can dự vào tranh
chấp giữa họ hoặc bị bắt buộc phải chọn đứng về phía
bên nào.
Tóm lại, các nước Đông Nam Á đã đáp lại sự trỗi dậy
của Trung Quốc bằng cách dựa vào các thể chế đa phương
của ASEAN trung tâm. ASEAN tìm cách làm giảm sự đối đầu
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc qua chiến lược đẩy mạnh sự hỗ
tương kinh tế, sự cam kết với các nguyên tắc ASEAN và cân
bằng mềm dẻo.
<h2>Sự phát triển của sức mạnh hải quân Trung Quốc </h2>
Sự biến đổi quân sự của Trung Quốc là sản phẩm của
nhiều yếu tố. Đầu tiên, sự phát triển kinh tế ngoạn mục
của Trung Quốc đã tạo nền tảng cho gia tăng chi tiêu quốc
phòng, và điều này dẫn đến công cuộc hiện đại hóa tất
cả các ngành quân sự. Thứ hai, Trung Quốc chú tâm đến sự
thống nhất với Đài Loan, và vì thế cố ngăn cản sự can
thiệp của Hoa Kỳ vào vấn đề này, bằng cách gia tăng ảnh
hưởng của hải quân ra khỏi chuỗi đảo thứ nhất tới
chuỗi đảo thứ hai (3). Thứ ba, sự trỗi dậy của Trung Quốc
nảy sinh nhu cầu bảo vệ đường giao thương hàng hải từ
vịnh Ả Rập tới khu vực bờ biển phía đông của Trung Quốc.
Thứ tư, chủ nghĩa bảo vệ tài nguyên quốc gia của Trung Quốc
nêu lên tầm quan trọng của Biển Đông về nguồn dầu khí và
khoáng sản và lợi ích chính trị, Trung Quốc sẽ cần phát
triển lực lượng hải quân trên biển để bảo vệ lợi ích
ngoài khơi.
Nhiều yếu tố khuyến khích việc tăng cường quân sự của
Trung Quốc liên quan tới khu vực biển Đông Nam Á, đặc biệt
là biển Đông. Điều này thể hiện rõ ràng nhất qua việc
hiện đại hóa hạm đội Nam hải và xây dựng căn cứ hải
quân chính tại vịnh Yalong ở bờ biển phía nam đảo Hải Nam,
thuộc phía bắc của Biển Đông.
Các thiết bị ở vịnh Yalong bao gồm cầu tàu, bến tàu và
hầm chứa tàu ngầm dưới mặt biển. Hải quân Trung Quốc
(PLAN) đóng tại Yalong nhiều tàu chiến chủ lực, tàu đổ bộ,
tàu ngầm thường và tàu ngầm hạt nhân. Việc tiếp tục xây
cất cho thấy, Yalong có khả năng sẽ là nơi đồn trú của
những tàu chiến lớn hơn, như tàu tấn công và cuối cùng là
một hay nhiều tàu sân bay. Hạm đội Nam Hải có sứ mạng quan
trọng trong việc giữ an ninh eo biển Quỳnh Châu để bảo vệ
phía Nam Trung Quốc và đảo Hải Nam. Việc phát triển căn cứ
hải quân ở Yalong có thể được xem với lý do phòng ngự.
Trung Quốc thường tổ chức những cuộc tập trận hải quân
lớn để chứng tỏ khả năng lớn mạnh của PLAN. Trong năm
2010, Trung Quốc thực hiện 3 cuộc tập trận hải quân lớn và
một cuộc vào năm 2011, liên quan tới biển Đông. Cuộc diễn
tập đầu tiên được thực hiện đầu tháng 4 năm 2010, gồm
việc khai triển tầm xa với 16 chiến hạm của PLAN, đến từ
các hạm đội Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Đội tàu của
PLAN thực hiện các cuộc diễn tập có bắn đạn thật ở phía
bắc Philippines trước khi tiến về eo biển Malacca. Tính cho tới
cuộc diễn tập này, hạm đội Nam Hải là hạm đội duy nhất
hoạt động trong khu vực Biển Đông.
Cuộc diễn tập hải quân lần thứ hai được tiến hành vào
cuối tháng 7 năm 2010. Đây là cuộc diễn tập lớn nhất, gồm
12 chiến hạm hiện đại nhất trong mỗi hạm đội của Trung
Quốc. Cuộc diễn tập này đáng chú ý do truyền thông Trung
Quốc truyền trực tiếp việc bắn tên lửa và sự có mặt
của các chỉ huy cao cấp đến từ Quân ủy Trung ương và Tổng
tham mưu trưởng PLA, tướng Trần Bỉnh Đức (4). Tháng 11 năm
2010, thủy quân lục chiến PLA thực hiện cuộc diễn tập quan
trọng thứ ba trên biển Đông, gồm hơn 100 tàu chiến, tàu
ngầm, máy bay, và 1.800 lính thủy quân lục chiến. Vào tháng 11
năm 2011, Trung Quốc tiến hành diễn tập hải quân trong khu vực
Tây Thái Bình dương (5).
Bốn cuộc diễn tập này có thể xem như sự phô trương của
Trung Quốc về khả năng khai triển xa khỏi chuỗi đảo thứ
nhất ra tới chuỗi đảo thứ hai. Các tín hiệu rõ ràng là:
Trung Quốc đang phát triển khả năng duy trì các cuộc triển
khai hải quân trong khu vực quần đảo Trường Sa và xa hơn nữa
về phía nam, trong thời gian lâu dài.
Hình ảnh vệ tinh đã xác nhận sự hiện diện của một tàu
ngầm hạt nhân duy nhất của Trung Quốc loại 094, hạng Jin,
tại vịnh Yalong từ cuối năm 2007. Loại 094 là loại tàu ngầm
hạt nhân trang bị tên lửa đạn đạo (SSBN) thế hệ thứ hai
và tượng trưng cho loại vũ khí tấn công ghê gớm nhất của
hải quân. Thời điểm này đánh dấu sự triển khai đầu tiên
của một SSBN của hạm đội Nam Hải, Trung Quốc. Năm chiếc
SSBN hạng Jin khác của Trung Quốc sẽ đi vào hoạt động trong
những năm tới và vịnh Yalong sẽ trở thành căn cứ chính.
Việc phát triển căn cứ hải quân ở vịnh Yalong mang ý nghĩa
chiến lược về sự cân bằng quyền lực trong khu vực châu Á
– Thái Bình Dương. Phân tích về những hoạt động xây cất
cho biết Yalong có thể chứa tàu ngầm nguyên tử có khả năng
phóng tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Một phần của căn
cứ được xây dưới mặt đất để cung cấp cơ sở phòng ốc
không thể bị theo dõi dễ dàng. Khi các công trình này khi hoàn
tất, chúng sẽ tạo cho Trung Quốc khả năng dung chứa một
phần đáng kể khả năng phòng ngự bằng tàu ngầm hạt nhân
ở nơi này.
Tàu ngầm hạt nhân chiến lược hiện đại nhất của Trung
Quốc chưa hoạt động hoàn toàn, nhưng khi bắt đầu, chúng có
thể mang 12 tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm. Loại tàu
ngầm này sẽ có hiệu lực hơn nếu Trung Quốc thành công trong
việc trang bị tên lửa với nhiều đầu đạn. Tàu ngầm hạt
nhân của Trung Quốc có thể đi tuần và bắn từ vị trí bí
mật trong vùng nước sâu ngoài khơi đảo Hải Nam, nếu Trung
Quốc có thể phát triển kỹ năng hoạt động cần thiết. Trong
khi đó, Trung Quốc đã nối dài phi đạo trên đảo Phú Lâm,
thuộc quần đảo Hoàng Sa, xây dựng các cơ sở tại Đá Chữ
Thập, thuộc quần đảo Trường Sa, và duy trì sự có mặt liên
tục của hải quân tại Đá Vành Khăn ngoài khơi bờ biển phía
tây Philippines.
Tóm lại, Trung Quốc đã phát triển năng lực đáng kể để
thực hiện các tuyên bố chủ quyền trên khu vực biển Đông
và bảo vệ các tuyến đường giao thông hàng hải quan trọng
xuyên qua eo biển Malacca và Singapore, cũng như khả năng đưa
lực lượng tiên phong từ các căn cứ này vào khu vực biển
Đông với một cái đuôi hậu cần ngắn đáng kể. Thêm vào
đó, Trung Quốc sẽ có khả năng ngăn chặn các đường giao
thông hàng hải mà Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc lệ thuộc
vào. Các diễn tiến này báo hiệu Trung Quốc có khả năng lớn
hơn để áp đặt ảnh hưởng khu vực và thách thức ưu thế
hải quân Hoa Kỳ.
Việc triển khai tàu ngầm hạt nhân, gồm tàu ngầm trang bị
tên lửa đạn đạo, đã giới thiệu một kiểu địa chiến
lược mới đối với sự cân bằng quyền lực khu vực. Các
hoạt động của tàu ngầm hạt nhân Trung Quốc sẽ gây sự chú
ý liên tục của hải quân Hoa Kỳ qua việc tiến hành thu thập
tin tức và quan sát vùng biển ngoài khơi đảo Hải Nam. Những
phát triển mới về kỹ thuật quân sự của Hoa Kỳ sẽ cho ra
tàu ngầm không người lái (undersea drones) tinh vi và các hệ
thống máy móc tự động để thu thập tin tức tình báo, do
thám và theo dõi như thiết bị tự hành không người lái
đường kính lớn (Large Diameter Unmanned Underwater Vehicles) và hệ
thống do thám thường trực dưới nước vùng duyên hải
(Persistent Littoral Undersea Surveillance Systems). Theo Mark Valencia, sự
khai triển các hệ thống mới này <em>"sẽ tạo nên căng
thẳng và khủng hoảng thường xuyên hơn; chúng sẽ sinh ra
những phản ứng phòng vệ và gia tăng tính năng động; và sẽ
dẫn đến mất ổn định trong các khu vực bị tác động
nhất, đặc biệt là Á châu"</em>. (6)
<h2>Sự quyết đoán của Trung Quốc trong vùng biển Đông năm
2011</h2>
Suốt nửa năm đầu của năm 2011, Trung Quốc áp dụng thái độ
hiếu chiến để khẳng định các tuyên bố chủ quyền của
họ ở biển Đông, bằng cách nhắm vào hoạt động thương
mại của các tàu thăm dò dầu khí trong vùng biển chủ quyền
của Philippines và Việt Nam. Hành động của Trung Quốc không
những tạo nên căng thẳng trong khu vực mà còn khuyến khích
Philippines xích lại gần Hoa Kỳ hơn và thực hiện các bước
để gia tăng khả năng phòng thủ lãnh thổ. Việt Nam đáp trả
bằng các cuộc phô trương có tính toán về quyết tâm bảo vệ
chủ quyền quốc gia, gồm tập trận có bắn đạn thật. Các
phần sau đây sẽ xem xét từng trường hợp này.
<h2>Trung Quốc và Philippines</h2>
Theo Bộ Ngoại giao Philippines, vào quý tư năm 2010, Trung Quốc gia
tăng sự hiện diện tại quần đảo Trường Sa (7). Philippines
ghi nhận 6 lần xâm phạm vào vùng biển của họ trong 5 tháng
đầu năm 2011 (8). Ba sự cố lớn nổi bật. Vào ngày 25 tháng 2,
một tàu chiến trang bị tên lửa của Trung Quốc đã ra lệnh
cho 3 tàu đánh cá Philippines phải rời vùng biển ngoài khơi
cồn san hô Jackson và bắn một loạt 3 phát súng để xua đuổi
(9). Vào ngày 2 tháng 3, hai tàu tuần tra của Trung Quốc đe dọa
đâm vào tàu Veritas Voyager, là tàu thăm dò địa chấn hoạt
động trong khu vực bãi Cỏ Rong ngoài khơi Palawan, để buộc
tàu thăm dò ngừng ngay công việc thăm dò địa chấn (10). Sự
cố thứ ba xảy ra vào ngày 24 tháng 3 khi ngư dân Philippines
chứng kiến một tàu hải giám và tàu Hải quân Trung Quốc thả
những cột thép, dụng cụ xây cất và phao nổi xuống gần
Iroquois Reef-Amy Douglas Bank, cách đảo Palawan khoảng 100 hải lý
(11).
Các hành động của Trung Quốc đã làm cho Philippines chính thức
tuyên bố vùng biển của họ là Biển Tây Philippines. Chính phủ
Philippines cũng đáp lại các sự cố này qua các cuộc biểu
tình trước tòa đại sứ Trung Quốc và đưa vấn đề ra Liên
Hiệp Quốc.
<h2>Trung Quốc và Việt Nam</h2>
Trong sáu tháng đầu năm 2011, sự quyết đoán của Trung Quốc
nhắm tới Việt Nam, gồm việc đơn phương áp đặt lệnh cấm
đánh cá hàng năm và đáng chú ý hơn, tàu hải giám Trung Quốc
đã có hành động táo bạo can thiệp vào các hoạt động
thương mại của các tàu thăm dò dầu khí đang hoạt động
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ).
Ngày 11 tháng 5 năm 2011, chính quyền thành phố Hải Khẩu,
thuộc tỉnh Hải Nam, đưa ra thông báo đơn phương ra lệnh cấm
đánh cá trong khu vực biển Đông từ ngày 16 tháng 5 tới ngày 1
tháng 8 với lý do bảo vệ nguồn cá bị giảm trong mùa sinh
đẻ. Những năm trước đó, tàu hải giám Trung Quốc rượt
đuổi và nhảy lên tàu đánh cá Việt Nam, tịch thu hết các
mẻ cá bắt được và dụng cụ liên lạc, và bắt giữ ngư
dân cho tới khi nhận được số tiền phạt lớn, hay đâm chìm
tàu cá Việt Nam. Trong năm 2011 có 2 sự cố chính. Vào ngày 1
tháng 6, tàu hải quân Trung Quốc đe dọa bắn tàu đánh cá
Việt Nam hoạt động trong vùng biển gần quần đảo Trường Sa
(12). Một sự cố nghiêm trọng hơn xảy ra vào ngày 5 tháng 7 khi
lính hải quân Trung Quốc đánh đập thuyền trưởng của một
tàu đánh cá Việt Nam, hăm dọa thủy thủ đoàn, và ép buộc
tàu này phải rời vùng biển tranh chấp gần quần đảo Hoàng
Sa (13).
Vào ngày 26 tháng 5 năm 2011, ba tàu hải giám Trung Quốc ép sát
tàu Bình Minh 02, là tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam, đang
hoạt động tại lô 148 trong vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam. Một tàu hải giám Trung Quốc đã cắt cáp thăm dò
(14). Tàu Bình Minh 02 đành phải trở về bến để sửa chữa
(15). Vào ngày 9 tháng 6 năm 2011, theo Bộ Ngoại giao Việt Nam,
một sự cố <em>"có âm mưu từ trước và được tính toán
kỹ lưỡng"</em> xảy ra khi một tàu đánh cá Trung Quốc trang
bị <em>"dụng cụ cắt cáp"</em>, đã cắt dây cáp của tàu
Viking II, là thăm dò địa chấn đang hoạt động trong lô 136-03,
thuộc vùng phụ cận của Bãi Tư Chính (16). Một sự cố cắt
cáp thứ ba được biết xảy ra vào tháng 6 nhưng phía Việt Nam
đã không công bố sự việc (17). Cũng như Philippines, Việt Nam
đã phản đối lên các nhà chức trách Trung Quốc đối với
từng sự cố xảy ra.
<h2>Phản ứng của các nước trong khu vực đối với sự hiếu
chiến của Trung Quốc</h2>
Việc gia tăng hiện đại hóa quân sự của Trung Quốc, cùng
với hành động hung hăng của họ trong khu vực Biển Đông, đã
tạo nên một tình trạng bế tắc về an ninh cho các quốc gia
trong vùng. Điều này đã làm nhiều quốc gia Đông Nam Á bắt
đầu các chương trình canh tân quân đội của mình nhắm tới
việc phát triển khả năng chống tiếp cận/từ chối khu vực
(18). Các phần sau đây sẽ xem lại các hoạt động của
Philippines, Việt Nam và các nước khác trong vùng.
<strong><em>Philippines</em></strong>. Trong năm 2011, để chống lại
sự hung hãn của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế và
nhóm đảo Kalayaan, Philippines soạn một chiến lược phòng thủ
mới, chú trọng vào cả hoạt động an ninh quốc nội lẫn
phòng thủ lãnh thổ bên ngoài. Chính quyền Aquino đã bỏ ra 11
tỷ peso để hỗ trợ hiện đại hóa Lực lượng Vũ trang
Philippines (AFP). Trong đó, 8 tỷ peso sẽ do Mỏ Khí đốt Malampaya
và Dự án năng lượng tài trợ và phần còn lại sẽ lấy từ
ngân quỹ hiện đại hóa AFP. Bắt đầu từ năm 2012, chính phủ
Philippines sẽ tiến hành chương trình hiện đại hóa 5 năm,
với tổng kinh phí là 40 tỷ peso.
Tháng 3 năm 2011, Tổng Tư lệnh AFP, tướng Eduardo Oban loan báo,
kế hoạch nâng cấp phi trường trên đảo Pag-Asa. Hai tháng sau
đó, một nghiên cứu của hải quân Philippines khuyên nên mua tàu
ngầm với mục đích <em>"ngăn cản những xung đột có thể
xảy ra trong tương lai"</em> (19). Vào tháng 9 năm 2011, ngay sau
chuyến viếng thăm Bắc Kinh của Tổng thống Benigno Aquino, ông
tuyên bố dành thêm 4,96 tỷ peso cho ngân sách quốc phòng (20).
Số tiền này được dành riêng để mua một tàu tuần tra hải
quân, 6 trực thăng và các vũ khí quân sự khác để bảo vệ
dự án dầu khí Malampaya.
Trong năm 2011, Philippines thu nhận một tàu tuần duyên của Hoa
Kỳ và đưa ra hoạt động ở khu vực ngoài khơi đảo Palawan
thuộc Bộ Chỉ huy miền Tây với sứ mạng bảo vệ vùng đặc
quyền kinh tế của Philippines. Philippines đang chờ nhận một
chiếc thứ hai vào năm 2012. Philippines cũng sắp nhận 3 tàu tấn
công đa năng mới do Đài Loan sản xuất và một tàu thứ ba
của Tuần duyên Hoa Kỳ (21).
Philippines đã trao cho Lầu Năm Góc một <em>"danh sách mong
muốn"</em> với các loại vũ khí mới bao gồm: hệ thống
ra-đa ven biển, máy bay tuần tiễu hoạt động tầm xa, tàu vận
chuyển, tàu tuần dương, trực thăng hải quân, ra-đa phòng
không, 6 huấn luyện viên phản lực, chiến đấu cơ tấn công
trên mặt biển, tên lửa chống hạm, và một tàu ngầm (22).
Philippines cũng vươn tới Nhật Bản và Nam Hàn. Tháng 9 năm 2011,
trong chuyến viếng thăm Tokyo của Tổng thống Aquino, ông và
Thủ tướng Noda đồng ý củng cố mối quan hệ an ninh biển
bằng cách thường xuyên tổ chức những buổi thảo luận cấp
cao về phòng thủ, và gia tăng hợp tác giữa lực lượng tuần
duyên hai nước và <em>"các viên chức liên quan tới phòng
thủ"</em>. Thủ tướng Noda đồng ý gia tăng sự tham gia của
lực lượng tuần duyên Nhật trong việc huấn luyện những
người đồng nhiệm Philippines (23). Sau đó là chuyến viếng
thăm Manila của Tổng thống Lee Myung-bak vào tháng 11 năm 2011,
Tổng thống Aquino loan báo rằng, Philippines sẽ mua vũ khí của
Seoul. Bộ Quốc phòng cho biết đã soạn thảo một danh sách
gồm máy bay, trực thăng, tàu và những thiết bị quân sự
khác.
<strong><em>Việt Nam</em></strong>. Năm 2009, trong một bước tiến
mạnh bạo, Việt Nam loan báo sẽ đặt mua 6 chiếc tàu ngầm
chạy bằng dầu diesel loại Kilo của Nga. Các tàu ngầm này sẽ
được giao vào năm 2014. Tàu ngầm loại Kilo có lẽ được trang
bị tên lửa chống hạm 3M-54 Klub với tầm hoạt động 300 cây
số.
Năm 2011, Việt Nam gia tăng chương trình hiện đại hóa quân
đội khi nhận thêm 4 chiến đấu cơ phản lực đa năng Su-30MK2.
Các chiến đấu cơ này sẽ trang bị tên lửa hành trình chống
hạm Kh-59MK với tầm hoạt động 115 cây số. Việt Nam hiện
đang đặt mua thêm 16 chiếc chiến đấu cơ phản lực Su-30MK2
(24). Cũng trong năm 2011, Việt Nam nhận 2 tàu khu trục có tên
lửa hành trình, loại Gephardt, trang bị tên lửa chống hạm
Kh-35E với tầm hoạt động 130 cây số và hai tàu tuần tra có
trang bị tên lửa loại Svetlyak (25). Ngoài ra, Việt Nam đã hạ
thủy tàu chuyên chở binh lính và có vũ trang, tự sản xuất
đầu tiên (26). Tháng 10 [năm 2011], trong chuyến công du ở Hòa
Lan, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã chấp thuận mua 4 chiến
tàu hộ tống nhỏ, loại Sigma, hai trong số bốn chiếc đó dự
kiến sẽ được ráp tại Việt Nam (27).
Năm 2011, Việt Nam gia tăng phòng thủ ven biển bằng cách mua hệ
thống tên lửa Bastion thứ hai, là loại tên lửa đạn đạo
chống hạm có căn cứ trên đất liền. Tin tức cho biết, Việt
Nam cũng đặt mua của Do Thái hệ thống đạn pháo tầm xa, tên
lửa đạn đạo có tầm ảnh hưởng ngoài 150 cây số. Tháng 10
năm 2011, Chủ tịch Trương Tấn Sang chính thức viếng thăm Ấn
Độ và yêu cầu Ấn Độ giúp đỡ trong 4 lãnh vực: huấn
luyện điều hành tàu ngầm, huấn luyện cho phi công sử dụng
máy bay Sukhoi-30s, chuyển giao tàu tuần duyên cỡ trung, và hiện
đại hóa các phương tiện kỹ thuật cho các bến cảng ở Nha
Trang (28). Báo chí địa phương đưa tin, Ấn Độ đang cứu xét
có nên bán cho Việt Nam tên lửa hành trình siêu thanh BrahMos hay
không (29). Tháng 2 năm 2012, Nga loan báo sẽ cùng sản xuất tên
lửa chống hạm Uran (SS-N-25 Switchblabe) với Việt Nam (30).
Tháng 11 năm 2011, Việt Nam thông báo ngân sách quốc phòng cho
năm 2012 là 3,3 tỷ đô la, tăng 35% so với năm 2010. Theo tờ IHS
Jane's (chuyên phân tích quốc phòng và tình báo), ngân sách mua
vũ khí của hải quân Việt Nam tăng 150% kể từ năm 2008, lên
tới 276 triệu đô la trong năm 2011. Ngân sách hải quân được
dự kiến sẽ tăng lên 400 triệu đô la vào năm 2015 (31). Việt
Nam đang tìm cách phát triển khả năng chiến đấu chống tàu
ngầm bằng cách đặt mua P-3 Orion (loại máy bay 4 động cơ
chống tàu ngầm do hãng Lockheed chế tạo) của Hoa Kỳ hay máy
bay quân sự C295 của hãng Airbus Military, Tây Ban Nha (32).
<strong><em>Khu vực</em></strong>. Theo một nhà phân tích an ninh khu
vực có tiếng, việc thu mua vũ khí hải quân ở châu Á "đã
trở nên vô cùng phiền toái, với những dấu hiệu không thể
chối cãi về động cơ giữa tác dụng và phản tác dụng",
và nhất là vùng Đông Bắc Á châu đang chứng kiến một
"cuộc chạy đua vũ trang hải quân đang trỗi dậy" (33). Các
nhà phân tích quốc phòng dự đoán rằng 86 chiếc tàu ngầm sẽ
được gia tăng cho các hạm đội trong khu vực châu Á – Thái
Bình Dương vào năm 2020, trong số đó 30 chiếc sẽ là của Trung
Quốc (34). Trung Quốc hiện có hạm đội tàu ngầm lớn nhất
và những kế hoạch lớn nhất để gia tăng số lượng bao gồm
tàu ngầm tấn công hạt nhân loại 095 (SSN) và loại 094 thuộc
hạng Jin (SSBN).
Như đã đề cập ở trên, Trung Quốc dự định sẽ đậu các
tàu ngầm trang bị tên lửa tấn công và tên lửa đạn đạo
tại căn cứ hải quân Ngọc Lâm (Yulin) ở đảo Hải Nam. Viễn
ảnh này đã làm cho Úc, Malaysia, Philippines, Singapore và Hoa Kỳ
gia tăng đầu tư vào khả năng chiến đấu chống tàu ngầm.
Các nhà phân tích an ninh cảnh báo rằng sự gia tăng nhanh của
những hạm đội tàu ngầm có thể gây bất ổn trong lúc xảy
ra căng thẳng và khủng hoảng do tính chất phức tạp của hệ
thống chỉ huy và kiểm soát.
Ở Đông Nam Á, tàu ngầm loại thường đã trở thành tiêu
chuẩn mới để hải quân thu mua. Việc đặt mua tàu ngầm hạng
Kilo của Việt Nam là một phần của xu hướng trong khu vực
(35). Indonesia là nước đầu tiên ở Đông Nam Á đặt mua tàu
ngầm, cho biết họ sẽ thay thế tàu cũ với kiểu tàu mới hơn
của Hàn Quốc. Được biết, Indonesia sẽ đẩy mạnh chi tiêu
quốc phòng lên 35% trong năm 2012 (36). Singapore đã cải tiến
hạm đội tàu ngầm của họ qua việc mang về 2 chiếc tàu
ngầm hạng Archer trong năm 2011 (37). Singapore cũng đang đặt mua 4
hoặc 5 chiếc máy bay tuần tiễu trên biển loại P-3C (38).
Malaysia đã mua về 2 chiếc tàu ngầm hạng Scorpene. Cả hai loại
tàu ngầm của Singapore và Malaysia được trang bị với hệ
thống lực đẩy không cần không khí. Thái Lan và Philippines
đang chuẩn bị đặt mua tàu ngầm cho riêng họ.
Sách trắng quốc phòng của Úc năm 2009 đã đề ra kế hoạch
đóng 12 tàu ngầm mới, loại thường. Gần đây, báo chí đưa
tin <em>"các viên chức Hải quân Hoa Kỳ thăm viếng thường
nêu ra vấn đề là không có các tàu ngầm hạng Collins, cũng
như không có tiến triển đối với các tàu ngầm loại mới
đã lên kế hoạch của Úc"</em>. Áp lực này đã hối thúc
chính quyền Gillard đưa ra vấn đề trước nội các (39).
Việc hiện đại hóa quân sự trong khu vực đã và sẽ tiếp
tục gia tăng số lượng các tàu chiến được trang bị hệ
thống vũ khí và kỹ thuật mới. Phân tích gần đây về việc
hiện đại hóa này trong thập niên qua chỉ ra những khả năng
mới như <em>"tấn công chính xác từ xa, khả năng bay xa, tấn
công dưới đáy biển, khả năng tàng hình, lưu động và chiến
tranh viễn chinh, và trên hết, những khả năng mới trong việc
giúp cải tiến mạng lưới thông tin chỉ huy, điều khiển liên
lạc, mạng lưới vi tính, tình báo, thăm dò và do thám
(C4ISR)"</em> (40). Phân tích này kết luận, <em>"những loại
vũ khí mới hứa hẹn sự nâng cấp đáng kể và hiện đại
hóa phương cách chiến đấu trong khu vực… (và) thay đổi từ
toàn bộ quan niệm và hành vi chiến tranh"</em> (41).
Theo Phó Đô đốc Scott Swift, Tư lệnh Đệ thất Hạm của Mỹ,
mối quan tâm lớn của ông không phải là sự bùng nổ một
cuộc xung đột lớn mà là <em>"bất cứ động cơ chiến
thuật với chủ đích chiến lược nào… Tôi quan tâm về một
sự phô trương nào đó có thể dẫn đến một tính toán sai
lầm chiến thuật…"</em> (42) Tóm lại, các tuyến đường
hàng hải trong khu vực có khuynh hướng trở nên <em>"đông
đúc, chật chội và dễ xảy ra đụng độ quân sự"</em> (43).
<h2>Chiến lược quân sự quốc gia mới của Hoa Kỳ</h2>
Khi nhậm chức vào năm 2009, các quan chức trong chính phủ Obama
đã nhanh chóng khẳng định rằng <em>"Hoa Kỳ trở lại Châu
Á"</em>. Hoa Kỳ lập tức tham gia Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác ASEAN, bổ nhiệm đại sứ thường trực vào Ban Bí thư
ASEAN và phục hồi lại Hội nghị các Lãnh đạo ASEAN – Hoa
Kỳ hàng năm. Khi sự quyết đoán của Trung Quốc ở biển Đông
nêu lên mối quan ngại về an ninh khu vực, cả Ngoại trưởng
lẫn Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã sử dụng những chuyến
viếng thăm trong khu vực để tuyên bố rằng Hoa Kỳ có lợi
ích quốc gia trong vấn đề an toàn giao thông đường biển và
đường hàng không trong khu vực biển Đông.
Hoa Kỳ đáp trả lại việc tăng cường hải quân và phát
triển khả năng chống tiếp cận/ từ chối khu vực của Trung
Quốc, bằng cách củng cố lực lượng ở đảo Guam, gia tăng
việc bán vũ khí và chiến cụ cho Philippines, thương lượng
với Úc để sử dụng căn cứ huấn luyện gần Darwin nhiều
hơn, và đưa tàu chiến đấu ven biển đồn trú ở Singapore
(44).
Phản ứng trực tiếp với việc hiện đại hóa hải quân Trung
Quốc, Hoa Kỳ cũng đã triển khai 31 trong số 53 tàu ngầm tấn
công nhanh tới Thái Bình Dương và đẩy mạnh chương trình
chiến tranh chống tàu ngầm. 18 tàu trong số tàu ngầm đó đóng
ở cảng nội địa là Trân Châu cảng; các tàu khác đồn trú
ở đảo Guam (45). Cuối tháng 6, đầu tháng 7 năm 2010, trong một
cuộc biểu dương sức mạnh hải quân có tính toán, tàu ngầm
USS Florida, USS Michigan và USS Ohio đồng loạt nổi lên mặt
nước tại Diego Garcia (Ấn Độ Dương), Busan (Nam Hàn) và Subic
Bay (Philippines) (46). Mỗi tàu ngầm này đã được canh tân để
mang 154 tên lửa hành trình Tomahawk.
Gần đây, Hoa Kỳ loan báo rút quân khỏi Iraq và sau đó là
Afghanistan. Hoa Kỳ sẽ tái cân bằng lực lượng và sẽ không
cắt giảm chi tiêu quân sự đối với khu vực châu Á – Thái
Bình Dương. Tầm quan trọng của châu Á – Thái Bình Dương
được nhấn mạnh trong tài liệu phát hành tháng 1 năm 2012, về
chiến lược quốc phòng mới ,Giữ vững vai trò lãnh đạo toàn
cầu của Hoa Kỳ: các ưu tiên cho quốc phòng của thế kỷ 21.
Tài liệu này đã nêu rõ:
Lợi ích kinh tế và an ninh của Hoa Kỳ gắn liền với sự phát
triển trong vòng cung trải dài từ Tây Thái Bình Dương và Đông
Á Châu tới Ấn Độ Dương và Nam Á, tạo nên một sự trộn
lẫn giữa những thách thức và cơ hội. Theo đó, trong khi quân
đội Hoa Kỳ tiếp tục đóng góp vào an ninh toàn cầu, chúng ta
cần tái cân bằng [ảnh hưởng] đối với khu vực châu Á –
Thái Bình Dương. Các mối quan hệ của chúng ta với các đồng
minh châu Á và đối tác chính thì rất quan trọng cho sự ổn
định và phát triển trong tương lai khu vực. Chúng ta sẽ chú
tâm tới các đồng minh hiện tại, họ cung cấp nền tảng quan
trọng cho an ninh khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Chúng ta
sẽ mở rộng mạng lưới hợp tác với các đối tác mới trong
toàn bộ khu vực châu Á – Thái Bình Dương, để bảo đảm
phương cách làm việc tập thể và khả năng bảo đảm lợi
ích chung (bản gốc nhấn mạnh điều này) (47).
Cuối cùng, Hoa Kỳ đang nghiên cứu khái niệm chiến tranh trên
biển và trên không để đối đầu với khả năng chống tiếp
cận/ từ chối khu vực của Trung Quốc. Khái niệm chiến tranh
trên biển và trên không được thảo ra để giúp Hoa Kỳ đánh
bại trong những cuộc xung đột mà khả năng chống tiếp
cận/từ chối khu vực được phát triển mạnh. Theo chiến
lược phòng thủ mới của Hoa Kỳ, một trong mười nhiệm vụ
chính của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ là <em>"phô trương sức
mạnh bất chấp các thách thức của chống tiếp cận/từ chối
khu vực"</em>(48).
Để đáp lại việc sử dụng khả năng bất đối xứng của
Trung Quốc, gồm chiến tranh điện tử và chiến tranh mạng, tên
lửa đạn đạo và tên lửa hành trình, các hệ thống phòng
không hiện đại, đặt mìn và những phương pháp khác,
<em>"làm phức tạp sự tính toán hoạt động của chúng ta",
quân đội Hoa Kỳ sẽ đầu tư theo nhu cầu để bảo đảm khả
năng hoạt động hiệu quả trong môi trường chống tiếp
cận/từ chối khu vực (A2/AD). Điều này sẽ bao gồm thực
hiện Khái niệm Tiếp cận Hoạt động chung, duy trì khả năng
hoạt động dưới đáy biển, chế tạo máy bay ném bom tàng
hình mới, cải tiến hệ thống phòng thủ tên lửa và tiếp
tục các nỗ lực nâng cao tính bền bỉ và hiệu quả của khả
năng phòng thủ quan trọng từ không gian (bản chính nhấn mạnh
điều này)</em> (49).
Trong khi đó, Hoa Kỳ liên tục tìm cách giữ vững quan hệ với
Trung Quốc. Hiện nay, Hoa Kỳ và Trung Quốc có gần 50 cơ cấu
hoạt động để phối hợp và hợp tác với nhau về các vấn
đề chính sách chiến lược. Chính quyền Hoa Kỳ tìm cách
điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc qua các cơ cấu mới
như Đối thoại Kinh tế – Chiến lược và Tham vấn về Các
vấn đề châu Á – Thái Bình Dương. Lầu Năm Góc thường
xuyên mở các kênh liên lạc thông tin với Trung Quốc qua Hội
đồng Cố vấn Quân sự Hàng hải chung và các cơ cấu đối
thoại phòng thủ song phương khác.
Chiến lược phòng thủ mới của chính phủ Obama liên quan tới
Trung Quốc, cho biết:
Về lâu dài, sự trỗi dậy của Trung Quốc như là một cường
quốc khu vực, có khả năng tác động lên kinh tế và an ninh Hoa
Kỳ trên nhiều mặt. Hai nước chúng ta có lợi ích lớn đối
với hòa bình và ổn định ở Đông Á và lợi ích trong việc
xây dựng quan hệ song phương trong tinh thần hợp tác. Tuy nhiên,
sự phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc phải đi kèm
theo sự minh bạch trong ý định chiến lược để tránh gây nên
sự va chạm trong vùng (50).
Tuy nhiên, rõ ràng là việc Hoa Kỳ tiếp tục bán vũ khí cho
Đài Loan và thu thập thông tin tình báo trong vùng đặc quyền
kinh tế của Trung Quốc vẫn là những khúc mắc chính. Căng
thẳng trong quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ được chuyển
sang Đông Nam Á. Manila và Washington đã phục hồi Hiệp ước
Phòng thủ chung năm 1951 qua việc mua bán vũ khí, chiến cụ và
diễn tập quân sự. Hoa Kỳ và Việt Nam đã gia tăng các hoạt
động hợp tác phòng thủ đơn giản nhất, gồm một cuộc
đối thoại giữa các lãnh đạo cấp cao mới, ký kết một
Bản Ghi nhớ về hợp tác phòng thủ và bắt đầu các hoạt
động trao đổi hải quân cấp thấp. Tóm lại, sự can thiệp
ngoại giao của Hoa Kỳ vào vấn đề Biển Đông đã đem lại
phản ứng tiêu cực, nếu không phải thù địch của Trung
Quốc. Trung Quốc chỉ trích các cuộc diễn tập hải quân giữa
Hoa Kỳ và Philippines là không đúng lúc và cảnh cáo cả Manila
lẫn Hà Nội rằng họ đang đùa với lửa bằng cách khuyến
khích sự can thiệp của Hoa Kỳ. Trung Quốc xem Hoa Kỳ là
cường quốc bên ngoài mà sự can thiệp của họ sẽ chỉ làm
phức tạp vấn đề.
<h2>ASEAN và cấu trúc an ninh khu vực với ASEAN làm trung tâm</h2>
Tháng 7 năm 2011, Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN chấp
thuận các Nguyên tắc Hướng dẫn Thực thi Tuyên bố Ứng xử
của các bên ở Biển Đông (DOC) sau 7 năm thương thảo đứt
đoạn. Từ khi các nguyên tắc hướng dẫn được phê chuẩn,
đã không có cuộc sự cố lớn nào xảy ra trong khu vực biển
Đông giữa Trung Quốc và các nước đòi chủ quyền. Căng
thẳng trong nửa năm đầu của năm 2011 đã giảm xuống. Trung
Quốc tổ chức cuộc họp đầu tiên của Nhóm Cộng tác chung
để thực thi Nguyên tắc Hướng dẫn của Tuyên bố Ứng xử
(DOC) vào tháng 1 năm 2012 (51).
Vào lúc bản DOC đầu tiên được chấp thuận, nó được xem
như là bước đầu để đi tới cách hành xử có tính ràng
buộc hơn trong khu vực biển Đông. Với sự chấp thuận Nguyên
tắc Hướng dẫn để thực thi bản DOC, các thành viên ASEAN
quyết định tiến tới việc soạn thảo bản nháp Quy tắc Ứng
xử (COC). Tháng 11 năm 2011, viên chức cao cấp ASEAN bắt đầu
các cuộc bàn thảo về những hoạt động và các chương trình
nào sẽ đưa vào COC. Theo một viên chức Indonesia, một khi đạt
được sự đồng thuận, bản thảo COC sẽ được đưa cho Trung
Quốc <em>"để xác định điều gì, khi nào, ở đâu và
chương trình sẽ được thực hiện như thế nào"</em>. (52).
Bề ngoài, các cuộc thảo luận của Trung Quốc với các nước
thành viên ASEAN cho thấy một bước tiến tích cực có thể
dẫn tới sự chấp thuận các biện pháp xây dựng lòng tin và
giảm bớt căng thẳng. Tuy nhiên, nếu Trung Quốc tìm cách chia
rẽ giữa các nước đòi chủ quyền và sử dụng trò chơi
ngoại giao câu giờ để giữ chân, không cho Hoa Kỳ can thiệp,
thì sẽ gây nên ngờ vực và nhận chìm tiến trình ngoại giao.
Hiện nay, cơ cấu an ninh Đông Á đang thành hình từ kết quả
của sự mở rộng Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS), gồm
có Hoa Kỳ và Liên bang Nga. Tại một cuộc gặp gỡ không chính
thức giữa các lãnh đạo EAS năm 2011, 16 trong số 18 thành viên
nêu lên sự quan ngại về các vấn đề an ninh hàng hải. Trung
Quốc là nước duy nhất biện luận rằng EAS không phải là nơi
thuận tiện cho các cuộc thảo luận này. Tuy nhiên, phần tóm
tắt kết luận của chủ tịch EAS đã ghi nhận vấn đề an ninh
hàng hải là đề tài thảo luận trong nghị trình.
Để cơ cấu an ninh khu vực mới có hiệu quả, phải có sự
sắp xếp hợp lý các bộ phận cố vấn cho EAS, từ những sự
dàn xếp đa phương khác hiện tại, cân nhắc các vấn đề an
ninh hàng hải. Ví dụ, có nhiều bộ phận chồng chéo nhau
dưới sự bảo hộ của ASEAN, Diễn đàn Khu vực ASEAN phụ
trách an ninh hàng hải và các vấn đề của Biển Đông:
<div class="special_quote">
- Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (ADMM). Các bộ
trưởng quốc phòng ASEAN gặp nhau lần đầu tiên vào tháng 5
năm 2006 và bắt đầu tiến trình cơ cấu hóa hợp tác phòng
thủ trên căn bản khu vực. Các bộ trưởng quốc phòng ASEAN
đang là thành viên đại diện khu vực của Hội đồng An ninh
Chính trị ASEAN được thành lập theo Hiến chương ASEAN. ADMM
đã đem vào dưới trướng những cuộc họp riêng lẻ không
chính thức với các lãnh đạo hành chánh ASEAN (như lục quân,
không quân, hải quân và tình báo quân sự) và hoạt động bên
ngoài cơ chế chính thức ASEAN. Tại ADMM lần thứ tư vào tháng
5 năm 2010, ADMM đã đồng ý cho hải quân các nước ASEAN hợp
tác tuần tiễu trên lãnh hải của họ.
- Hội nghị Lãnh đạo Hải quân các nước ASEAN (ANCM). Vấn
đề an ninh hàng hải nằm trong phạm vi trách nhiệm của ANCM.
Viễn ảnh về sự hợp tác thực sự giữa hải quân các nước
ASEAN không mấy khả quan. Tại hội nghị ANCM thứ 5, hội nghị
gần đây nhất, ở Việt Nam năm 2011 đã xảy ra bất đồng về
một số vấn đề, bao gồm tên chính thức cho hội nghị, bao
lâu họp một lần, việc thực hiện tuần tra chung, và đề
xuất về thể thức thông tin liên lạc trong ASEAN khi các tàu
hải quân gặp nhau ngoài khơi.
- Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN Mở rộng (ADMM
Plus). ADMM được mở rộng vào tháng 10 năm 2010 đưa thêm 8
đối tác đối thoại của ASEAN: Úc, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật
Bản, New Zealand, Nga, Hàn Quốc và Hoa Kỳ. ADMM Plus đã đồng ý
tại cuộc họp này là ADMM Plus sẽ họp 3 năm một lần với
lần họp thứ 2 sẽ diễn ra ở Brunei vào năm 2013. Buổi họp
đầu tiên của ADMM Plus đã thành lập Hội nghị Mở rộng các
Viên chức Cao cấp Quốc phòng (ADSOM Plus) và 5 nhóm Chuyên gia (an
ninh hàng hải, cứu trợ nhân đạo, thiên tai, giữ gìn hòa
bình, y tế quân đội và chống khủng bố).
- Nhóm Chuyên gia Hỗn hợp thuộc tổ Công tác An ninh Hàng hải
của ADMM Plus (EWG on MS). Malaysia và Úc là đồng chủ tịch của
EWG on MS. Buổi họp đầu tiên xảy ra ở Perth (Úc) vào tháng 7
năm 2011 và thảo luận về việc trao đổi tin tức. 'EWG on
MS' đã thông qua các phạm vi có liên quan vào tháng 10 năm 2011.
Vào tháng 2 năm 2012, Malaysia tổ chức 'EWS on MS' lần thứ
nhì, chú trọng vào các vấn đề hợp tác thực tiễn và xây
dựng tiềm lực. Malaysia đưa ra Bản Khái niệm về việc thành
lập một cơ chế để hỗ trợ công việc và thực hiện các
quyết định của 'EWS on MS'. 'EWS on MS' quyết định họp
mỗi năm 2 lần và báo cáo các quyết định cho ADSOM Plus. Cuộc
họp thứ ba sẽ được tổ chức ở Malaysia vào tháng 8 năm
2012.
- Diễn đàn Hàng hải ASEAN (AMF). ASEAN thành lập AMF vào năm 2010
dưới điều khoản của Kế hoạch Cộng đồng An ninh Chính
trị ASEAN (53). Cuộc họp thứ hai của AMF được tổ chức tại
Thái Lan hồi tháng 8 năm 2011 và đề nghị mở rộng thành viên
gồm các đối tác đối thoại thành hội nghị mở rộng khác
(AMF Plus). Hội nghị AMF tập trung vào một phương pháp tổng
quát về các vấn đề lãnh hải và cho đến nay, vẫn chưa
giải quyết các vấn đề biển Đông một cách chi tiết (54).
- Hội nghị giữa mùa của Diễn đàn Khu vực ASEAN về An ninh
Hàng hải (ARF ISM on MS). Trong năm 2009, Diễn Đàn Khu vực ASEAN
(ARF) thành lập 'ARF ISM on MS' và sau đó phê chuẩn kế hoạch
làm việc tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN thứ 44 vào tháng 7
năm 2011 (55). Hội nghị giữa mùa về an ninh hàng hải chú
trọng về trao đổi thông tin, xây dựng tiềm lực, và huấn
luyện thay vì các hoạt động thực tiễn như các hội nghị
xây dựng lòng tin về biển Đông.</div>
Sự tiến triển của cơ cấu an ninh khu vực đang ở giai đoạn
khởi đầu và chưa rõ Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (EAS)
mở rộng sẽ liên quan như thế nào với các thể chế an ninh
đa phương hiện có. Một mặt, sự tiến triển hiện tại của
cơ cấu an ninh khu vực có thể được xem là sự phát triển
tích cực vì lôi kéo được các diễn viên chính, bao gồm các
giới chức đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Mặt khác, nếu Trung Quốc cảm thấy các cường quốc bên ngoài
quy tụ lại để chống nước này, thì tiến trình EAS có thể
trở nên bế tắc. Trong 8 đối tác đối thoại, 5 đối tác là
đồng minh hay đối tác chiến lược thân cận (Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Úc, New Zealand)
<h2>Kết luận</h2>
Những gì đang chờ đợi phía trước? Môi trường an ninh ở khu
vực biển Đông trong tương lai của sẽ bị tác động bởi 5
khuynh hướng chính chồng chéo lên nhau. Các khuynh hướng này có
đủ các các yếu tố cân bằng lẫn bất ổn. Năm khuynh hướng
là: thảo luận giữa Trung Quốc và ASEAN về cách thức xây
dựng lòng tin; gia tăng khả năng thực thi hàng hải trong khu
vực; hiện đại hóa quân sự trong khu vực; sự đối đầu
giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc; và sự tiến triển của cơ cấu an
ninh khu vực.
Sự quyết đoán hiếu chiến của Trung Quốc về chủ quyền
trên biển Đông trong sáu tháng đầu năm 2011 đã nêu ra những
rủi ro về an ninh không chỉ cho các quốc gia Đông Nam Á. Bài
viết này đã lưu ý các cuộc sự cố nghiêm trọng giữa các
tàu của chính phủ Trung Quốc, gồm có một chiến hạm của
Hải quân Trung quốc với các tàu đánh cá Philippines, và Việt
Nam, tàu các thăm dò của Việt Nam. Sự quyết đoán hung hăng
của Trung Quốc trong vùng biển Đông đang trở thành một vấn
đề quốc tế và phải được giải quyết theo cách thức đa
phương bởi tất cả các quốc gia có lợi ích liên quan.
Sức ép ngoại giao quốc tế đã đưa tới sự phê chuẩn các
hướng dẫn thực thi Bản Tuyên bố Ứng xử của Các bên ở
Biển Đông (DOC) của các nước thành viên ASEAN và Trung Quốc.
Các hướng dẫn này đặt nền tảng cho sự lạc quan thận
trọng trong ngắn hạn, rằng các căng thẳng ở biển Đông sẽ
giảm khi các quốc gia quan tâm chấp nhận việc xây dựng lòng
tin và các biện pháp hợp tác khác. Có khả năng ASEAN và Trung
Quốc có thể đạt được thỏa thuận về Quy tắc Ứng xử
trong năm 2012.
Giảm bớt căng thẳng có lẽ là bước khởi đầu cho một
giải pháp lâu dài nhưng không đủ để mang lại một thỏa
thuận cho các tuyên bố chủ quyền chưa giải quyết. Vấn đề
quan trọng là bản đồ 9 đoạn đứt khúc hình chữ U mà Trung
Quốc đệ trình lên Ủy ban Ranh giới Thềm Lục địa của Liên
Hiệp quốc hồi tháng 5 năm 2009. Bên ngoài, bản đồ Trung Quốc
đã đòi chủ quyền hầu như toàn bộ biển Đông, với lập
luận <em>"chủ quyền không thể tranh cãi"</em> dựa trên
<em>"chủ quyền lịch sử"</em>. Đường 9 đoạn của Trung
Quốc cắt sâu vào vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam và
Philippines đã tuyên bố. Theo Công ước về Luật Biển của
Liên Hiệp quốc, các quốc gia ven biển có chủ quyền đối
với các vùng biển và thềm lục địa này để khai thác tài
nguyên thiên nhiên, như tôm cá và dầu khí dưới đáy biển.
Trung Quốc phải làm rõ các tuyên bố của họ.
Sự hiếu chiến của Trung Quốc đã trở nên phản tác dụng,
theo quan điểm của Bắc Kinh. Chính phủ Aquino quyết tâm hiện
đại hóa các lực lượng vũ trang để bảo vệ lãnh thổ và
lãnh hải của họ. Mục tiêu này đã khiến Philippines vực dậy
hiệp ước liên minh năm 1951 với Hoa Kỳ. Việt Nam, trong lúc gia
tăng hợp tác phòng thủ với Hoa Kỳ, tiếp tục bắt tay vào
chương trình hiện đại hóa hải quân.
Các nhà phân tích an ninh cảnh báo rằng việc gia tăng các hạm
đội tàu ngầm có thể làm mất ổn định trong thời gian căng
thẳng và khủng hoảng, do tính phức tạp của hệ thống chỉ
huy và kiểm soát. Hơn nữa, việc mở rộng của các hạm đội
tàu ngầm trong khu vực khiến nhiều nước đầu tư thêm vào
khả năng chiến tranh chống tàu ngầm (56).
Cuối cùng, sự phát triển kỹ thuật quân sự mới sẽ cho ra
nhiều máy bay và tàu ngầm không người lái tinh vi, và các hệ
thống tự động để thu thập thông tin tình báo, do thám, quan
sát và tấn công. Theo Mark Valencia:
Tình hình hiện đã vượt khỏi sự kiểm soát quốc tế. Vì
thế những hành động thăm dò có tính cách xâm phạm dễ dẫn
đến mất lòng tin và giận dữ, có thể đưa tới hành động
sử dụng vũ lực để chấm dứt sự <em>"xâm phạm"</em> đó
khi và nếu bị phát hiện. Mức độ và phạm vi của các hoạt
động thu thập tin tức tình báo trên không và dưới biển
tiếp tục gia tăng nhanh tại nhiều quốc gia, gồm nhiều loại
và nhiều mức độ hoạt động chưa từng thấy trong thời
bình. Không những chúng trở nên mạnh bạo hơn mà còn có tính
cách xâm lấn hơn. Thật vậy, việc gia tăng những phi vụ do
thám có thể được xem là sự chuẩn bị cho chiến tranh đang
đến gần. Chúng sẽ gây ra căng thẳng và càng khủng hoảng
thường xuyên hơn; chúng sẽ tạo ra những phản ứng phòng thủ
và tính năng động nâng cao; và chúng sẽ dẫn tới giảm bớt
ổn định ở các khu vực bị tác động nhất, đặc biệt ở
khu vực châu Á (57).
Cơ cấu an ninh khu vực với trung tâm ASEAN là một sự pha trộn
mới mẻ của cơ chế đa phương với nhiều trách nhiệm chồng
chéo nhau. Nếu ASEAN không gia tăng tính thống nhất cao và gắn
kết hơn nữa, nó sẽ không thể giữ vững tính trung tâm trong
cơ cấu an ninh khu vực. Tình trạng này sẽ chỉ làm suy yếu
sự cố gắng của ASEAN để đẩy mạnh sự tự trị khu vực
khi căng thẳng giữa các cường quốc được chuyển qua Đông
Nam Á. Tóm lại, Đông Nam Á đã <em>"chín mùi để đối
địch"</em> do các căng thẳng xãy ra giữa Hoa Kỳ và Trung
Quốc đã chuyển tới khu vực, được đánh dấu bởi các xung
đột chủ quyền không thể xác định trong vùng biển Đông,
chủ nghĩa quốc gia tài nguyên gia tăng, và các chương trình
hiện đại hóa quân đội.
<em><strong>Carl Thayer</strong>: Giáo sư danh dự, đại học New South
Wales, Viện Nghiên cứu Quốc phòng Úc, Canberra. Email:
c.thayer@adfa.edu.au</em>
_____________________________________
<strong>Ghi chú:</strong>
(1) Đông Timor chưa là thành viên.
(2) (Theo Today Online của Singapore, ngày 15/2/2012).
(3) Chuỗi đảo thứ nhất nói về dãy đảo hướng bắc nam,
từ quần đảo Kuriles, Nhật Bản, quần đảo Ryukyu, Đài Loan,
Philppines và Indonesia. Chuỗi đảo thứ hai cách xa phía đông
bờ biển Trung Quốc hơn, gồm một dãy chạy dài hướng bắc
nam từ quần đảo Kuriles qua Nhật Bản, quần đảo Bonins, quần
đảo Marianas, quần đảo Carolines và Indonesia.
(4) Theo Tân Hoa xã, ngày 29 tháng 7 năm 2010.
(5) Theo báo The Economic Times, ngày 23 tháng 11 năm 2011.
(6) Mark J Valencia, "Biển Đông, Hoạt động Quân sự và Luật
biển", tài liệu đệ trình lên Hội đồng Quốc tế về Các
vấn đề Chính sách và Luật cơ bản trong khu vực Biển Đông:
Cách nhìn của Hoa Kỳ và Âu châu, do Cơ quan Nghiên cứu Hoa Kỳ
và châu Âu cùng Trung tâm nghiên cứu châu Á -Thái Bình Dương
đồng bảo trợ, Academia, Taipei, Đài Loan, ngày 7-8 tháng 10 năm
2011.
(7) Theo ABS-CBN News, ngày 3 tháng 6 năm 2011.
(8) Theo Philippine Daily Inquirer, ngày 3 tháng 6 năm 2011.
(9) Theo ABS‐CBN News, ngày 3 tháng 6 năm 2011.
(10) Theo BBC News Asia‐Pacific, ngày 8 tháng 3 năm 2011.
(11) Theo the Philippine Star, ngày 1 tháng 6 năm 2011.
(12) Theo báo Thanh Niên, ngày 10 tháng 6, 2011.
(13) Theo Associated Press, ngày 13 tháng 7, 2011.
(14) Theo báo PetroViet, "Báo cáo sự cố tàu Trung Quốc cắt cáp
thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 vào lúc 5h58', ngày
26/05/2011".
(15) Theo DPA, ngày 6 tháng 6, 2011.
(16) Theo Agence France Presse (AFP), ngày 9 tháng 6 năm 2011 và
Bloomberg Businessweek, ngày 9 tháng 6 năm 2011.
(17) Theo Carlyle A. Thayer, "South China Sea: Third Cable Cutting
Incident?" - Thayer Consultancy Background Briefing, 1 July 2011. Có
tại Scribd.com.
(18) Theo Robert Karniol, "Vietnam chuẩn bị để bảo vệ tốt hơn
các tuyên bố chủ quyền ở biển Đông", báo The Straits Times,
ngày 10-1- 2012.
(19) Theo Philippine Daily Inquirer, ngày 17 tháng 5 năm 2001.
(20) Theo AFP, 7-9-2011.
(21) Theo Reuters, ngày 13 tháng 4 năm 2011 và AFP ngày 3 tháng 9 năm
2011.
(22) Theo The Philippine Star, ngày 24 tháng 8 năm 2011.
(23) Theo The Wall Street Journal, ngày 28 tháng 9 năm 2011.
(26) Theo đài BBC tiếng Việt, ngày 3 tháng 10 năm 2011.
(27) Theo đài BBC tiếng Việt, ngày 18 tháng 10 năm 2011.
(28) Theo báo The Hindu, ngày 9 tháng 11 năm 2011.
(29) Theo Business Insider, ngày 20 tháng 9 năm 2011.
(30) Theo thông tấn xã Nga RIA Novosti, ngày 15 tháng 2 năm 2012.
(31) Trích trong báo The Economic Times, ngày 14 tháng 11 năm 2011.
(32) Theo Aviation Week, ngày 17 tháng 2 năm 2012.
(33) Theo giáo sư Desmond Ball, "Asia's Naval Arms Race," tài
liệu đưa ra tại cuộc họp bàn tròn thứ 25 của tổ chức
châu Á – Thái Bình dương, ISIS Malaysia, Kuala Lumpur, ngày 29
tháng 5 đến ngày 1 tháng 6, 2011.
(34) Theo Business Week, ngày 25 tháng 11 năm 2011.
(35) Theo Aviation Week, ngày 17 tháng 2 năm 2012.
(36) Theo Al Jazeera.net, ngày 7 tháng 11 năm 2011.
(37) Theo The Straits Times, ngày 3 tháng 12 năm 2011.
(38) Theo Flight Global, ngày 15 tháng 12 năm 2011.
(39) Theo The Australian Financial Review, ngày 24 tháng 11 năm 2011.
(40) Theo Richard A. Bitzinger, "Một cuộc chạy đua vũ trang
mới? Giải thích các vụ mua bán vũ khí của ở ĐNA gần
đây". Contemporary Southeast Asia, 31(1), tháng 4- 2010, 63‐64.
(41) Theo Bitzinger, "Một cuộc chạy đua vũ trang mới? Giải
thích các vụ mua bán vũ khí của ở ĐNA gần đây" 64.
(42) Trích từ The China Post, ngày 10 tháng 11 năm 2011.
(43) Rory Medcalf and Raoul Heinrichs, Crisis and Confidence: Major Powers
and Maritime Security in Indo‐ Pacific Asia (Sydney: Lowy Institute for
International Policy, June 2011), 3.
(44) Theo Checkpoint Washington, ngày 18-11- 2011.
(45) Theo Navy Times, ngày 21-7- 2010.
(46) Theo The Chosun Ilbo, ngày 8 tháng 7, 2010 và Time Magazine, ngày 8
tháng 7 năm 2010.
(47) Theo Sustaining U.S. Global Leadership: Priorities for 21st Century
Defense (tháng 1-2012), 2.
(48) Theo cùng sách này, 4.
(49) Theo cùng sách này, 4‐5.
(50) Theo cùng sách này,2.
(51) Theo Business World, ngày 29 tháng 11 năm 2011.
(52) Theo Antara, ngày 14 tháng 11, 2011.
(53) theo "Kế hoạch hành động Hà Nội (được tổ chức ở
Hà Nội) để thực hiện Chủ trương của Diễn đàn Khu vực
ASEAN", ngày 20 tháng 5 năm 2010, mục 3.
(54) Theo "bản lên tiếng của chủ tịch của Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN thứ 19 tại Bali, ngày 17 tháng 11, 2011",
Mục 14-17 (hợp tác lãnh hải).
(55) Theo Diễn đàn Khu vực ASEAN, "Bản thảo kế hoạch làm
việc về an ninh lãnh hải: khuông mẫu để thảo luận", ARF
ISM on MS thứ 2, Auckland, 29-30 tháng 3- 2010; "Tóm lược của
đồng chủ tịch Hội nghị ARF giữa mùa về an ninh lãnh hải,
Tokyo, Nhật Bản, 14-15 tháng 2- 2011"; và "AM/PMC/thứ 18 ARF
thứ 44, Indonesia năm 2011, tuyên bố của chủ tịch, ARF thứ 18,
23 tháng 7-2011, Bali, Indonesia", Mục 41.
(56) Theo Aviation Week.
(57) Mark J Valencia, "Biển Đông, Các Hoạt động Quân sự và
Luật biển", Tài liệu đệ trình lên Hội nghị Quốc tế về
Các vấn đề Chính sách và Luật cơ bản trong khu vực Biển
Đông: Quan điểm của Hoa Kỳ và Âu châu, đồng bảo trợ bởi
Cơ quan Nghiên cứu Hoa Kỳ và Âu châu và Trung tâm nghiên cứu
châu Á – Thái Bình Dương, Academia, Taipei, Đài Loan, ngày 7-8
tháng 10-2011 và Mark Valencia, "Sự cố Hoàn hảo: Sự thật và
Hậu quả", China Security, 5(2), mùa xuân 2009, 26.
Nguồn: <a
href="http://www.scribd.com/doc/91880303/Thayer-The-Rise-of-China-and-Maritime-Security-in-Southeast-Asia">IDE-JETRO</a>
Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2012
Bản tiếng Việt © Trần Văn Minh
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12603), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét