Hơn chục năm qua, mấy bài Tự trào của nhà sư làm cho tôi lúc
thì hình dung Thích Quảng Độ như một nho sỹ bất đắc chí:
<em>Quảng Độ tên mi quê ở đâu?
Thái Bình, Tiên Hải, Xã Thanh Châu
Dốt đặc cán mai mà lên mặt
Khôn nhà dại chợ lại lên râu
Nhìn đời "tiến bộ" giương mắt ếch
Nghe đạo suy đồi vểnh tai trâu
Thôi về xếp áo đi tập hát
Theo làm nghề xiếc với ông bầu</em>
Lúc lại có nét Lỗ Trí Thâm:
<em>Quảng Độ là mi mi biết chưa
Vóc dáng xem ra kể cũng vừa
Mắt sáng cằm vuông râu rậm rạp
Trán cao đầu nhọn tóc lưa thưa
Chữ nghĩa lem nhem nhưng biếng học
Tính tình nóng nảy vẫn không chừa
Năm nay tuổi tác vừa năm chục
Tù ngục hai lần đã sướng chưa?</em>
Một đôi người không hiểu những bi phẫn bị nén thành tuyên
thệ ẩn ức còn chê những vần thơ này:
<em>Đêm ngày tôi dạy cái thằng tôi
Đạo pháp suy vi bởi lẽ trời
Thấy kẻ phá chùa: khoanh tay đứng
Nhìn người đập tượng: mắt nhắm ngồi
Bắt bớ tăng ni: thây mẹ nó
Giam cầm phật tử: mặc cha đời
Miễn được yên thân là khôn đấy
Can chi ậm ọe để thiệt thòi.</em>
Gần đây, khi chọn người để đề xuất ý kiến trao giải
Nobel Hòa bình tôi mới có dịp tìm hiểu tương đối kỹ và
mới ngộ ra rằng hòa thượng Thích Quảng Độ không chỉ là
một cao tăng Phật giáo ưu thời mẫn thế, dũng cảm can
trường mà còn là một trí thức thật sự uyên thâm, uyên bác
đã từng là giảng sư đại học, một nhà văn, một dịch giả
với một kho tác phẩm rất đáng kính nể:
• Kinh Mục Liên Sám Pháp
• Kinh Đại Phương tiện Phật Báo Ân
• Thoát vòng tục lụy, Sài Gòn 1962; (truyện dịch từ Hán văn
của Tinh Vân)
• Dưới mái chùa hoang, Sài Gòn 1962; (truyện)
• Truyện cổ Phật giáo, Sài Gòn 1964;
• Ðại thừa Phật giáo tư tưởng luận
• Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận
• Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận
• Từ điển Phật học Hán Việt (2 tập)
• Phật Quang Đại Từ điển (9 tập)
• Chiến tranh và bất bạo động
• Thơ trong tù 06.04.1977-10.12.1978 (tháng 3 năm Đinh Tỵ đến
tháng 11 Mậu Ngọ)
• Thơ lưu đày 25.02.1982-22.03.1992 (tháng 2 năm Nhâm Tuất đến
tháng 2 năm Nhâm Thân)
Vậy mà báo chí của Đảng không ngừng bôi xấu kết tội
Ngài, thậm chí họ còn loan tin đã bắt gặp TQĐ trong động
lắc, TQĐ đã làm hai ni cô có chửa, một cô đã tự tử…
Thật là bỉ ổi, đê tiện hết chỗ nói!
Xin dẫn ra một trong những bài viết đó đăng trên báo Sài Gòn
Giải phóng số ra ngày 26 tháng 8 năm 2007:
<div class="special_quote">"Như đã đưa tin, các lực lượng bảo
vệ pháp luật của Nhà nước ta vừa chặn đứng một âm mưu
gây rối an ninh, trật tự do các thế lực thù địch và bọn
phản động lưu vong ở nước ngoài cấu kết với một số
đối tượng cơ hội chính trị và các phần tử phản động
lợi dụng tôn giáo trong nước tiến hành. Các đối tượng này
đã tung tiền dụ dỗ, mua chuộc những người khiếu kiện
nhằm kích động họ tham gia biểu tình chống chính quyền ở
Hà Nội và TPHCM. Vậy đâu là bộ mặt thật của những kẻ
chủ mưu xúi giục hoặc cầm đầu kích động người khiếu
kiện gây rối?
Một trong những tên chủ mưu kích động người khiếu kiện
gây rối an ninh, làm mất trật tự xã hội là Thích Quảng
Độ, kẻ cầm đầu cái gọi là Viện hóa đạo Giáo hội Phật
giáo Việt Nam thống nhất, một tổ chức tôn giáo không được
thừa nhận ở nước ta.
Ngày 18-7-2007, đích thân Thích Quảng Độ đã đi phát tiền
cứu trợ cho những người khiếu kiện từ một số tỉnh phía
Nam tụ tập về TPHCM, trực tiếp cầm loa tay kích động họ
gây rối an ninh, trật tự, gây bức xúc trong dư luận. Cũng
chính Thích Quảng Độ cử Thích Không Tánh mang 300 triệu đồng
ra Hà Nội để mua chuộc, kích động người khiếu kiện biểu
tình chống chính quyền và sáng 23-8-2007, Thích Không Tánh đã
bị các lực lượng bảo vệ bắt quả tang khi đang chuẩn bị
phát tiền cho dân khiếu kiện tập trung trước trụ sở tiếp
công dân tại số 110 Cầu Giấy.
Vậy Thích Quảng Độ là ai?
Thích Quảng Độ tên thật là Đặng Phúc Tuệ, sinh năm 1927
tại huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, hiện đăng ký nhân
khẩu thường trú tại chùa Thanh Minh Thiền Viện, số 90 phố
Trần Huy Liệu, phường 15, quận Phú Nhuận, TPHCM. Xuất gia từ
thuở còn trẻ, đáng lý ra nếu cứ tiếp tục quá trình tu tập
như một nhà sư phụng đạo, giúp đời thì có lẽ ông ta sẽ
thấm nhuần lòng từ bi, bác ái và truyền thống yêu nước
của Phật giáo Việt Nam. Tuy nhiên, nhà tu hành cá biệt này
lại ngộ ra một tư tưởng đi ngược với lợi ích dân tộc,
ngoan cố, chống đối đến cùng chế độ chính trị, thành
quả của cuộc cách mạng mà hàng triệu người con của dân
tộc Việt Nam đã ngã xuống mới giành được.
Theo các tài liệu và chứng cứ mà cơ quan công an có được,
trong thời gian từ tháng 4-1977 đến tháng 12-1978, Thích Quảng
Độ đã có thái độ bất mãn, chống đối chính quyền nhân
dân, dọa tự thiêu và lợi dụng việc tổ chức Đại giới
đàn để thuyết giảng, vu cáo chính quyền đàn áp Phật giáo
như: Ra thông tư kêu gọi và kích động tăng, ni sinh sẵn sàng
tử vì đạo nếu cần; đồng thời nhân vụ sư cô Như Hiền
uống thuốc tự vẫn (vì có hoang thai), Thích Quảng Độ cùng
một số đối tượng khác tung tin sư cô Như Hiền chết để
phản đối chính quyền.
Vì có hành vi tổ chức các hoạt động chống đối Nhà nước,
y đã bị Công an TPHCM bắt giữ, truy tố trước pháp luật. Tuy
nhiên, xét thấy mức độ vi phạm chưa nghiêm trọng, Tòa án
Nhân dân TPHCM đã xử khoan hồng, trả y về Thanh Minh Thiền
Viện. Nhưng cũng kể từ đó, Thích Quảng Độ công khai chống
lại chủ trương thống nhất Phật giáo toàn quốc.
Thích Quảng Độ cùng một số đối tượng chống đối trong
cái gọi là Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất (GHPGVNTN)
tiến hành nhiều hoạt động nhằm cản trở việc chuẩn bị
cho Đại hội thống nhất Phật giáo toàn quốc, tiếp tục duy
trì các hoạt động mang danh nghĩa GHPGVNTN.
Vì lẽ đó, UBND TPHCM đã phải ra quyết định cấm y cư trú
trên địa bàn; UBND tỉnh Thái Bình cũng đồng thời ra quyết
định buộc Quảng Độ cư trú tại chùa Đông Xoài, tỉnh Thái
Bình. Tuy nhiên, từ năm 1992 đến nay, Thích Quảng Độ tự ý
vào cư trú tại TPHCM và liên tục tiến hành các hoạt động
chống đối, viết và phát tán nhiều tài liệu xuyên tạc tình
hình trong nước Liên tiếp từ sau năm 1993, Quảng Độ nhân danh
cái gọi là Viện trưởng Viện Hóa đạo - GHPGVNTN ký, phát tán
rộng rãi trong và ngoài nước hàng chục loại tài liệu có
nội dung đả kích, chống đối chế độ, yêu sách với Nhà
nước đòi phục hồi GHPGVNTN. Trực tiếp chỉ đạo Không Tánh,
Đồng Ngọc, Nhật Thường, lợi dụng một số đoàn khách
nước ngoài đến Việt Nam tổ chức tiếp cận đưa các văn
thư, kiến nghị, nhờ những người này chuyển cho Liên hiệp
quốc và các cá nhân, tổ chức nhân quyền quốc tế can thiệp,
gây sức ép với Nhà nước ta cho phép GHPGVNTN tái phục hoạt
như trước năm 1975.
Tháng 10-1994, Quảng Độ, Đức Nhuận chỉ đạo Thích Không
Tánh, Nhật Ban, Hồng Ngọc, Nguyên Lý thành lập cái gọi là
Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp và Ban công tác từ thiện xã
hội GHPGVNTN để tiến hành các hoạt động tuyên truyền, lôi
kéo, kích động tăng ni, phật tử chống lại đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Cũng trong năm 1994, lợi dụng tình hình lũ lụt ở các tỉnh
miền Tây Nam bộ, Quảng Độ đã chỉ đạo một số đối
tượng trong nhóm Tăng đoàn bảo vệ chánh pháp và Ban công tác
từ thiện xã hội GHPGVNTN tổ chức cho khoảng 150 tăng ni, phật
tử trương cờ, băng rôn, khẩu hiệu mang danh GHPGVNTN và lợi
dụng việc cứu trợ để phô trương lực lượng và tuyên
truyền nhằm công khai hóa các hoạt động của GHPGVNTN.
Do Thích Quảng Độ liên tiếp có những hành vi chống đối,
ngang nhiên lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng để vi phạm
pháp luật, nên tháng 1-1995, Công an TPHCM đã thực hiện lệnh
bắt tạm giam đối với Quảng Độ. Tháng 8-1995, Tòa án Nhân
dân TPHCM đã xét xử, tuyên phạt Quảng Độ cùng nhóm của y
(Không Tánh, Đồng Ngọc, Nhật Thường, Trí Lực) 5 năm tù giam
và thời hạn quản chế 5 năm về tội phá hoại chính sách
đoàn kết và lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích Nhà nước. Tuy nhiên, thực hiện chính sách nhân đạo của
Đảng, Nhà nước ta đối với người phạm tội biết ăn năn,
hối cải, có thành tích cải tạo tốt, nhân dịp Quốc khánh
2-9-1998, Chủ tịch nước đã quyết định đặc xá, tha tù
trước thời hạn cho Quảng Độ, trả về nơi cư trú cũ của y
tại Thanh Minh Thiền Viện.
Nhưng ngựa quen đường cũ, ngay sau khi về TPHCM, Quảng Độ
lại cùng Huyền Quang, Đức Nhuận được sự hậu thuẫn của
số chống đối cực đoan trong Phật giáo người Việt lưu vong
hải ngoại như Võ Văn Ái (ở Pháp), Hộ Giác và Viên Lý (ở
Mỹ) lộ rõ bản chất chính trị phản động, công khai thách
thức chống chính quyền và pháp luật, kêu gọi phục hồi
GHPGVNTN.
Theo những tài liệu mà cơ quan công an thu giữ được, Quảng
Độ cầm đầu, chỉ đạo số tay chân liên tục tiến hành các
hoạt động chống phá Nhà nước; trực tiếp liên lạc, trao
đổi, cung cấp tài liệu thông tin ra ngoài vu cáo Việt Nam vi
phạm nhân quyền, tự do tôn giáo; tổ chức, sắp xếp nhân sự
cho cái gọi là Đại hội GHPGVNTN nhiệm kỳ 9 tại Tu viện
Nguyên Thiều (tỉnh Bình Định) và giữ chức vụ Viện trưởng
Viện Hóa đạo.
Liên quan đến lịch sử hình thành và sự kiện kết thúc quá
trình tồn tại của GHPGVNTN, cũng như những hành vi ngang ngược
của vị tu sĩ đặc biệt này, ngày 9-11-2005, trả lời phỏng
vấn TTXVN về việc hòa thượng Thích Quảng Độ nhân danh Viện
trưởng Viện Hóa đạo GHPGVNTN ký quyết định bổ nhiệm Ban
đại diện Phật giáo một số tỉnh, thành phố phía Nam, hòa
thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Trung
ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định việc làm này
của ông Thích Quảng Độ là mạo xưng, không có giá trị pháp
lý, trái với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
và trái với pháp luật của Nhà nước Việt Nam.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ cho biết: GHPGVNTN ra đời tháng 1-1964
tại Sài Gòn (nay là TPHCM) với sự hợp nhất của 11 hệ phái,
tổ chức Phật giáo ở miền Nam lúc bấy giờ. Tháng 11-1981,
các bậc tôn túc đứng đầu Giáo hội Phật giáo Việt Nam
thống nhất đã cùng các vị đứng đầu Phật giáo của 8 tổ
chức Phật giáo khác tự nguyện gia nhập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam.
Trong lời nói đầu của Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt
Nam đã ghi rõ: Giáo hội Phật giáo Việt Nam là tổ chức duy
nhất đại diện cho Phật giáo Việt Nam về mọi mặt quan hệ
ở trong nước và ngoài nước. Với ý nghĩa đó, về mặt lịch
sử cũng như pháp lý, GHPGVNTN không còn tồn tại theo nguyên
nghĩa là một tôn giáo độc lập. Cũng trong phần trả lời
phỏng vấn này, hòa thượng Thích Thanh Tứ khẳng định: Giáo
hội Phật giáo Việt Nam tôn trọng quá khứ lịch sử của
GHPGVNTN song không chấp nhận việc một số vị mạo xưng
GHPGVNTN dựng lại tổ chức đã gia nhập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam từ năm 1981, thực chất đấy là việc làm hòng chia
rẽ gây mất đoàn kết trong nội bộ Phật giáo và tổn hại
tới lợi ích dân tộc..."</div>
Bài báo đăng trên báo của Đảng mà rất vô văn hóa. Tại sao
dám hỗn xược, gọi xếch mé trống không: Quảng Độ, Huyền
Quang…?
Chưa kể đến sắc hàm trong giáo hội chỉ xét tuổi tác, các
vị đã xứng tuổi cha, tuổi chú không chỉ của người viết
mà cả tổng biên tập, cả chủ tịch Hội Nhà báo, cả
trưởng Ban Tuyên giáo TW Đảng… Nó lú thì còn chú nó phải
biết khôn khi biên tập chứ. Sao các người lăng loàn thế!
Học tập mãi đạo đức Hồ Chí Minh để làm gì? Tốn không
biết bao nhiêu tiền của của nhân dân!
Bài báo muốn làm nhiệm vụ quảng bá một bản cáo trạng
nhằm biện giải cho hành động bạo ngược đối với các vị
Hòa thượng. Nhưng, hãy xét xem ở đây những gì được gán
ghép là tội?
<strong>1-</strong> Tại sao "đích thân Thích Quảng Độ đã
đi phát tiền cứu trợ cho những người khiếu kiện từ một
số tỉnh phía Nam tụ tập về TPHCM" lại bị quy là phạm
pháp nếu không được xem là nghĩa cử cao đẹp đáng được
biểu dương?
Ai cũng biết, do chủ trương chính sách sai lầm của Đảng đã
mở đường cho kẻ chức quyền tạo lập hệ thống mafia tước
đoạt ruộng đất làm cho hàng triệu người bị thiệt thòi,
hàng vạn người khiếu kiện dài ngày hết cấp này đến cấp
khác.
Họ không bị oan thì thuê bạc triệu họ cũng không đời nào
bỏ cửa bỏ nhà đi hàng trăm, hàng ngàn kilomét đến nằm vạ
vật đầu đường cuối phố thật thảm thương. Họ vốn không
phải kẻ xấu, trong đó rất nhiều người đã xả thân cho
Cách mạng, nhiều thương bệnh binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng...
Hòa thượng chỉ đến được một địa điểm: trụ sở Vụ
Công tác phía Nam của Văn phòng Quốc hội tại số 194 Hoàng
Văn Thụ, thành phố Hồ Chí Minh để phát quà "kích động",
vậy tại hàng trăm địa điểm khác rải rác suốt trong nam
ngoài bắc thì ai kích động? Ai kích động ông Đoàn Văn Vươn?
Thật là "ngậm máu phun người", vu oan giáng họa một cách
trâng tráo, độc địa!
<strong>2-</strong> Do đâu nẩy sinh vấn đề "Quảng Độ nhân
danh cái gọi là Viện trưởng Viện Hóa đạo - GHPGVNTN ký, phát
tán rộng rãi trong và ngoài nước hàng chục loại tài liệu có
nội dung đả kích, chống đối chế độ, yêu sách với Nhà
nước đòi phục hồi GHPGVNTN"?.
Trước hết hãy xem có chuyện: "nhân danh cái gọi là" không?
Tổng hội Phật giáo Việt Nam được thành lập từ năm 1951
gồm các thành phần Phật giáo Đại thừa khắp ba miền Bắc,
Trung, Nam. Tuy nhiên, do quy mô phát triển ngày một rộng, ngày 31
tháng 12 năm 1963, một cuộc họp lớn đã được tổ chức tại
chùa Xá Lợi, Sài Gòn nhằm đoàn kết tất cả các tổ chức
Phật giáo dưới một hiến chương chung thành một giáo hội,
lấy tên là Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Thành
phần gồm:
1. Ủy ban Liên phái Phật Giáo: Thượng tọa Thích Tâm Châu
2. Giáo hội Tăng già Miền Bắc: Thượng tọa Thích Tâm Giác
3. Thiền tịnh Ðạo tràng: Thượng tọa Thích Minh Trực
4. Giáo hội Nguyện thủy Việt Nam: Thượng tọa Thích Pháp Tri
5. Giáo hội Theravada: Lục cả Lâm Em
6. Giáo hội Tăng già Miền Bắc tại miền Nam: Thượng tọa
Thích Thanh Thái
7. Giáo hội Tăng già Miền Trung: Thượng tọa Thích Huyền Quang
8. Giáo hội Tăng già Miền Nam: Thượng tọa Thích Thiện Hoa
9. Hội Phật học Miền Nam: cư sĩ Chánh Trí Mai Thọ Truyền
10. Hội Phật giáo Nguyên thủy: cư sĩ Nguyễn Văn Hiếu
11. Hội Phật giáo Miền Trung: Thượng tọa Thích Trí Quang
12. Hội Việt Nam Phật giáo: cư sĩ Vũ Bảo Vinh
13. Ðại diện Phật tử Theravada: cư sĩ Sơn Thái Nguyên
Ở Trung ương, Giáo hội được chia thành hai bộ phận: Viện
Tăng thống trông coi hàng giáo phẩm (có thể coi như ban nội
vụ); Viện Hóa đạo đảm nhiệm liên hệ với Phật tử (tức
ban ngoại vụ).
Ở cấp tỉnh, Giáo hội có Ban Đại diện (đôi khi xuống đến
cấp quận tùy theo nhu cầu).
Ở hải ngoại, Giáo hội có 11 chi bộ trực thuộc Viện Hóa
Đạo gồm các nước Anh, Ấn Độ, Canada, Campuchia, Đức,Lào,
Mỹ, Nhật, Pháp,Thái Lan, Thụy Sĩ.
Sinh hoạt dân sự của Giáo hội là một bước tiến lớn trong
việc hiện đại hóa Phật giáo Việt Nam trong tinh thần nhập
thế. Giáo hội đã thành lập được nhiều cơ quan, nhiều tổ
chức dân sự như: Nha Tuyên úy Phật giáo. Nhà xuất bản Lá
Bối, tuần báo Hải triều âm , tuần báo Chánh Đạo, tuần báo
Thiện mỹ, Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Cao đẳng Phật
học, trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, cùng những trường
trung tiểu học, cô nhi viện, ký nhi viện, bệnh xá, chẩn y
viện ... Về mặt chính trị Giáo hội lập ra "Lực lượng
Phật giáo Việt Nam", một cơ quan thuộc Viện Hóa đạo để
tranh đấu và đề đạt nguyện vọng của Giáo hội với chính
quyền.
Ngày 8 tháng 5 năm 1963, bất chấp lệnh cấm, Phật tử ở Huế
vẫn công khai trương cờ Phật giáo và bị đàn áp. Vụ việc
này đã châm lên ngòi thuốc nổ cho một chuỗi xung đột liên
tục giữa chính quyền và các hội đoàn Phật giáo. Sự kiện
Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn đã gây
chấn động khắp trong và ngoài nước khiến chính phủ Ngô
Đình Diệm bị mất tín nhiệm. Năm tháng sau tổng thống Ngô
Đình Diệm bị giết.
Năm 1965 Hòa thượng Thích Quảng Độ được bầu làm Tổng thư
ký Giáo hội Việt Nam Thống nhất. Tháng 5 năm 1999, tại Đại
hội lần thứ 8 của Giáo hội, Hòa thượng được bầu làm
Viện trưởng Viện Hóa đạo. Sau khi hòa thượng Thích Huyền
Quang viên tịch năm 2008, theo chúc thư để lại, hòa thượng
Thích Quảng Độ đã được chọn làm tăng thống thứ 5 của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
(Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất từ khi thành lập
đến nay đã có năm vị tăng thống:
- Đệ nhất Tăng thống (1964-1973) Hòa thượng Thích Tịnh
Khiết (1890-1973).
- Đệ nhị Tăng thống (1973-1979) Hòa thượng Thích Giác
Nhiên (1878-1979).
- Đệ tam Tăng thống (1979-1991) Hòa thượng Thích Đôn
Hậu (1905-1991).
- Đệ tứ Tăng thống (2003-2008) Hòa thượng Thích Huyền
Quang (1919-2008),
- Đệ ngũ Tăng thống (2011-) Hòa thượng Thích Quảng Độ
(1927 -).
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất là một thực thể có
quy mô thực sự lớn, đã từng có đóng góp xứng đáng cho
đất nước, cho dân tộc. Hòa thượng Thích Quảng Độ đã
được bầu chọn làm một trong các lãnh tụ chính danh của
Giáo hội. Việc ngài đấu tranh đòi tổ chức được duy trì
để tiếp tục phục cho cả đạo lẫn đời là nghĩa vụ
thiêng liêng cao cả mà Giáo hội trao cho Ngài, sao Đảng, Chính
phủ nỡ đàn áp dã man vô lý như vậy!
Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã phỉ báng rất không đúng hòa
thượng Thích Quảng Độ và Gíáo hội Việt Nam Thống nhất.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam của quý ông này thì sánh sao
được với quy mô, tầm cỡ và sức cống hiến cho Đạo, cho
Đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.
<center>* * *</center>
Trên kia đã dẫn mấy bài Tự trào từng gieo vào tâm tư tôi
ấn tượng không đẹp lắm về sa môn Thích Quảng Độ; thực
tế, đây là một người có nhân cách cao vời.
Tuy nương cửa Phật nhưng Ngài vẫn canh cánh bên lòng nỗi
buồn nhân thế:
<em>Non nước nghìn trùng mờ mịt
Cùng ai thao thức những đêm thâu?"
Còn ta nay đã bạc mái đầu
Ngày tháng trơ trơ một khối sầu
Sợ hãi vui mừng như gió thoảng
Nhờ mây nhắn gửi bấy nhiêu câu. </em>
… vẫn nức nở cùng nỗi đau của "muôn vạn người dân vô
tội" vì đi khiếu kiện kêu oan do mất đất, mất nhà, vì
xuống đường phản đối Trung Quốc lấn chiếm Hoàng Sa,
Trường Sa… mà bị đàn áp:
<em>Tôi đứng nhìn những giọt mưa rơi
Từ mái nhà đổ xuống
Lênh láng chan hòa
Trông như những dòng nước mắt của muôn vạn người dân vô
tội
Đã chảy ra
Khi trải qua một cuộc đổi đời</em>
Nỗi đau vì nhân dân còn bị "áp bức đọa đày đời khổ
nhục", và vì "Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm" khiến Hòa
thượng không còn biết có mùa xuân:
<em>Rộn ràng tiếng én báo xuân sang
Lòng tôi nguội lạnh nắm tro tàn
Đạo pháp bao trùm màn ảm đạm
Giang sơn phủ kín lớp màu tang
Áp bức đoạ đày đời khổ nhục
Đói nghèo rách nát kiếp lầm than
Thẫn thờ đứng tựa khung cửa ngục
Nhìn bóng xuân sang mắt lệ tràn.</em>
Trước biển khổ của dân tộc, những giọt nước mắt từ bi
của vị sa môn này đã nhỏ xuống đời và hòa tan trong lòng
biển nước mắt dân tộc; trong đó, một giọt dành cho hình
ảnh dòng máu đỏ tươi phun thẳng tắp lên trời của cha Ngài
bị đấu tố và bắn chết dã man trước đình làng hồi CCRĐ
mà Ngài không thể nguôi quên.
Hoàn toàn không phải Ngài khóc vì tấm thân tù ngục. Ngay trong
tù Ngài vẫn khẳng định "Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt
hồ" kia mà:
<em>Thân ta trong chốn lao tù
Tâm ta vằng vặc trăng thu mặt hồ
Bao trùm khắp cõi hư vô
Lao tù đâu thể nhiễm ô tâm này
Mặc cho thế sự vần xoay
Tâm ta vẫn chẳng chuyển lay được nào</em>
Phải chăng Ngài đang thực hiện lời dạy cuối cùng của Đức
Phật là: "Hãy tự mình thắp đuốc lên, hãy tự mình nương
tựa nơi mình, nương tựa Chính Pháp, chứ đừng nương tựa
vào một nơi nào khác". Bởi vì, nền tảng cơ bản về mặt
tôn giáo của Đức Phật là sự phản tỉnh tự tâm. Dù đối
với lòng mong muốn một cuộc sống vô hạn hay yêu cầu giải
thoát, tất cả đều phát sinh từ nội tâm của ta.
Chẳng những thế, trong tù Ngài vẫn bạn được với Trăng,
thân thiết đến nỗi ngồi lo Trăng ốm kia mà:
<em>Buồn vui ta vốn có nhau
Giờ đây trăng ốm ta đau buồn nhiều
Cùng mang cái kiếp cô liêu
Giữa khung trời lạnh bao nhiêu đêm rồi
Đêm nay tâm sự bồi hồi
Thâu canh không ngủ ta ngồi với trăng </em>
Không chỉ có Trăng, Ngài còn có mây dương lên cánh buồm đưa
tới bến mơ:
<em>Ráng chiều giăng mắc ven trời
Buồm mây một cánh nhẹ trôi lững lờ
Đi tìm nơi đậu bến mơ
Không gian biển rộng cõi bờ mù khơi
Và gió… </em>
Nhưng, khi "Cửa sắt xà lim ngăn gió lại" thì "Cánh gíó
đưa qua lá xạc xào" vẫn làm cho Ngài nghe thấy "Đêm khuya
ai gọi giữa tầng cao" kia mà.
<em>Đêm khuya ai gọi giữa tầng cao?
Cánh gíó đưa qua lá xạc xào
Cửa sắt xà lim ngăn gió lại
Sợ làm ta vỡ cuộc chiêm bao
Cho nên giam hãm tù đầy với Ngài không nghĩa lý gì:
Những lúc trầm tư nếm vị thiền,
Lâng lâng không bợn chút ưu phiền,
Ngục thất dầu sôi thành cam lộ
Lao tù lửa bỏng hóa hồng liên.</em>
Thậm chí đến Thần Chết cũng được Ngài đối xử thân
thiết như là bạn. (Có lẽ Ngài tin chắc chắn rằng đấy
chính là người sẽ đưa Ngài đến cõi Niết Bàn)
<em>Xà lim trông hệt cái nhà mồ
Mỗi lần mở cửa tôi ra vô
Thấy như chôn rồi mà vẫn sống
Tử thần tôi sợ con cóc khô
Tử thần nghe vậy bèn sửng cồ
Nửa đêm đập cửa, tôi mời: dô
Sẵn có thuốc lào phèo mấy khói
Tử thần khoái trá cười hô hô!</em>
Phật giáo không thừa nhận có một đấng "Tạo vật Chủ",
nhất là Nguyên thủy Phật giáo, không thừa nhận một linh hồn
cố định của cá nhân, mà lấy sự kết hợp giữa Thần và
Người làm bản chất. Thuyết nghiệp báo và luân hồi cho
rằng, các loài sinh vật vì cứ luẩn quản trong vòng sinh tử
nên đều có thể là họ hàng, thân thuộc của nhau, trong nhiều
đời kiếp. Tư tưởng thần thoại lại cho rằng trời, thần,
tiên, ma quỷ cho đến các loài ở địa ngục đều là sinh vật
cả. Cho nên hữu tình quan của Đạo đã giúp Ngài mở rộng
được lòng mình với chúng sinh, trời đất.
Gần 200 bài thơ trong hai tập "Thơ tù" và "Thơ lưu đầy"
đậm vị Thiền mà đầy nghĩa khí, mà rất ung dung tự tại,
không bi lụy, không óan trách. Có chăng, Ngài chỉ muốn cảnh
báo bọn bá vương công hầu:
<em>Tranh vương tranh bá với công hầu
Nước chảy tràn sông máu đượm màu
Những tưởng cuộc đời bền vững mãi
Nào ngờ bãi biển hóa nương dâu</em>
Vì chân tu, Hòa thượng thấm nhiễm luật điển của Bà-la-môn
đã quy định: nhiệm vụ của nhà vua là làm công bộc cho quốc
dân, để mưu đồ sự thịnh vượng và công bằng trong nước,
nhân dân phải lựa chọn lấy vua của mình.
Rải rác trong bộ kinh A Hàm có những bộ kinh nổi tiếng như
Vương Pháp Chính Luận kinh (Phật nói cho vua Ưu Ðiền), Giản
Vương kinh, Vương Pháp kinh (Phật nói cho Thắng Quang Thiên Tử),
Ðại Tát Gia Ni Kiền Tử Sở Thuyết kinh (mượn lời Ðại Tát
Gia Ca để nói những điểm chủ yếu về chính trị) … Chính
trị quan Phật Giáo, chứa chất trong các bộ kinh này chủ yếu
là những lời giải đáp của Phật về những câu hỏi của
các nhà chính trị, đặc biệt là các quốc vương,
Sa môn Thích Quảng Độ có làm chính trị cũng chính là do Phật
phán bảo.
Vì đấu tranh cho tự do tôn giáo và cho dân chủ, nhân quyền,
Ngài đã bị nhà chức trách tống tù từ tháng 6 năm 1977. Đến
năm 1982, Ngài cùng thân mẫu bị trục xuất về nguyên quán xã
Vũ Đoài, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình để quản thúc. Mười
năm sau Ngài trở vào Nam hoạt động công khai đòi duy trì Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Tháng 1 năm 1995 Ngài lại
bị Công an thành phố HCM bắt giam, kết án 5 năm tù và 5 năm
quản chế.
Năm 2002 Ngài được nhận giải thưởng vê nhân quyền của tổ
chức Tiệp Khắc People in Need. Năm 2006 chính phủ Na Uy trao giải
nhân quyền. Tháng 1 năm 2008 tạp chí Different View đặt tại
Châu Âu chọn Ngài là một trong 15 người vô địch về nhân
quyền cùng với các tên tuổi như Nelson Mandela, Onsan Suu Kyi, Lech
Walesa ...
Từ 1999 đến nay hòa thượng Thích Quảng Độ liên tục được
đề cử xét tặng giải Nobel Hòa Bình.
Hy vọng vinh quang ấy sẽ đến vời Ngài và cho nhân dân Việt
Nam ngày gần đây.
<em><strong>Rút trong cuốn "ĐÊM DÀY LẤP LÁNH"
Nguyễn Thanh Giang
Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay
Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội
Mobi: 0984 724 165</strong></em>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10422), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét