<div class="special_quote">"...Vấn đề an toàn trong một nhà máy
điện nguyên tử khác hẳn với khái niệm thông thường. Đối
với một nhà máy điện nguyên tử một xác xuất tai nạn một
phần ngàn là điều gớm ghiếc không thể tưởng tượng
nổi..."
</div>
Tôi không phải là một chuyên gia về năng lượng hạt nhân, dù
hoàn cảnh đã khiến tôi tiếp xúc khá lâu, khá sát và đều
đặn với nó. Lúc còn là sinh viên tôi đã hai lần thực tập
tại Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử (Centre d'Etude Nucléaire) của
Pháp, lần thứ hai để hoàn tất luận án tốt nghiệp. Năm
1982, ngay khi trở lại Pháp, tôi được nhận vào làm tham vấn
tại Công Ty Nguyên Tử Pháp Mỹ (Compagnie Franco-Américaine de
l'Atome, FRAMATOME, bây giờ là AREVA). Sau này, và cho đến khi về
hưu, công ty AREVA và Trung Tâm Quốc Gia Năng Lượng Hạt Nhân
(Centre National d'Energie Nucléaire – CNEN), hai cơ quan xây dựng và
điều hành các nhà máy điện nguyên tử của Pháp và cũng xây
dựng nhiều nhà máy điện nguyên tử cho nhiều quốc gia trên
khắp thế giới kể cả Trung Quốc và Hàn Quốc, là hai khách
hàng chính của những công ty tham vấn mà tôi điều khiển. Như
thế tôi không phải là người chống điện hạt nhân trên
nguyên tắc. Tôi coi chấp nhận hoặc từ chối điện nguyên tử
là một chọn lựa tùy lúc và tùy trường hợp của từng
nước. Cũng cần phải nói ngay rằng vấn đề điện hạt nhân
đối với chúng ta trong lúc này không còn là một vấn đề
chuyên môn mà là một vấn đề chính trị, và một vấn đề
chính trị rất nghiêm trọng trên đó mọi người đều có thể
và phải có ý kiến.
Công việc của tôi trong hơn hai mươi năm làm việc với các cơ
quan này không phải là kỹ thuật nguyên tử mà là quản trị
và tin học, tuy vậy nó cũng đã bắt buộc tôi phải trao đổi
thường xuyên với những người trách nhiệm mọi mặt về
việc xây dựng và điều hành một nhà máy điện hạt nhân.
Điều tôi biết được qua những trao đổi này là đối với
một nhà máy điện hạt nhân an ninh là tất cả, những hiểu
biết về vật lý hạt nhân chỉ có một tầm quan trọng rất
thứ yếu. Một thí dụ cụ thể là dự án tin học theo dõi
một nhà máy điện hạt nhân, mà tôi từng là dự án trưởng,
đã phải huy động hơn một trăm kỹ sư tin học, phân tích
viên và lập trình viên trong hơn hai năm để thực hiện. Nhiều
người coi nó như một con quái vật không lồ. Nhưng sở dĩ nó
phức tạp như thế là vì những dữ kiện về an ninh; chúng
chiếm 90% cơ sở dữ kiện và liên hệ tròng chéo với nhau.
Vấn đề an toàn trong một nhà máy điện nguyên tử khác hẳn
với khái niệm thông thường về sự an toàn. Một chiếc xe hơi
được coi là an toàn nếu xác xuất để xảy ra một sự cố
là một phần mười trong một năm. Đối với một nhà máy
điện nguyên tử một xác xuất tai nạn một phần ngàn là
điều gớm ghiếc không thể tưởng tượng nổi. Lý do là vì
những hậu quả của một tại nạn hạt nhân có thể rất
khủng khiếp, vượt mọi tưởng tượng; nó có thể làm chết
rất nhiều người, hủy họai môi trường trong một thời gian
rất lâu và để lại những di hại thể xác cũng như tinh thần
cho nhiều thế hệ. Một thí dụ là vụ nổ nhà máy điện
nguyên tử Chernobyl ở Ukraine. Nhà máy này được thiết lập ở
một vùng rất ít dân cư, nhưng tai nạn đã khiến hơn 4000
người bị ung thư trong đó phần lớn đã chết. Đó là chưa
kể số nạn nhân ở những nước lân cận. Người ta đã phải
tản cư trên 100.000 người khỏi một khu vực 30Km chung quanh nhà
máy. Nếu kể cả những người phải di tản ở các nước láng
giềng thì con số người phải di tản vượt quá 250.000. Cho
tới nay, 26 năm sau tai nạn, mức phóng xạ vẫn cao gấp 30 lần
mức độ chấp nhận được. Hãy tưởng tượng nếu một tai
nạn tương tự xảy ra tại một nước dân cư chen chúc như
Việt Nam.
Đặc tính của những tai nạn tại các nhà máy điện hạt nhân
là chúng đều không ngờ. Fukushima nhắc lại cho thế giới
thêm một lần nữa bài học khiêm tốn: chúng ta không bao giờ
có thể tiên liệu được hết những nguyên nhân đưa đến tai
nạn. Nhật là nước nhiều kinh nghiệm nhất về động đất
và sóng thần đồng thời cũng là nước đứng hàng đầu thế
giới về sự chính xác; tuy vậy nhà máy điện hạt nhân
Fukushima Daiichi đã chỉ được xây dựng để chịu đựng một
ngọn sóng cao 6m trong khi ngọn sóng tháng 3 năm 2011 đã cao 15m
tại khu vực nhà máy và gần 30m tại một số địa điểm
khác. Các lò phản ứng theo nhau phát nổ và mức độ trầm
trọng được đánh giá lại liên tục, sau cùng là mức độ 7,
nghĩa là tối đa. Hậu quả của tại họa nguyên tử Fukushima
vẫn chưa thể thẩm định được. Điều chắc chắn là thảm
kịch sẽ nhiều lần lớn hơn, thậm chí rất kinh khủng, nếu
người Nhật không chứng tỏ một khả năng tổ chức, một tinh
thần kỷ luật và một sự dũng cảm buộc cả thế giới phải
ngưỡng mộ. Hay nếu họ không có những phương tiện cấp cứu
của một nước giàu có bậc nhất thế giới. Hãy thử tưởng
tượng nếu, vì bất cứ lý do gì, một tai nạn tương tự xảy
ra tại Việt Nam. Các tỉnh bờ biển của chúng ta đều chen
chúc hơn vùng Fukushima, chúng ta không có những phương tiện
của người Nhật và cũng thua xa họ về kỷ luật và tinh thần
trách nhiệm.
Xác xuất rủi ro xảy ra tai nạn quan trọng hiện nay được
ước tính chung quanh mức độ 5/100.000 mỗi năm cho một lò
điện nguyên tử. Xác xuất này được coi là quá lớn vì thế
hầu hết các quốc gia đều quyết định không dùng điện hạt
nhân, số ít các quốc gia chấp nhận điện hạt nhân đều
chỉ đi những bước rón rén. Ấn Độ và Trung Quốc là hai
quốc gia ít quan tâm đến môi trường nhưng họ cũng đều rất
dè dặt đối với điện hạt nhân. Cả hai đều đã bắt đầu
kỹ thuật hạt nhân từ hơn một nửa thế kỷ nay và đều có
đội ngũ kỹ thuật nguyên tử hùng hậu nhưng tới nay tỷ lệ
điện hạt nhân của họ chỉ ở mức độ 2% tổng số điện
sản xuất. Ấn Độ đã bắt đầu xây nhà máy điện hạt nhân
từ 1965 nhưng đến nay chỉ mới dám xây những lò phản ứng
nhỏ, hai lò phản ứng công xuất 500 Mwe và 18 lò công xuất 200
MWe. Trung Quốc trong những năm gần đây tỏ ra muốn đẩy mạnh
năng lượng hạt nhân nhưng trong hai mươi năm nữa tỷ lệ
điện hạt nhân của họ cũng sẽ không vượt quá 5%. Sau tai
nạn Fukushima tất cả các nước phát triển có kỹ thuật hạt
nhân cao và hầu hết mọi quốc gia trên thế giới, kể cả Ấn
Độ và Trung Quốc, đều đình chỉ các chương trình xây dựng
lò điện nguyên tử, nhiều nước tuyên bố bỏ hẳn. Áo bỏ
một nhà máy điện nguyên tử đã xây dựng xong và sẵn sàng
đi vào hoạt động. Ba Lan, Ireland và Philippines bỏ ngang những
nhà máy đang xây dựng dở dang. Riêng Úc, nước có trữ lượng
uranium lớn nhất thế giới, từ trước vẫn quả quyết từ
chối điện hạt nhân.
Trong bối cảnh đó quyết định nhảy vào điện nguyên tử
của chính quyền Việt Nam thật là không hiểu nổi, nhất là
Việt Nam chưa có kỹ thuật và đội ngũ chuyên viên nguyên tử
(Viện Nghiên Cứu Hạt Nhân Đà Lạt còn quá sơ sài, các cơ
quan khác còn ít thực chất hơn). Đã thế còn nhảy vào một
cách liều mạng.
Năm 2008 chính quyền Việt Nam tuyên bố quyết định xây dựng
hai nhà máy điện nguyên tử tại Ninh Thuận, mỗi nhà máy gồm
hai lò phản ứng với công suất 1000 MWe, dự trù đi vào hoạt
động năm 2020. Quyết định này khiến người ta phải sững
sờ. Như vậy là Việt Nam vào năm 2020 sẽ có một tỷ lệ
điện nguyên tử lớn hơn hẳn Ấn Độ và Trung Quốc. Thời
gian từ đây đến đó chắc chắn là không đủ để đào tạo
ra những chuyên viên đủ khả năng để điều hành các nhà
máy. Như để tranh thủ thời gian công thức được chọn lựa
là công thức "chìa khóa trao tay" có nghĩa các nhà máy sẽ hoàn
toàn do các công ty nước ngoài xây dựng, Việt Nam chỉ tiếp
thu để sử dụng khi nhà máy đã hoàn tất. Đây là công thức
mà cho tới nay chưa nước nào chấp nhận vì hầu như không có
chuyển giao kỹ thuật và lại rất nguy hiểm. Vấn đề an ninh
của các nhà máy điện nguyên tử vừa quá nghiêm trọng lại
vừa quá phức tạp nên phải tham gia chặt chẽ ngay từ đầu
vào việc xây dựng nhà máy để hiểu rõ cấu trúc và cách
điều hành. Cho tới nay phần lớn các sự cố xảy ra tại các
nhà máy điện hạt nhân là do lỗi của các nhân viên điều
hành. Ngay cả nếu quyết tâm chọn năng lương hạt nhân thì
cũng không thể hành động một cách quá phiêu lưu. Giải pháp
đúng đắn trong trường hợp đó là bắt đầu xây một lò
phản ứng thôi và tham gia từ đầu tới cuối tiến trình xây
dựng để hiểu rõ từng bộ phận của nhà máy; chỉ sau khi
đã thực sự làm chủ được kỹ thuật điện nguyên tử và
đào tạo xong một đội ngũ chuyên viên vững chắc mới xây
tiếp các lò phản ứng khác. Và đàng nào cũng phải tiến hành
một cách rất chậm chạp và thận trọng vì tai nạn nguyên tử
quá khủng khiếp. An ninh của các lò điện nguyên tử là điều
mỗi nước phải lo lấy chứ không thể giao tính mạng của
đất nước mình cho những công ty nước ngoài.
Quyết định của chính quyền cộng sản không đi kèm với một
lời giải thích kỹ thuật nào, bởi vì nó không phải là kết
quả của một nghiên cứu nghiêm chỉnh mà chỉ là quyết định
tùy tiện của những người cầm quyền hoàn toàn không biết
gì về kỹ thuật hạt nhân.
Quyết định này càng gây sửng sốt vì công ty được chọn
để xây nhà máy điện nguyên tử đầu tiên cho Việt Nam là
công ty ROSATOM của Nga. Có đầy rẫy tài liệu chứng minh Nga là
nước cẩu thả nhất về mặt an ninh trong những nước xây
dựng lò điện nguyên tử. Hơn nữa công ty ROSATOM lại bị mang
tai tiếng là đã gian lận về phẩm chất vật liệu xây dựng,
một điều không thể tưởng tượng nổi cho một lò điện
nguyên tử. Ai có thể không hoảng sợ khi nghĩ rằng nhà máy
điện nguyên tử đầu tiên của Việt Nam sẽ được xây dựng
bởi một công ty làm ăn gian trá của một nước nổi tiếng là
cẩu thả và được trao cho những người Việt Nam mới tập
sự điều khiển? Nhất là cũng phải nhìn nhận một sự thực
đau lòng là với sự xuống cấp của đạo đức không phải
người Việt Nam nào cũng có tinh thần trách nhiệm cao. Một ông
thứ trưởng tuyên bố thản nhiên: "đã xây một lò điện
nguyên tử tại sao không xây luôn bốn lò cho tiện". Hình như
các cấp lãnh đạo cộng sản không ý thức rằng nguyên tử là
vũ khí giết người hàng loạt, giết cả những người hôm nay
lẫn những người chưa sinh ra, thậm chí có thể xóa bỏ một
quốc gia.
Nhiều người có thẩm quyền chuyên môn, như các giáo sư Phạm
Duy Hiển, Trần Sơn Lâm và Nguyễn Khắc Nhẫn, đã lên tiếng
ngay sau đó. Có vị dứt khoát bác bỏ điện hạt nhân, có vị
cho rằng chỉ nên xây một lò phản ứng để học hỏi và đào
tạo trước đã. Như để hỗ trợ cho những tiếng nói cảnh
giác này tai họa Fukushima đã xảy ra làm chấn động cả thế
giới. Ai không nghĩ rằng nhà cầm quyền Việt Nam sẽ nghĩ
lại?
Và quả thực họ đã xét lại, nhưng một cách không ai ngờ
được. Ngay trong dịp kỷ niệm một năm thảm kịch Fukushima
họ công bố quyết định xây thêm mười lò điện khác dự
trù hoàn tất và đi vào hoạt động trước năm 2030, nghĩa là
tổng cộng 14 lò thay vì 4 lò! Khi một người bạn, chuyên gia
về điện hạt nhân, hốt hoảng thông báo tin này tôi không dám
tin. Nó giống như tin một trái bom nguyên tử vừa nổ. Nó buộc
chúng ta tự hỏi chúng ta đã ý thức đầy đủ những bắt
buộc của kỷ nguyên tri thức chưa? Tri thức trong thế giới
ngày nay chủ yếu là tri thức khoa học kỹ thuật; không thể
chấp nhận những người lãnh đạo thiếu văn hóa, nhất là
văn hóa khoa học.
Xác xuất 5/100.000 cho một tai nạn nghiêm trọng trong một năm
tại mỗi lò phản ứng chỉ là một xác xuất trung bình. Đối
với một nước thiếu phương tiện và kỹ năng như Việt Nam
nó cao hơn nhiều. Với bốn lò phản ứng nó cao một cách đáng
sợ. Với 14 lò một tai nạn tầm cỡ Chernobyl hay Fukushima là
một đe dọa thường trực và nếu xảy ra hậu quả sẽ rất
khủng khiếp, Việt Nam có thể sẽ không còn là Việt Nam nữa.
Cũng phải hiểu là một sự cố nhỏ có thể khắc phục nhanh
chóng tại một nước như Nhật và Pháp cũng có nguy cơ trở
thành một tai nạn lớn tại một nước như Việt Nam.
Nhưng cứ giả thử chứng ta sẽ rất may mắn, phải nhấn mạnh
là rất may mắn, không bị tai nạn thì hậu quả cũng rất năng
nề.
Trước hết Việt Nam sẽ là một đất nước không an toàn.
Mọi người đều phập phồng lo sợ không biết lúc nào thảm
kịch sẽ đến. Những người có thể rời bỏ Việt Nam để
đi sống ở một nước khác sẽ ra đi. Việt Nam sẽ không có
tương lai bởi vì không thể xây dựng một quốc gia với những
người chỉ ở lại vì không thể đi sang một nước khác.
Một tiềm năng kính tế lớn của Việt Nam sẽ bị thiệt hại
nặng. Với một bờ biển dài và những bãi biển đẹp trong
một khí hậu nhiệt đới chúng ta có thể hy vọng trong trung
hạn thu hút vài chục triệu du khách mỗi năm tạo hàng triệu
công ăn việc làm trong ngành du lịch và những ngành liên hệ.
Khả năng này sẽ gần như mất hẳn với 14 lò phản ứng
nguyên tử rải rác khắp nước. Đúng hay sai, tâm lý chung là
người ta không muốn nghỉ hè bên cạnh các lò điện nguyên
tử.
Thủy sản của Việt Nam cũng sẽ bị đe dọa. Có một thành
kiến là các nước chậm tiến không coi trọng an ninh môi
trường và không có gì bảo đảm là nước không bị nhiễm
xạ. Đúng hay sai người ta sẽ sợ tôm cá Việt Nam.
Một điều quan trọng cũng cần được ý thức là chúng ta sẽ
không còn khả năng đương đầu với một cuộc chiến tranh
chống ngoại xâm qui mô. Đối phương chỉ cần oanh tạc các lò
điện nguyên tử.
Một người bạn tôi, bác sĩ chuyên khoa về dưỡng lão, có
lần nói rằng Việt Nam nên nghiên cứu khả năng mở những nhà
săn sóc người cao tuổi. Anh ta nói tại Mỹ và Châu Âu chi phí
trung bình để săn sóc một người cao tuổi có bảo hiểm sức
khỏe là 50.000 USD mỗi năm. Chúng ta có thể săn sóc họ một
cách chu đáo và tiện nghi hơn với chi phí chỉ bằng một nửa.
Chúng ta sẽ thu hút được rất nhiều khách, cả những người
già lẫn những người chưa thực là già nhưng muốn được
phục vụ để khỏi phải bận bịu với những việc hàng ngày
như cơm nước, giặt ủi, di chuyển. Đó là một thí dụ.
Những khả năng như vậy sẽ mất đi nếu nước ta đầy những
lò điện nguyên tử.
Nhưng tại sao chọn điện hạt nhân?
Trái với một lập luận thường gặp điện hạt nhân không
phải là một chọn lựa bắt buộc hướng về tương lai. Tỷ
lệ điện hạt nhân trên thế giới chỉ mới sấp sỉ 14% tổng
số năng lượng điện (và 3% tổng số năng lượng gộp).
Những tỷ lệ này sẽ tiếp tục giảm đi vì khuynh hướng chung
của thế giới là từ giã điện hạt nhân. Lập luận chính
biện hộ cho điện nguyên tử là phải tìm một giải pháp thay
thế cho khối dự trữ năng lượng mỏ (than, dầu, khí) đang
chiếm 80% năng lượng gộp và đang cạn dần. Lập luận này
ngày càng thiếu thuyết phục vì muốn như thế phải nhân lên
hơn 25 lần số lò phản ứng hiện nay, một con số khiến
người ta phải kinh hoàng sau những tai nạn đã xảy ra. Và
đàng nào cũng không thực hiện được bởi vì, trái với sự
lạc quan lúc ban đầu, khối lượng uranium cũng rất giới hạn
và ngày càng đắt. Thế giới ngày càng tiến tới đồng thuận
là phải tiết kiệm năng lượng song song với việc tận dụng
những nguồn năng lượng có mãi (renewable energy, thường được
dịch sang tiếng Việt là năng lượng tái tạo) như gió, nắng,
thủy triều, các dòng sông v.v.).
Cũng đừng quên là năng lượng nguyên tử vẫn còn là một hò
hẹn sai với tương lai. Trong vấn đề an ninh của các nhà máy
điện nguyên tử không phải chỉ có cố gắng tránh tai nạn mà
còn một vấn đề nghiêm trọng không kém là xử lý phế liệu.
Trong những thập niên 1950 và 1960, khi chương trình điện nguyên
tử được đưa ra người ta tin chắc như đinh đóng cột là
một ngày không xa sẽ tìm được cách xử lý ổn thỏa phế
liệu nguyên tử. Đến nay, sau hơn một nửa thế kỷ phương
thức vẫn chưa tìm được và giải pháp vẫn chỉ là bọc lại
và đem chôn. Rà chờ đợi vài ngàn năm cho đến khi phóng xạ
xuống tới mức chấp nhận được. Đất nước ta chật hẹp
như vậy, chúng ta sẽ chôn phế liệu nguyên tử ở đâu và
chuyên chở như thế nào cho an toàn?
Như đã nói ở phần trên, tôi không chống điện nguyên tử
trên nguyên tắc. Điện nguyên tử vẫn là một nguồn trong
nhiều nguồn năng lượng, dù chỉ nên quan niệm ở một tỷ
lệ khiêm tốn. Điện hạt nhân rẻ và sạch nếu không xảy ra
tai nạn. Dù chữ nếu này quá lớn nhiều người vẫn nghĩ
rằng chấp nhận hay không chấp nhận có điện hạt nhân tùy
thuộc điều kiện của từng nước. Chúng ta là một nước
đất hẹp người đông không thích hợp với điện nguyên tử.
Chúng ta lại chưa có kỹ năng và nhân lực hạt nhân trong khi an
ninh nguyên tử là một vấn đề các quốc gia phải đảm nhiệm
lấy chứ không thể giao phó sự sống còn của đất nước cho
những công ty nước ngoài. Xây lò điện nguyên tử vì vậy
chỉ có thể khởi sự khi chúng ta đã đủ kỹ năng và nhân
lực hạt nhân, điều mà chúng ta hầu như chưa có. Hơn nữa
chúng ta nhiều gió và nắng, tiềm năng năng lượng của chúng
ta chủ yếu là năng lượng có mãi. Sau cùng, ngay cả nếu chúng
ta không loại bỏ hẳn điện hạt nhân thì cũng chưa phải là
lúc để xây bốn lò điện nguyên tử, chưa nói 14 lò, một
quyết định điên khùng vượt mọi tưởng tượng.
Còn một vấn đề nghiêm trọng khác. Thế giới đang từ giã
điện hạt nhân. Các công ty xây dựng nhà máy điện hạt nhân
ngày càng gặp khó khăn lớn vì không còn thị trường. Công ty
AREVA của Pháp chẳng hạn đã bắt đầu chuyển sang sản xuất
những thiết bị cho năng luợng gió. Và nếu những công ty xây
dựng nhà máy điện nguyên tử cho chúng ta phá sản, một điều
rất có thể xảy ra, chúng ta sẽ rơi vào một tình trạng hết
sức nguy kịch.
Nhưng tại sao chính quyền cộng sản Việt Nam lại lấy quyết
định như thế?
Đây không phải là một tranh luận kỹ thuật. Họ thừa biết
rằng xây 14 lò phản ứng là một quyết định rất bất lợi
và nguy hiểm cho đất nước. Nhưng tại sao họ lấy quyết
định này? Giả thuyết hợp lý nhất là họ đã nhượng bộ
những áp lực tài chính của các chủ nợ. Chính quyền cộng
sản lấy quyết định liều lĩnh vì họ cần che dấu thực
trạng bi đát của kinh tế Việt Nam.
Một chỉ số đo lường mức độ lệ thuộc bên ngoài của
một nền kinh tế là tỷ lệ tổng số ngoại thương trên tổng
sản lượng quốc gia. Trung bình thế giới hiện nay là 50%,
nghĩa là trong một quốc gia tổng số ngoại thương (xuất khẩu
cộng với nhập khẩu) bằng khoảng 50% GDP là bình thường.
Trong trường hợp Hoa Kỳ tỷ lệ này chỉ là 25%, Trung Quốc
52%. Tại Đức tỷ lệ này là 75%, tại Hàn Quốc 92%, nhưng
Đức và Hàn Quốc là hai nước có nền kinh tế hướng ngoại
nhất thế giới. Nhật (27%) là một trường hợp đặc biệt vì
các công ty lớn của Nhật sản xuất một phần quan trọng hàng
hóa ngay tại nước ngoài. Các nước mới phát triển tại Châu
Á dĩ nhiên lệ thuộc rất nhiều vào ngoại thương; tỷ lệ
của Thái Lan là 120%, của Mã Lai là 148%. Nói chung các nước
trao đổi nhiều với thế giới bên ngoài đều xuất khẩu
nhiều hơn nhập khẩu.
Kinh tế Việt Nam bệnh hoạn hơn hẳn người ta tưởng. Tổng
số ngoại thương của Việt Nam bằng 167% GDP. Điều này tự nó
đã có nghĩa là chúng ta là một trong những nước lệ thuộc
nhất vào các nước ngoài về mặt kinh tế, nhưng sự thực
còn đáng lo ngại hơn vì cán cân ngoại thương của chúng ta
thâm thủng kinh niên. Chúng ta nhập khẩu nhiều hơn hẳn xuất
khẩu từ hơn 25 năm qua. Từ 5 năm qua, khi chính quyền nói rằng
kinh tế đã có tiến bộ, Việt Nam liên tục nhập siêu khoảng
13 tỷ tỷ USD mỗi năm, năm 2008 nhập siêu 18 tỷ, những năm
trước có thể còn tệ hơn. Như vậy con số nợ công (phần
lớn là nợ nước ngoài) 56 tỷ USD, hay 51% GDP, phải được coi
là rất xa sự thực. Thâm thủng mậu dịch sớm muộn cũng
biến thành nợ nước ngoài. Phần lớn là nợ do các công ty vay
hoặc mua chịu nhưng các phần lớn các công ty này là của nhà
nước và khoàn nợ nước ngoài của họ đều do nhà nước
bảo lãnh cho nên khi một công ty, như tổ hợp Vinashin, không
trả được nợ thì nợ của họ cũng biến thành nợ công. Như
vậy chắc chắn là số nợ nước ngoài của Việt Nam nước
ngoài phải rất cao, có thể hơn 200 tỷ USD, và nhiều khoản
đã đáo hạn, thậm chí đã khất nhiều lần. Nếu các chủ
nợ nhất định đòi thì chính quyền Việt Nam phải tuyên bố
không còn khả năng hoàn trả, nghĩa là phá sản, và chính
quyền có thể sụp đổ. Chính quyền cộng sản Việt Nam vì
vậy phải chấp nhận ngay cả những đòi hỏi, hoặc "gợi
ý", nguy hiểm cho đất nước để có thể che dấu thực
trạng phá sản.
Trở lại với quyết định xây dựng 14 lò điện nguyên tử.
Từ sau Fukushima mọi nước đều quyết định ngừng hoặc bỏ
hẳn các dư án. Các công ty xây dựng nhà máy điện nguyên tử
vì vậy đều ở trong tình trạng nguy ngập. Họ không còn công
việc nữa và cần một thời gian để thích nghi với tình
huống mới. Các chính quyền nước họ cũng sợ những biến
động xã hội nếu các công ty này phải sa thải công nhân hàng
loạt ngay lập tức. Trong những điều kiện đó không có gì
đáng ngạc nhiên nếu các chính quyền nước ngoài và các công
ty xây dựng nhà máy điện hạt nhân của họ làm áp lực để
Việt Nam chấp nhận xây những lò điện nguyên tử, nghĩa là
cho họ những bầu dưỡng khí tạm. Và chính quyền cộng sản
Việt Nam đã phải nhượng bộ để tự cứu mình.
Nếu giả thuyết này đúng, và nó chỉ có thể đúng thôi vì
không thể có giải thích nào khác cho quyết định quá sức nguy
hại này, thì đây là một lần nữa Đảng Cộng Sản Việt Nam
đặt sự sống còn của chế độ lên trên sự sống còn của
đất nước. Chỉ khác một điều là lần này đất nước có
nguy cơ bị hủy diệt hoặc tàn lụi một cách không đảo
ngược được. Vấn đề còn nghiêm trọng hơn nhiều so với
ải Nam Quan, thác Bản Giốc, Hoàng Sa, Trường Sa, Bôxit Tây
Nguyên. Chúng ta không có quyền thụ động. Chúng ta phải phản
ứng và phải phản ứng thật mạnh mẽ và quyết liệt.
Có thể là chính quyền cộng sản cũng mong có một làn sóng
phản kháng dữ dội để có cớ trì hoãn với các chủ nợ.
Mặt khác cũng chưa quá trễ để phản ứng. Các lò điện chưa
bắt đầu xây, phần lớn chỉ khởi sự trong vài năm nữa.
Chúng ta còn thời giờ.
Điện hạt nhân là một vấn đề mang nhiều tính khoa học kỹ
thuật mà quần chúng có thể không hiểu do đó trách nhiệm
chính trong cuộc đấu tranh này thuộc về trí thức. Trí thức
Việt Nam cho tới nay đã quá nhu nhược nhưng lần này họ không
có quyền nhu nhược.
Nguyễn Gia Kiểng
(tháng 4/2012)
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12375), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét