Giáp Văn Dương - Trả lời câu hỏi: Trí thức là gì?

Trí thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ, truyền bá những
giá trị phổ quát của nhân loại và sử dụng chúng như những
trung giới trong các quá trình vận động biện chứng nhằm thúc
đẩy sự tiến bộ của xã hội. Với quan niệm đó, khái niệm
trí thức chỉ có ý nghĩa khi xem xét dưới lăng kính xã hội,
và người trí thức chỉ thực sự xuất lộ khi sử dụng các
đặc trưng cơ bản của mình: tri thức chuyên môn, khả năng
cảnh báo và định chuẩn, để thực hiện vai trò xã hội của
chính mình.

"Trí thức là gì?" là vấn đề gây tranh cãi từ lâu. Cho
đến nay, vẫn chưa có câu trả lời thuyết phục. Bằng chứng
của điều này là hiện có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về trí thức đang tồn tại song hành, như: trí thức là
người lao động trí óc, trí thức là người có học, trí
thức là người khám phá và truyền bá tri thức, trí thức là
người tích cực tham gia phản biện xã hội, trí thức là
người dẫn dắt xã hội, trí thức là lương tâm của xã hội,
trí thức là người không để cho xã hội ngủ v.v… Thậm chí,
triết gia người Pháp Jean-Paul Sartre còn đưa ra một định
nghĩa tuy bề ngoài có vẻ hài hước, nhưng rất khó bác bỏ:
trí thức là người thích làm những việc chẳng phải của
mình!

Chính vì vậy, việc tìm một định nghĩa đúng và khả dụng
về trí thức, là một một điều cần thiết. Điều này cần
bắt đầu từ việc lần lại thời điểm sớm nhất mà khái
niệm trí thức có thể được hình thành.

<h2>Đặc phẩm của xã hội</h2>

Ngược dòng lịch sử, thấy rằng: khi con người còn ở giai
đoạn săn bắt hái lượm thì chắc chắn khái niệm trí thức
chưa xuất hiện. Lý do là trong hoàn cảnh đó, một khái niệm
như vậy là hoàn toàn vô nghĩa. Khi chỉ cần với tay thu lượm
các sản phẩm của tự nhiên để phục vụ cuộc sống còn
nặng bản năng tự nhiên, theo kiểu tự cấp tự túc, người ta
chỉ quan tâm đến những thứ có thể ăn được còn hay hết,
chứ không quan trọng việc có trí thức hay không trí thức.

Điều đó dẫn đến một nhận định: thời điểm sớm nhất
để hình mẫu, và do đó là khái niệm, về trí thức xuất
hiện là khi loài người rời bỏ đời sống săn bắt hái
lượm để tập hợp thành xã hội với cấu trúc tương đối
chặt chẽ, khởi đầu bởi việc phát minh ra nông nghiệp,
khoảng 8000-3500 năm trước công nguyên, và sau đó là chuyển
vào sống trong các đô thị, không phải bởi trào lưu đô thị
hóa thời hiện đại, mà ngay sau khi nông nghiệp đã tương
đối phát triển, khoảng 3500-800 năm trước công nguyên.

Việc phát minh ra nông nghiệp đòi hỏi phải thuần hóa một
số giống cây trồng và động vật. Còn việc chuyển vào sống
trong các đô thị đòi hỏi những kỹ năng tổ chức và dịch
vụ cao cấp hơn đời sống nông nghiệp, khi những người sống
trong đô thị không trực tiếp sản xuất ra thực phẩm. Đây
chính là môi trường thuận lợi để những loại hình lao
động mới, và do đó là các giai tầng mới ra đời, trong đó
có trí thức.

Nhận định này cho thấy, hình mẫu và khái niệm về trí thức
chỉ có thể xuất hiện khi xã hội với một cấu trúc chặt
chẽ được hình thành, tức là khi con người rởi bỏ đời
sống hoang dã để tập hợp lại với nhau, hình thành nên
những cộng đồng người, trong đó các cá nhân tương tác với
nhau theo những qui định và nghi thức được cả cộng đồng
thừa nhận, dù là thành văn hay ngầm định. Nói cách khác, trí
thức là một sản phẩm đặc biệt của xã hội.

Điều này cũng cho thấy, việc chọn ra một mốc thời gian cụ
thể, gắn với một sự kiện cụ thể trong thời cận đại
hoặc hiện đại, như ra đời của bản kháng nghị năm 1906
–sau đó được thủ tướng Pháp Clemenceau gọi là Tuyên ngôn
của trí thức - nhằm chống lại một bản án oan sai trong
"sự kiện Dreyfuss", do nhà văn Pháp Émile Zola ký tên đầu,
làm thời điểm ra đời của khái niệm trí thức là không
chính xác. Hình mẫu về người trí thức, và do đó là khái
niệm trí thức, chắc chắn phải xuất hiện sớm hơn thế rất
nhiều, khi xã hội có cấu trúc chặt chẽ được hình thành.
Tuy nhiên, tiêu chí để xác định "trí thức là gì?" sẽ
phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể, và thay đổi theo
sự phát triển của xã hội.

Vì thế, việc tra cứu các văn bản có chữ "trí thức" sẽ
không giúp nhiều cho việc làm rõ nội hàm của khái niệm trí
thức. Thay vào đó, cần đi vào tìm hiểu những đặc trưng
chính của người trí thức, đặc biệt ở thời hiện đại,
thông qua phân tích công việc và vai trò của họ đối với xã
hội, mới có hy vọng trả lời một cách rốt ráo câu hỏi:
Trí thức là gì?

<h2>Phân công lao động</h2>

Đã là con người, dù muốn hay không, trước hết phải đáp
ứng được những nhu cầu sinh học tối thiểu của mình như
ăn, uống, ở, mặc… Nếu như ở thời săn bắt hái lượm,
những nhu cầu này được đáp ứng theo kiểu "tự cung tự
cấp", tức mỗi cá nhân phải tự lo cho mình, thì trong đời
sống nông nghiệp và đặc biệt là đô thị, các nhu cầu này
được đáp ứng không chỉ bởi kiểu "tự cấp tự túc",
mà còn bởi các dịch vụ trao đổi phức tạp.

Cấu trúc chặt chẽ của xã hội và sự tương tác giữa các
thành phần của nó cũng đã làm nảy sinh nhiều nhu cầu khác so
với nhu cầu sinh lý thuần túy, như các nhu cầu về giải trí,
nghệ thuật, sinh hoạt tinh thần, nghi lễ tôn giáo… Việc đáp
ứng những nhu cầu này đòi hỏi những kỹ năng và kiến thức
chuyên biệt, cần được học hỏi và tích lũy trong một
khoảng thời gian nhất định, nên không phải cá nhân nào cũng
có thể làm được.

Đây chính là cơ sở cho việc hình thành sự phân công lao
động, và như một hệ quả, là mảnh đất sống cho những
tầng lớp mới có khả năng đáp ứng các nhu cầu cơ bản của
mình không thông qua sản xuất trực tiếp. Đặc điểm chung
của họ là sử dụng lao động trí óc nhiều hơn lao động
chân tay trong việc tạo ra sản phẩm; và sản phẩm của họ
cũng không mang tính "tự cấp tự túc", tức không thể dùng
để đáp ứng trực tiếp các nhu cầu sinh học tối thiểu, mà
dùng để trao đổi với người khác, dưới dạng hàng hóa
hoặc dịch vụ.

Ở thuở ban đầu, có thể hình dung công việc này liên quan
đến các hoạt động văn hóa, giả trí, nghi lễ, tôn giáo,
quản lý cộng đồng… Nói chung là liên quan đến các hoạt
động tinh thần của con người và tương tác giữa người này
với người khác trong xã hội. Đây là sự rẽ nhánh lần thứ
nhất trong quá trình phân công lao động.

Theo thời gian, xã hội càng phát triển và càng phức tạp,
việc đáp ứng những nhu cầu này đòi hỏi những kiến thức
và kỹ năng càng chuyên biệt hơn nữa, cần nhiều thời gian và
năng lượng hơn nữa, nên không một cá nhân nào có thể đáp
ứng được tất cả những yêu cầu này, mà cần chuyên chú
vào một hoặc một nhóm kỹ năng chuyên biệt. Tầng lớp lao
động gián tiếp được phân chia thành nhiều dạng khác nhau
tùy theo đặc thù của công việc, chẳng hạn: nghệ sĩ đáp
ứng các nhu cầu giải trí, luật sư đáp ứng nhu cầu giải
quyết tranh chấp của các cá nhân và tổ chức, bác sĩ chăm
sóc sức khỏe cộng đồng, giáo viên đáp ứng nhu cầu giáo
dục thanh thiếu niên, chính trị gia đáp ứng nhu cầu quản
trị xã hội… Đây chính là sự rẽ nhánh thứ hai trong quá
trình phân công lao động.

Trong lần rẽ nhánh này, các thể loại công việc đã đa dạng
hơn rất nhiều so với trước đây, nên tầng lớp lao động
gián tiếp cũng trở nên phong phú hơn nhiều. Tuy nhiên, cũng
giống như sự rẽ nhánh lần thứ nhất, mẫu số chung trong lao
động của họ vẫn là phần lao động trí óc nhiều và quan
trọng hơn phần lao động chân tay. Đặc biệt, trong số những
người lao động trí óc, có một nhóm nhỏ tập trung vào việc
thu thập và xử lý thông tin; phân loại và hệ thống hóa thông
tin để hình thành tri thức; sử dụng tri thức để đào tạo
người khác, hoặc ứng dụng cho những công việc cụ thể khác
nhau… Nói gọn là khám phá, truyền bá và sử dụng tri thức.

Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, khối
lượng tri thức này ngày càng nhiều và càng chuyên biệt hóa.
Kết hợp với sự công nghiệp hóa và sản xuất đại trà, và
sau đó là sự ra đời của công nghệ thông tin, tri thức ngày
càng trở lên quan trọng. Trong nhiều lĩnh vực kinh tế và dịch
vụ, tri thức đã trở thành đồng thời là lực lượng sản
xuất và hàng hóa trao đổi chính. Vì thế, ai nắm được tri
thức, người đó có sức mạnh.

Chính nhờ việc nắm được sức mạnh này, một dạng sức
mạnh mới mẻ hoàn toàn so với sức mạnh cơ bắp, những
người lao động trí óc này trở nên có vai trò quan trọng trong
xã hội. Nhiều người gọi họ là trí thức. Tuy nhiên, việc
đồng nhất hoạt động của trí thức với lao động trí óc,
và vai trò của họ với việc khám phá, truyền bá và sử dụng
tri thức, tuy không sai nhưng thiếu chính xác. Đó là nguyên nhân
vì sao những tranh luận về trí thức kéo dài mãi không ngừng.

<h2>Cá nhân và xã hội</h2>

Như phân tích ở trên, trí thức là một sản phẩm đặc thù
của xã hội. Sự ra đời của trí thức gắn liền với sự
hình thành của xã hội loài người. Do đó, nếu tách trí thức
khỏi xã hội để định nghĩa xem trí thức là gì thì sẽ còn
phiến diện hơn cả việc đưa cá ra khỏi nước để tìm hiểu
hoạt động của cá. Lý do là khi cá ra khỏi nước thì cá vẫn
là cá về mặt hình thức, nhưng đưa trí thức ra khỏi xã hội
thì trí thức sẽ biến mất.

Xã hội được hợp thành bởi các cá nhân. Nhưng sự hợp
thành này không phải là sự kết hợp cơ học thuần túy. Cụ
thể, tính chất của xã hội không chỉ đơn thuần là tổng
tính chất của các phần tử hợp thành, mà còn được quyết
định phần nhiều bởi cơ chế tương tác giữa các phần tử.
Chính cơ chế tương tác có tính cách nhân tạo này đã làm cho
xã hội trở thành một hệ thống, tạo ra các đặc thù văn
hóa, kinh tế, chính trị… và đến lượt nó, quay trở lại chi
phối toàn bộ lối sống, nếp suy nghĩ, cách thức ứng xử
của các cá nhân dưới dạng cả vô thức lẫn ý thức thông
qua tập quán, giáo dục và luật pháp.

Xã hội khi đó trở thành một thực thể có tính độc lập
tương đối với cá nhân. Tính chất của xã hội sẽ phụ
thuộc phần lớn vào chính cơ chế vận hành, tức cơ chế
tương tác giữa các phần tử của xã hội, và những đặc
trưng của nó, chứ không phải là tính chất của các cá nhân
riêng lẻ. Sức ép của xã hội lên cá nhân trong trường hợp
này là rất lớn, và đặc biệt lớn trong các xã hội toàn
trị hoặc thần quyền.

Như vậy, có sự tương tác hai chiều mãnh liệt, dưới dạng
bồi đắp, chi phối, kiểm soát hoặc tàn phá lẫn nhau giữa cá
nhân và xã hội. Tuy cá nhân là phần tử cơ bản hợp thành xã
hội, nhưng chính cá nhân cũng là nạn nhân của xã hội, theo
nghĩa bị xã hội tìm cách đồng hóa làm mất các đặc trưng
riêng của mình. Tổ chức xã hội càng phức tạp thì mâu
thuẫn giữa cá nhân và xã hội càng lớn, sức ép của xã hội
lên cá nhân càng nặng nề.

Trước sức ép thường trực này, cả dưới dạng vô thức và
ý thức, cá nhân dần đánh mất đi rất nhiều sự tự do và
độc lập nguyên thủy của mình, mất dần khả năng tự quyết
và tầm mức ảnh hưởng của mình trong các vận động xã hội
lớn. Ngay cả trong những vận hành thường ngày của xã hội,
điều này cũng không ngoại lệ, và có thể được minh chứng
qua câu nói cửa miệng của rất nhiều người: Tại cơ chế!
Như vậy, trăm sự là tại cơ chế, tức có nguyên nhân từ sự
vận hành của hệ thống, chứ không phải là từ cá nhân.

<h2>Giá trị phổ quát</h2>

Khi từ bỏ đời sống săn bắt hái lượm tự do để bước
vào đời sống xã hội với vô số tương tác, con người đã
học cách cư xử, làm việc và chung sống với nhau, hình thành
nên những nhân sinh quan, thế giới quan mới mà thời nguyên
thủy không có. Theo thời gian, những nhân sinh quan, thế giới
quan này sẽ được tinh luyện để tạo thành những giá trị
có tính phổ quát, tức đúng trong một khoảng thời gian rất
dài và với đại chúng, như Chân, Thiện, Mỹ; và gần đây hơn
là Tự do, Bình đẳng, Dân chủ, Nhân quyền, Công lý… Những
giá trị phổ quát này sẽ đóng vai trò định chuẩn cho xã
hội, tỏa ra trong mọi ngõ ngách của đời sống, ảnh hưởng
đến mọi hoạt động của cá nhân dưới nhiều thể nhiều
dạng khác nhau như văn hóa, thói quen, tác phong… Với vai trò
định chuẩn này, chúng sẽ giúp xã hội vận hành trơn tru và
phát triển được trong thế ổn định tương đối, tránh
được những xung đột, đổ vỡ và hỗn loạn do mâu thuẫn
lợi ích và xung đột văn hóa gây ra. Chúng cũng giúp điều hòa
mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội hầu cho cá nhân không bị
bóp nghẹt trước sự chèn ép của xã hội; giúp cho xã hội
giữ được sự lành mạnh cần thiết, không bị tha hóa thành
một địa ngục nhân tạo do lòng tham, bạo lực và sự u mê
gây ra, đặc biệt là từ sự lạm dụng các phương tiện vật
chất và quyền lực của những cá nhân có thể chi phối sự
vận hành của cả hệ thống.

Những giá trị phổ quát này ổn định trong một khoảng thời
gian dài, nhưng không phải là bất biến. Nếu như Chân, Thiện,
Mỹ có thể được coi như một giá trị phổ quát ở cả
phương Đông lẫn phương Tây, tồn tại bền vững từ hàng
nghìn năm nay, thì Trung quân – tức là trung thành với nhà Vua
– một giá trị có tính phổ quát thời phong kiến, đã bị
loại bỏ vì đi ngược lại xu thế phát triển của xã hội
hiện đại. Gần đây, một số giá trị mới hình thành ở
phương Tây như Tự do, Dân chủ, Bình đẳng, Nhân quyền… đã
được truyền bá khắp thế giới và được coi là những giá
trị phổ quát mới, bên cạnh bộ ba Chân-Thiện-Mỹ truyền
thống.

Việc hình thành một, hoặc một bộ, giá trị phổ quát
thường rất gian nan, và phải trả những giá rất đắt. Thông
thường, những giá trị phổ quát này sẽ được hình thành ở
một nơi nào đó có những điều kiện chín muồi và lan dần
sang các nơi khác tiếp xúc với nó như những làn sóng văn hóa,
kinh tế, chính trị…, hình thành nên một xu thế mới của
phát triển.

Do vai trò quan trọng của các giá trị phổ quát đối với
việc bảo vệ cá nhân, bảo vệ sự lành mạnh của xã hội,
cũng như định hướng phát triển cho xã hội sao cho hòa nhịp
được với những trào lưu phát triển mới, nên trong các cuộc
đấu tranh phát triển, chúng thường được coi là chính nghĩa.
Chúng có sức mạnh nội tại như một giá trị phổ quát và
sức mạnh thời đại của một trào lưu mới, nên trong các
cuộc đối đầu, lực lượng nào nắm được chính nghĩa,
hoặc được dân chúng tin là có chính nghĩa, thường là người
thắng cuộc. Lực lượng này cũng thường được coi là tiến
bộ vì hòa nhập được với sức mạnh của một trào lưu phát
triển mới. Ngược lại, nếu tìm cách lảng tránh hoặc chống
trả những giá trị phổ quát này, vì thiển cận hoặc vì lợi
ích của một nhóm nhỏ, xã hội sẽ phải trả giá đắt, thậm
chí bị phá hủy, vì cưỡng lại một động năng phát triển
khổng lồ của thời đại. Những người chống lại các giá
trị phổ quát mới này, và do đó là chống lại các làn sóng
phát triển mới, sẽ bị coi là phản động, theo đúng nghĩa
đen của từ này.

Với những nơi không phải là chỗ xuất phát của những giá
trị phổ quát mới này, nếu biết chủ động và khôn khéo
cưỡi lên những đợt sóng phát triển này thì sẽ tận dụng
được động năng to lớn của cả một trào lưu mới, thường
được gọi là sức mạnh thời đại, để phát triển. Do đó,
"đi tắt đón đầu" trong phát triển, không có cách nào nhanh
và hiệu quả hơn việc chủ động hấp thụ và quảng bá
những giá giá trị phổ quát mới, hội nhập vào những dòng
chảy mới của thời đại. Còn kéo lùi sự phát triển, không
cách nào ghê gớm hơn việc ngăn chặn sự truyền bá cac giá
trị phổ quát và tinh hoa tư tưởng của nhân loại.

Về mặt triết học, có thể coi các giá trị phổ quát chính
là kết quả của các quá trình đấu tranh biện chứng trong
nhận thức của con người về tự nhiên, xã hội và chính bản
thân mình. Sau khi đã được hình thành, được tinh luyện theo
thời gian và được thừa nhận rộng rãi, thì chính các giá
trị phổ quát sẽ trở thành các trung giới cho các quá trình
biện chứng khác đang hàng ngày hàng giờ diễn ra trong mọi
mặt của của đời sống, với tư cách định chuẩn cho sự
vận hành và phát triển của cả xã hội.

<h2>Tự do nội tại</h2>

Áp lực của xã hội với tư cách là một hệ thống lên cá
nhân, đặc biệt là trong các xã hội hiện đại, là một
điều được thừa nhận hiển nhiên. Tuy nhiên, vấn đề có
tính triết học cần đặt ra: Đâu là giới hạn của sự chèn
ép này? Có chăng một khoảng tự do nội tại, bất khả xâm
phạm, bất khả tước đoạt bởi các yếu tố bên ngoài, trong
đời sống tinh thần của mỗi cá nhân? Nếu có, cá nhân nên
sử dụng khoảng tự do bất khả tước đoạt đó như thế nào
để tự bảo vệ mình và bảo vệ sự lành mạnh của xã hội?

Con người, từ khi chuyển từ vượn thành người, và thông qua
lịch sử phát triển của mình, đã tự chứng minh là một sinh
vật có lý trí. Điều này có nghĩa, con người có thể sử
dụng lý trí của mình để đưa ra các lựa chọn. Quá trình
này diễn ra trong bộ não người, do đó về bản chất, có tính
độc lập tương đối với những gì đang diễn ra ở bên
ngoài. Chính khoảng độc lập tương đối này là cơ sở cho
sự tồn tại của một thứ tự do có tính chất nội tại,
bất khả xâm phạm đối với mọi chèn ép từ xã hội bên
ngoài lên cá nhân.

Đây là thứ tự do không thể tước đoạt. Trong trường hợp
cùng cực nhất, cá nhân vẫn có thể lựa chọn bất hợp tác,
hoặc cao hơn là tự hủy, bằng cách này hoặc cách khác. Các
trường hợp tuyệt thực, tuẫn tiết… là những ví dụ điển
hình cho lựa chọn của cá nhân trong những trường hợp khốn
cùng. Chính những lựa chọn tự hủy của cá nhân trong các
trường hợp này đã chứng thực cho tính không thể tước
đoạt bởi xã hội của thứ tự do này.

Trong thực tế, do giáo dục, ràng buộc, định kiến, qui tắc,
nghi lễ, luật pháp, định chế, sự sợ hãi, sự u mê, áp lực
cuộc sống, lòng tham, sự toan tính… mà các cá nhân thường
quên mất rằng, mình có một tự do nội tại bất khả xâm
phạm, bất khả tước đoạt. Có thể gọi điều này là sự
đánh mất mình. Chỉ trong những hoàn cảnh rất đặc biệt,
hoặc sau một quá trình chiêm nghiệm và tu tập lâu dài, cá
nhân mới tái khám phá ra sự tồn tại của thứ tự do nội
tại này. Sự kiện này thường được gọi bằng nhiều tên
gọi khác nhau, như sự thức tỉnh, ngộ đạo, tìm lại được
bản thân mình… nhưng đều có chung bản chất là tái khám phá
ra tự do nội tại của cá nhân để thoát khỏi định kiến và
sự sợ hãi, giành lại sự tự chủ cho cá nhân trong mọi cuộc
ứng xử với chính mình và thế giới bên ngoài.

Chính việc ý thức được sự tồn tại của thứ tự do nội
tại này sẽ giúp cá nhân đứng vững trước sự chèn ép của
xã hội. Và thông qua đó, cá nhân ý thức được bản ngã và
giá trị của bản thân mình, đồng thời điều chỉnh hành vi
của mình sao cho phù hợp nhất, theo nghĩa tốt cho không chỉ
bản thân cá nhân đó mà còn cả cộng đồng. Điều này tạo
cơ sở cho sự hình thành một phẩm tính khác, gọi là lương
tri. Như vậy, tự do nội tại của cá nhân chính là nơi trú
ngụ của lương tri con người.

Điều này giải thích vì sao những người tu tập để khám phá
và nuôi dưỡng tự do của riêng mình, những người dám cất
lên tiếng nói hoặc dấn thân bảo vệ tự do của con người,
lại thường được gọi là lương tâm của xã hội hay rộng
lớn hơn là lương tri của nhân loại.

Điều thú vị là thứ tự do này, nếu xét về tầm mức thì
rất nhỏ bé và chỉ xuất lộ trong những hoàn cảnh đặc
biệt, lại thường được gọi là đại tự do. Chắc hẳn
điều này gắn liền với mức độ tác động của nó đối
với cuộc sống của cá nhân, và cả ở sự khó khăn của mỗi
người phải trải qua trước khi đạt được nó.

Với người trí thức, việc nhận thức được sự tồn tại
của thứ tự do nội tại này sẽ giúp họ có đủ cơ sở ở
trong lý luận, và sau đó là dũng cảm ở trong hành động, để
theo đuổi những giá trị phổ quát đã nói ở trên, hầu thực
hiện vai trò xã hội của chính mình.

<h2>Trí thức là gì?</h2>

Như vậy, đến đây đã có đủ cơ sở để trả lời câu hỏi
"Trí thức là gì?", như sau: Trí thức là người nuôi
dưỡng, bảo vệ, truyền bá những giá trị phổ quát của nhân
loại và sử dụng chúng như những trung giới trong các quá
trình vận động biện chứng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ
của xã hội.

Từ cách hiểu về trí thức là người nuôi dưỡng, bảo vệ
và quảng bá những giá trị phổ quát của con người, có thể
suy ra, và sau đó là kiểm chứng, những phẩm tính của người
trí thức. Tùy hoàn cảnh cụ thể mà các phẩm tính này thể
hiện ra dưới dạng khác nhau, nhưng có thể liệt kê một vài
trong số đó: Yêu tự do, yêu chân lý, yêu mến cái đẹp, tư
duy độc lập, trung thực, sáng tạo, lương thiện, không thoả
hiệp với cái xấu và cái ác…

Những phẩm tính này sẽ được bộ lộ ra thông qua hành động
của họ, ở mức cơ bản nhất là lựa chọn và thái độ. Do
đó, xã hội nhận biết một cá nhân có phải là trí thức hay
không, trước hết thông qua lựa chọn và thái độ của cá
nhân này, sau đó là trong chuỗi hành động của anh ta và hệ
quả của nó đối với xã hội.

Như thế, người trí thức với tư cách là một sản phẩm
đặc thù của xã hội, xuất lộ khi xem xét dưới góc nhìn
của xã hội đối với cá nhân, phải là người có lựa chọn
và thái độ rõ ràng đối với các vấn đề xã hội, ở mức
độ đủ tường minh để xã hội nhận biết được. Xã hội
càng loạn lạc thì lựa chọn và thái độ càng phải rõ ràng,
hầu cho đại chúng có thể nhận ra được mà hướng theo.
Chính qua lựa chọn và thái độ của mình, người trí thức
khẳng định cơ sở tồn tại , và qua đó là được xã hội
thừa nhận như một hệ quả tất yếu. Nói cách khác, cơ sở
tồn tại của người trí thức nằm ở mối tương quan của anh
ta đối với xã hội, chứ không phải trong đời sống cá nhân.
Vai trò của người trí thức, vì thế, cũng nằm ở vai trò xã
hội của anh ta. Thiếu vai trò xã hội này, người trí thức
sẽ suy biến thành một nhà chuyên môn thuần túy.

Do đặc tính trừu tượng của những giá trị phổ quát, nên
những người nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá chúng thường
là người lao động trí óc. Điều này gây ra một cảm nhận
rằng trí thức là người lao động trí óc. Tuy nhiên, qua những
phân tích ở trên, có thể thấy nhận định này là phiến
diện. Lý do là nó đã chỉ tập trung vào một đặc điểm
nhận dạng, mà không chỉ ra được đặc trưng cơ bản nhất
của người trí thức, và đặc biệt, không xét người trí
thức trong tương quan của họ đối với xã hội.

Do sự phân công lao động, những người lao động trí óc
thường phải là người được đào tạo, tức người có học,
định lượng chủ yếu thông qua bằng cấp. Do đó, cũng có ý
kiến cho rằng, trí thức là người có học, hoặc cụ thể hơn
là người đã tốt nghiệp đại học. Định nghĩa này còn
phiến diện hơn cả định nghĩa trí thức là người lao động
trí óc, nhất là khi việc học đại học đang ngày càng trở
thành phổ cập.

Cũng vì nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá những giá trị
phổ quát, nên về mặt hình thức, người trí thức thường có
xu hướng đứng về phía đại chúng. Tuy nhiên, đây không nhất
thiết phải là điều luôn luôn đúng. Xét về bản chất,
người trí thức sẽ đứng về phía những giá trị phổ quát,
bất kể nó đang ở phía bên này hay bên kia.

Cũng cần lưu ý rằng trí thức không phải là một nhãn mác
vĩnh cửu, một khi đã được dán lên một cá nhân nào đó thì
mãi mãi không thay đổi. Đời sống của mỗi cá nhân là tổng
hợp của vô vàn hoạt động, trong đó có nhiều hoạt động
mang tính bản năng, nên không hẳn lúc nào cũng có các giá trị
phổ quát ở trong đó. Cho nên, sẽ rõ ràng hơn nếu nhìn nhận
rằng, người trí thức có những phẩm tính đặc trưng, và
những phẩm tính này sẽ bộc lộ ra ở những thời điểm cần
thiết, chứ không nhất thiết phải đóng khung một hình mẫu
cứng nhắc. Ngay cả khi một người đã được thừa nhận là
trí thức, thì cũng không có gì đảm bảo rằng anh ta sẽ không
bị tha hóa dưới tác động của lòng tham và sự u mê. Sự tha
hóa này có thể được hiểu là việc người trí thức buông
bỏ tự do nội tại và những giá trị phổ quát để hùa theo
cường quyền, hùa theo cái ác và cái xấu, nhằm trục lợi cá
nhân. Trong trường hợp này, anh ta không còn là trí thức, dù
vẫn còn đầy đủ chức danh, bằng cấp, hay sự thừa nhận
chính thức của các cơ quan công quyền.

Ngược lại, có những người ban đầu chỉ là nhà chuyên môn
thuần túy, nhưng sau đó ý thức được vai trò xã hội của
mình, ý thức được sự cần thiết phải bảo vệ và quảng
bá những giá trị phổ quát, nên dần chuyển hóa thành người
trí thức.Vì thế, trí thức là một khái niệm động, chứ
không phải là một nhãn mác vĩnh cửu. Người trí thức do đó,
cũng luôn cần phải tự soi mình.

Vì tự do và các giá trị phổ quát đều thuộc về nhận thức
cá nhân, hoạt động chủ yếu trong đời sống tinh thần của
cá nhân đó, nên sự tha hóa của trí thức rất khó nhận
biết, nhất là khi đã được khéo léo ngụy trang bởi bằng
cấp, chức danh, truyền thông đại chúng… Vì thế, trí thức
chân chính bao giờ cũng rất ít, chỉ được nhận biết trước
hết bởi cá nhân họ, sau đó là sự thừa nhận của xã hội
thông qua hành vi của họ, mà trước hết là ở lựa chọn và
thái độ của họ đối với các vấn đề xã hội.

Sự đánh tráo các giá trị phổ quát, hoặc ngụy tạo cho
những giá trị phổ quát ảo bằng tuyên truyền và các mỹ
từ, nhằm trục lợi cá nhân hoặc bảo vệ lợi ích phe nhóm,
cũng thường xảy ra trong lịch sử, nhất là ở những nơi dân
trí còn chưa được mở mang đúng mức. Trong trường hợp này,
tất yếu sẽ xuất hiện những kẻ, thậm chí là nhóm lớn,
ngụy trí thức. Đây chính là những kẻ đạo đức giả, kẻ
thù tự nhiên của trí thức chân chính.

Phân biệt được đâu là trí thức chân chính, đâu là ngụy
trí thức, nếu chỉ căn cứ trên lời nói và sự phô diễn,
thì thường rất khó khăn. Nhưng nếu nhìn vào hành vi của họ,
từ động cơ thực hiện, phương tiện sử dụng và mục đích
hướng tới, và đặc biệt là hậu quả của các hành vi này
với đối với xã hội trên diện rộng, thì những ngụy trí
thức này sẽ hiện nguyên hình là kẻ đạo đức giả hoặc
"lưu manh giả danh trí thức".

<h2>Vai trò xã hội của trí thức</h2>

Nếu chỉ xét mối tương quan giữa cá nhân và xã hội, trí
thức chính là người bị chèn ép nhiều nhất vì có khả năng
nhất trong việc chỉ ra những yếu kém của xã hội. Tuy nhiên,
người trí thức có những vũ khí mà xã hội không thể tước
đoạt, đó là tự do nội tại và những giá trị phổ quát.
Người trí thức sẽ dùng chính vũ khí này để thực hiện sứ
mệnh của mình, qua đó khẳng định sự tồn tại của mình,
đối với xã hội. Vậy sứ mệnh của trí thức, hay vai trò xã
hội của trí thức, là gì?

Dưới góc độ chuyên môn, trí thức chính là người tìm kiếm
và sáng tạo ra những tri thức mới, và sau đó là truyền bá
và sử dụng những tri thức này để nâng cao đời sống của
xã hội, cả về vật chất lẫn tinh thần. Chiếm lĩnh được
tri thức, người trí thức có sức mạnh, và do đó có ảnh
hưởng đến sự phát triển của xã hội. Sự đóng góp của
người trí thức đối với xã hội, trước hết nằm ở khía
cạnh này.

Tuy nhiên, những tìm kiếm và sáng tạo tri thức cần phải dựa
trên những giá trị phổ quát, hướng đến việc thúc đẩy,
hoặc ít nhất là vô hại, sự phát triển của xã hội. Nếu
một sáng tạo hoặc tìm kiếm tri thức mục đích của nó là
nhằm thống trị hay hủy diệt con người, hoặc hủy hoại
những thành tựu văn hóa của con người, thì người sáng tạo
ra tri thức đó không thể được gọi là trí thức, mà là tội
phạm hoặc kẻ khủng bố. Trong các cuộc chạy đua vũ trang
trên thực tế, đặc biệt là trong các nghiên cứu liên quan
đến vũ khí hóa học, sinh học, nguyên tử, rất khó phân
định đâu là sự tìm kiếm tri thức nhằm thống trị và đâu
là để tự vệ. Đó chính là lý do vì sao các hoạt động tìm
kiếm và sáng tạo tri thức cần phải chịu sự giám sát chặt
chẽ của các tiêu chuẩn đạo đức, cả ở mức chuyên biệt
và phổ quát. Nếu không, dưới sự thúc giục của lòng tham và
nhu cầu quyền lực, sẽ có những tội ác nhân danh sự tìm
kiếm tri thức mà kẻ thực hiện chúng là những tội phạm
giả danh trí thức. Trong những trường hợp đặc biệt này,
lương tri và đạo đức cần phải được đặt cao hơn tri
thức, mà ví dụ điển hình là việc nhiều nhà khoa học đồng
thanh yêu cầu dừng sử dụng năng lượng nguyên tử làm vũ khí
hủy diệt, dù trước đó họ có đóng góp trong việc khám phá
ra thứ năng lượng này.

Bên cạnh việc tìm kiếm, sáng tạo và truyền bá tri thức, do
lợi thế về am hiểu chuyên môn, trí thức cần là người lên
tiếng cảnh báo những nguy cơ và hiểm họa đến từ tự nhiên
và xã hội. Những hiểm họa đến từ tự nhiên có thể
được cảnh báo nhờ máy móc thiết bị, nhưng hiểm họa đến
từ xã hội thì không thể. Do đó, việc có chính kiến, và
gióng lên hồi chuông cảnh báo công luận trước những hiểm
họa , đặc biệt là hiểm họa nhân tạo, là vai trò của trí
thức.

Đây là sự cảnh báo nhân danh những giá trị phổ quát, chứ
không phải là nhân danh cá nhân người trí thức. Vì thế, sự
cảnh báo thường có tính độc lập và khách quan tương đối.
Sức mạnh của cảnh báo, đặc biệt là những cảnh bảo xã
hội, phụ thuộc chủ yếu vào bộ giá trị phổ quát mà nó
dựa vào, chứ không phải ở vị trí xã hội của người đưa
ra cảnh báo hoặc số người tham dự. Chính nhờ vai trò cảnh
báo này mà người trí thức thường được coi là lương tri
của xã hội.

Sự cảnh báo, nếu chỉ giới hạn vào các hiểm họa nhân tạo
có thể xảy đến từ các chính sách thiếu cơ sở của nhà
cầm quyền, thì thường được hiểu như là sự phản biện
chính sách, hay phản biện xã hội khi mở rộng ra các lĩnh vực
khác. Sự phản biện này chỉ xuất hiện khi một chính sách
đã hoặc sắp hình thành, nên có phạm vi tác động nhỏ hơn
sự cảnh báo. Vì thế, phản biện không thể thay thế được
cảnh báo.

Bên cạnh hai vai trò đã nêu trên, trí thức cũng chính là
người định chuẩn trong xã hội, sao cho xã hội được lành
mạnh, vận hành hiệu quả, phát triển bền vững. Sự định
chuẩn này cũng cần phải dựa trên cơ sở là những giá trị
phổ quát, chứ không phải là những kiến thức chuyên biệt hay
ý muốn của bất cứ cá nhân hoặc nhóm người nào. Chỉ khi
nào việc định chuẩn dựa được trên những giá trị phổ
quát, đã được kiểm chứng ở nhiều nơi trong suốt chiều
dài lịch sử, thì mới có thể giảm thiểu được những sai
sót và ấu trĩ về nhận thức gây ra. Ngược lại, nếu sự
định chuẩn này chỉ dựa trên ý muốn chủ quan của một vài
cá nhân, hoặc tri thức chuyên môn của một nhóm người, thì
khả năng gặp phải sai sót do sự ấu trĩ, thiển cận, hạn
hẹp tầm nhìn, là rất lớn.
Việc định chuẩn này không phải là đưa ra một giải pháp
cụ thể, do đó không thể đòi hỏi trí thức phải đưa ra
giải pháp cho từng vấn đề riêng biệt. Đưa ra giải pháp là
công việc của các nhà chuyên môn, còn ban hành chính sách là
công việc của các chính trị gia. Người trí thức chỉ dùng
các giá trị phổ quát, như Chân, Thiện, Mỹ, Tự do, Bình
đẳng, Dân chủ, Nhân quyền… để định chuẩn cho mọi hoạt
động của xã hội, bất kể đó là các hoạt động văn hóa,
chính trị, kinh tế, giáo dục v.v.

Các giá trị phổ quát là kết tinh của các kinh nghiệm hoạt
động của con người trong suốt chiều dài lịch sử, nên mang
trong mình tính kế thừa, cả trong thời gian lẫn không gian. Vì
thế, nếu sử dụng các giá trị phổ quát làm cơ sở cho việc
định chuẩn cho xã hội thì sẽ tránh được những đổ vỡ,
xáo trộn do sự mâu thuẫn và va đập giữa các thang giá trị
của các thế hệ và các nền văn hóa khác nhau. Nếu sự định
chuẩn này đặt cơ sở trên các giá trị mới chưa được
kiểm chứng, hình thành nên do sự mò mẫm hoặc ý muốn chủ
quan với mong muốn tạo ra những nhảy vọt lớn, hay những ảo
tưởng thiếu cơ sở, thì việc tạo ra các đứt gãy, làm phá
vỡ sự bền vững của xã hội, gây nên nhiều tai họa cho dân
chúng là điều khó tránh khỏi. Cuộc cách mạng văn hóa tàn
khốc ở Trung Quốc những năm 1958-1968 là minh chứng rõ rệt cho
điều này.

Chính vì thế, nếu xem xét xã hội như một tiến trình liên
tục, tiến lên được nhờ những đấu tranh biện chứng, cả
trong nhận thức và hành động, thì các giá trị phổ quát sẽ
đóng vai trò là các trung giới của các quá trình đấu tranh
biện chứng này, đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong mọi
mặt của đời sống. Người trí thức với tư cách là người
nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá những giá trị phổ quát,
vì lẽ đó, cũng đã tự đặt mình vào vị trí trung giới của
các quá trình vận động biện chứng của xã hội. Họ chính
là người tạo điều kiện cho sự ra đời và nâng đỡ cái
mới tiến bộ, và loại bỏ cái cũ đã lạc hậu, giúp cho xã
hội đổi mới và phát triển không ngừng.

<h2>Thay lời kết</h2>

Trí thức là một sản phẩm đặc biệt của xã hội. Sự xuất
hiện của người trí thức gắn liền với việc hình thành xã
hội. Do đó, ý nghĩa của khái niệm trí thức, và sâu xa hơn
là vai trò của người trí thức, chỉ có thể được hiểu
đầy đủ khi đặt vào mối liên hệ với xã hội. Chính nhờ
việc đặt vào mối liên hệ này, những đặc trưng của
người trí thức mới được xuất lộ. Trong số những đặc
trưng này, quan trọng nhất là tìm kiếm, sáng tạo và truyền
bá tri thức - gọi là đặc trưng tri thức; cảnh báo các hiểm
họa cho xã hộ - gọi là đặc trưng cảnh báo; và định chuẩn
cho xã hội – gọi là đặc trưng định chuẩn. Tất cả các
hoạt động liên quan đến ba đặc trưng này của người trí
thức đều phải dựa trên những giá trị phổ quát mà họ
nuôi dưỡng, bảo vệ và truyền bá.

Có thể biểu diễn ba đặc trưng này và mối quan hệ giữa
chúng trên một hình tam giác, tạm gọi là tam giác đặc trưng,
như sau:

Tùy theo năng lực cá nhân và tính cách mà mỗi người trí
thức có một tam giác đặc trưng, với kích thước và hình
dạng khác nhau. Kích thước của tam giác đặc trưng phụ thuộc
trước hết vào tài năng cá nhân của người trí thức, sau đó
là độ lớn của chiều kích các giá trị phổ quát mà người
trí thức theo đuổi. Còn hình dạng của tam giác đặc trưng
phụ thuộc vào tỷ lệ đóng góp của người trí thức trên ba
phương diện "Tri thức – Định chuẩn – Cảnh báo" đối
với xã hội. Các tỷ lệ này gia giảm tùy theo đặc thù , ưu
tiên công việc và cá tính của mỗi người, nhưng không được
biến mất hoàn toàn. Nếu không, tam giác đặc trưng sẽ suy
biến thành một đoạn thẳng hoặc điểm. Trong trường hợp
suy biến thành đoạn thẳng, người trí thức sẽ không còn là
một điển hình mẫu mực. Còn trong trường hợp suy biến thành
điểm, người trí thức bị suy thoái thành nhà chuyên môn
thuần túy nếu chỉ tập trung vào tri thức, hoặc kẻ quấy
rối nếu chỉ tập trung vào cảnh báo, hoặc kẻ đạo đức
giả nếu chỉ tập trung vào định chuẩn.

Cũng qua tam giác đặc trưng này, thấy rằng: các giá trị phổ
quát đóng vai trò trung tâm trong đời sống tinh thần, là bảng
giá trị và vũ khí tối hậu của người trí thức. Buông bỏ
chúng, người trí thức không chỉ trắng tay, mà còn xóa bỏ
luôn các đặc trưng nhận dạng của mình, do đó xóa bỏ sự
tồn tại của mình dưới góc nhìn xã hội.

Ở đỉnh thứ nhất của tam giác đặc trưng, thông qua việc
chiếm giữ tri thức chuyên môn, người trí thức sẽ có được
sức mạnh của sự hiểu biết, tư duy độc lập, sự sáng
tạo, tức sức mạnh của lý tính. Với vai trò này, người trí
thức được coi như bộ não của xã hội.

Ở đỉnh thứ hai của tam giác đặc trưng, thông qua việc cảnh
báo những hiểm họa có thể xảy đến, đặt biệt là các
hiểm họa nhân tạo do xã hội tạo ra, vai trò xã hội của trí
thức được xuất lộ. Thông thường, sự cảnh báo này
thường liên quan đến việc bảo vệ sự lành mạnh của xã
hội, lên án sự chà đạp của cường quyền lên nhân tính,
sự đồng cảm với những người kém may mắn, người thấp
cổ bé họng, người đang chịu áp bức bất công, nên ở vai
trò này, người trí thức thường được coi là lương tâm của
xã hội.

Ở đỉnh thứ ba của tam giác đặc trưng, thông qua việc sử
dụng những giá trị phổ quát để định chuẩn cho xã hội,
người trí thức đã tự đặt mình vị trí gương mẫu cho
đại chúng. Việc sử dụng những giá trị phổ quát như những
trung giới của các quá trình đấu tranh biện chứng, hầu tạo
ra sự đổi mới và phát triển của xã hội, ngưới trí thức
đã tự đặt mình vào vị trí trung giới của sự phát triển.
Vì thế, ở vai trò này, người trí thức được coi là người
dẫn dắt sự phát triển của xã hội.

Cả ba vai trò này của người trí thức đều chỉ xuất lộ và
phát huy tác dụng khi xét người trí thức trong mối quan hệ
với xã hội. Chính ở trong mối quan hệ này, người trí thức
tìm được cơ sở tồn tại của mình.

Nếu coi xã hội là một cơ thể sống, tương tự như một cá
nhân, thì trí thức chính là phần tự do nội tại của cơ thể
đó. Nếu tự do nội tại của cá nhân là nơi trú ngụ của
lương tri con người, thì trí thức chính là nơi trú ngụ của
lương tri xã hội. Tự do, vì thế là không khí để thở của
trí thức. Thiếu tự do, trí thức sẽ chết. Khi đó, những giá
trị phổ quát mà người trí thức nuôi dưỡng và bảo vệ
cũng sẽ chết theo, dẫn đến sự chậm tiến của xã hội do
thiếu tri thức, sự hỗn loạn do mất cảnh báo và thiếu
chuẩn mực. Hậu quả của nó là sự tàn phá trên diện rộng,
có thể đến mức gây sụp đổ, cho toàn xã hội.

_________________

Bài đã đăng trên Tạp chí Tia Sáng, số ra ngày 20/4/2012. Bản
điện tử: <a
href="http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=5093&CategoryID=42">phần
1</a>, <a
href="http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=5099">phần
2</a>.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/12376), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét