Fields ("Bán ruộng") trong cuốn sách "Vietnam – Rising
Dragon" (Việt Nam – con rồng trỗi dậy) của Bill Hayton, nguyên
phóng viên BBC tại Hà Nội. Trong bối cảnh vụ Tiên Lãng báo
hiệu nhiều xáo trộn, tôi nghĩ sẽ là một việc có ích, ít
nhất cũng là điều thú vị, nếu chúng ta tham khảo những gì
một nhà báo phương Tây từng viết về nông thôn Việt Nam cách
đây vài năm.
Tiêu đề của phần này do người dịch đặt. Quan điểm của
người dịch không nhất thiết trùng quan điểm của tác giả.
Người dịch không chịu trách nhiệm về việc kiểm chứng
thông tin trong bài viết. Xin lưu ý: Một nhân vật được nhắc
tới trong đoạn dưới đây – ông Vũ Ngọc Kỳ, nguyên Chủ
tịch Hội Nông dân Việt Nam – đã mất năm 2008. Mong bạn
đọc lưu tâm điều này để có thái độ chừng mực cần
thiết khi bình luận.</div>
<center>* * *</center>
Mồng 10 tháng giêng năm 2007, trước ngày Việt Nam gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới (WTO). Tran Thi Phu cào đất trên
thửa ruộng của mình ở tỉnh Hà Tây và chở đất đi bằng xe
cải tiến. Dưới bầu trời mùa đông buồn tẻ, chị và
người em họ dùng cuốc cạo hết lớp đất ở trên, đổ vào
những chiếc bao tải cũ đựng phân bón và kéo bao tải lên xe.
Tiếp theo, hai chị em sẽ đẩy xe vào làng, Hoài Đức, cách đó
vài trăm mét, để bán đất ấy cho một người hàng xóm đang
muốn phát triển vườn cây ăn quả. Khắp cánh đồng sau lưng
họ là một dọc những cọc gỗ thấp dùng để đánh dấu.
Chỉ trong vòng vài tuần nữa thôi, chúng sẽ đánh dấu cái ranh
giới giữa tương lai và quá khứ. Mọi thứ ở bên trái họ
rồi sẽ trở thành một phần trong một dự án bất động sản
tư nhân, còn bên phải họ thì những phụ nữ chân đất vẫn
sẽ tiếp tục trồng cấy lúa bằng tay không. Mới hôm trước
đó, chị Phu được thông báo là chị sẽ nhận được khoản
đền bù bằng mức thu nhập của khoảng 5 năm làm nông dân
trên thửa ruộng của chị. Nhưng thông tin đó không làm chị
vui. "<em>Tôi chẳng biết dùng tiền ấy làm gì cả</em>" –
chị nói. "<em>Có lẽ tôi sẽ đầu tư vào cái gì đó, nhưng
cũng chưa biết là vào đâu. Tôi là nông dân, tôi chỉ biết
trồng lúa và nuôi gà nuôi lợn thôi. Tôi không biết kinh doanh,
không biết mua bán gì cả. Tôi muốn nhà nước xây một nhà
máy lớn ở đây để rồi chúng tôi đi làm công nhân, như thế
tốt hơn là bồi thường bằng tiền hay căn hộ</em>".
Phía bên phải hàng cọc, cuộc sống vẫn tiếp tục như
thường. Mặc dù phải cưỡi trâu dầm trong làn nước giá
lạnh của mùa đông, nhưng một nông dân khác, chị Nguyen Thi
Hang, lại tỏ ra còn hơn cả hài lòng với số phận của mình.
Chị cho là đời sống đang tốt đẹp hơn bao giờ hết.
"<em>Cách đây 5 năm, tôi phải mất gần cả ngày để đẩy xe
đạp từ chợ ở Hà Nội về nhà, chở rau cỏ cho trâu bò
lợn. Bây giờ thì tôi có thể ra Hà Nội và quay về trong vòng
hai tiếng đồng hồ, nếu được ông xã đèo bằng xe
máy</em>". Chị là một điển hình của nông dân hiện đại.
"<em>Trước kia phải mất sáu tháng để nuôi một con lợn ta
lên được 60 cân, còn giờ tôi có thể vỗ béo một con lợn
giống Tây lên 60 cân chỉ trong hai tháng</em>". Câu chuyện
thành công của chị còn lặp lại ở nhiều nơi trên khắp
đất nước; thật là tin xấu đối với giống lợn sề của
Việt Nam – đám lợn này gần như đã tuyệt chủng ở quê
hương của chúng – nhưng là một tiến bộ mang tính cách mạng
đối với hàng triệu nông dân Việt Nam. Vợ chồng chị Hang
vẫn tiếp tục làm ruộng, nhưng con cái của họ thì không còn
ý định sống cả đời trong cảnh lưng còng, tay đầy bùn
nữa. Ngày ngày chúng đi xe máy về Hà Nội, con trai đi làm cho
một công ty máy tính, con gái làm cho một cửa hàng bán quần
áo. 5 năm về trước, chúng còn sung sướng được cưỡi xe
Honda Dream sản xuất ở Trung Quốc. Bây giờ, chúng không dại
gì chết tắc với loại xe dành cho ông già đó. Đồ chúng mua
sắm, dù là xe máy hay điện thoại di động, đều phải nhằm
mục đích phô trương.
Nhưng với tất cả những thứ đó, gia đình cũng sẽ không bỏ
đất. Đất vẫn là chiếc mỏ neo của họ. Chính vì mất
chiếc mỏ neo đó mà chỉ cách đó 100 mét, chị Tran Thi Phu đang
than thở kia. Đối với cả hai người phụ nữ này, mà thật ra
là đối với bất kỳ nông dân trên 30 tuổi nào, nạn đói
vẫn cứ là một ký ức sống động. Vào đầu những năm 1980,
sự kết hợp giữa các nguyên nhân chiến tranh, cấm vận, và
chủ nghĩa xã hội nhà nước giáo điều, đã gây thiếu lương
thực trầm trọng và dẫn đến nạn đói. Di chứng của cái
thời ấy vẫn còn in đậm trên cơ thể của tất cả những
người Việt Nam lớn lên trong tình trạng thiếu dinh dưỡng.
Nỗi sợ một chuyện tương tự như thế có thể lại xảy ra
khiến nông dân bám chặt lấy đất: họ có niềm tin rằng
điện thoại di động có ngừng kêu thì họ vẫn còn có thể
tự trồng lúa và sống được. Mất đất là đâm đầu vào
cảnh mất ổn định.
Hai người phụ nữ – Nguyen Thi Hang và Tran Thi Phu – là những
bằng chứng sống về quá trình chuyển đổi ở Việt Nam. Đời
sống hiện nay khá hơn cực nhiều so với 20 năm về trước.
Hầu hết những thăng trầm khi xưa của đời sống nông dân
đã được khắc phục. Tỷ lệ suy dinh dưỡng giảm, bệnh
truyền nhiễm được kiểm soát, tuổi thọ kéo dài hơn. Đất
đai được phân bổ rộng rãi và nông dân đã có quyền trồng
cây gì họ muốn và đem bán, trên lý thuyết là cho bất kỳ ai
họ muốn. Kết quả thật ấn tượng. Trong không đầy ba thập
kỷ, số người nghèo giảm hẳn, nông thôn đã có điện;
đường xá, trạm y tế, trường học và hệ thống vệ sinh
đều được xây dựng. Nhưng vẫn còn cần nhiều thời gian
để vượt qua những gánh nặng của quá khứ. Cuộc sống của
người nông dân vẫn còn khó khăn.
Khi nền kinh tế tiến hành công nghiệp hóa, tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP giảm còn một nửa – từ 40% vào giữa thập
niên 1980 xuống 20% ngày nay. Nhưng số nông dân giảm chậm hơn
thế nhiều – từ ba phần tư dân số trong thập kỷ 80 xuống
còn khoảng một nửa dân số như bây giờ. Nói cách khác, nông
dân đang nhận một tỷ lệ thấp hơn lợi ích của tăng
trưởng trong một số người rộng lớn hơn. Họ đã giàu lên,
nhưng mức độ ít rõ rệt hơn so với những người lao động
ngoài khu vực nông nghiệp. Tuy có một số nông dân khá giả,
nhưng phần còn lại đang phải vật lộn để xoay sở, và họ
có thêm một loạt vấn đề phải đối mặt. Gió độc vẫn
thổi qua những cánh đồng lúa, dưới hình thức những vụ
cưỡng chế đất đai, quan chức địa phương cướp bóc của
dân, và sự biến động của thị trường toàn cầu. Các ảnh
hưởng đều sẽ rất nguy hiểm cho tương lai của đất nước,
bởi lẽ nông thôn hiện giờ vẫn là nơi an cư đối với phần
lớn người Việt – khoảng 70% – mặc dù, như hai phụ nữ
nói trên đã chỉ ra, ở nhiều nơi, "nông thôn" tồn tại
trong định nghĩa và phân loại của chính quyền nhiều hơn là
trên đất đai. Một thời gian rất dài sau khi dự án bất
động sản ở Hoài Đức hoàn thành, khu vực này chắc chắn
vẫn sẽ được gọi là "nông thôn".
Tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của nông dân đóng
trụ sở ở một trong số rất nhiều biệt thự quét vôi vàng
trong "khu Đảng" nằm dọc đường Quán Thánh (Hà Nội).
Phòng họp của họ có cái công thức thường xuyên của mọi
cơ quan nhà nước: rèm nhung đỏ, tượng bán thân bằng đồng
của ông Hồ Chí Minh, và một khẩu hiệu lớn mạ vàng khẳng
định rằng "<em>Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn
năm</em>". Hội Nông dân là một trong những "tổ chức quần
chúng" chủ lực của Đảng. Vai trò của nó là làm "sợi
dây nối" giữa nông dân và Đảng – nhưng cũng là hướng
dẫn nông dân về chính sách của Đảng. Lãnh đạo Hội năm
2007, ông Vũ Ngọc Kỳ, giữ một nhiệm vụ khó tới mức đáng
sợ, nhưng vẫn còn dành thời gian rảnh rỗi để sáng tác và
xuất bản thơ. Hôm tôi gặp ông, ông vừa hoàn thành một tập
thơ nữa – thơ ca ngợi các thành viên của Hội. Trong đó, ông
kêu gọi nông dân hãy làm giàu cho đất nước để đất nước
bắt kịp với phần còn lại của thế giới. "<em>Mùa xuân
đến đem theo bao hy vọng, hoa hồng tươi và chúng ta lại tiến
tới ngày mai…</em>", có một câu thơ như vậy. Nhưng ông cũng
rất ý thức được rằng đối với những người nông dân
đang chật vật tồn tại, mùa xuân mang đến điềm gở hơn là
vận hội. Liệu còn đủ cái ăn cho tới mùa gặt không? Làm sao
xoay sở được?
Không như các lãnh đạo nông dân ở nhiều nước khác, ông Kỳ
không coi công việc của mình là phải bảo vệ quyền của các
thành viên trong hội – quyền được ở trên đất của họ.
Ông tỏ ra rất thẳng thắn khi nói về những việc cần làm.
"<em>Hiện tại chúng tôi có 32 triệu người lao động ở nông
thôn, và có thể nói rằng khoảng 10 triệu trong số họ ở
trong tình trạng bán thất nghiệp</em>". Giải pháp của ông
không phải là yêu cầu nhà nước trợ cấp nhiều hơn cho nông
dân để duy trì cuộc sống của họ. Đảng đã quyết định
công nghiệp hóa đất nước, một số lượng lớn nông dân
phải rời đất, và với tư cách chủ tịch Hội Nông dân, ông
sẽ phải làm sao để bảo đảm việc đó. Ông Kỳ dự đoán
là trong những năm tới, một phần ba số nông dân cả nước
sẽ thất nghiệp, như là kết quả của hiện đại hóa nông
nghiệp và cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. "<em>Do đó, việc
quan trọng nhất bây giờ là phải đào tạo để họ có kỹ
năng tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu của các ngành dịch
vụ</em>" – ông bảo vậy. Nói cách khác, nông dân cần
được đào tạo lại để trở thành bồi bàn hoặc lái xe.
Hội Nông dân đã hoàn toàn dựa vào (lý thuyết) phân chia giai
cấp để đào tạo những kỹ năng mà họ nghĩ là sẽ cần
thiết trong nền kinh tế mới.
Đoan Trang biên dịch
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11873), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét