giới truyền thông Âu - Mỹ đã không ngớt, bằng nhiều hình
thức, trực tiếp hay ám chỉ, cho rằng chính nguyện vọng Dân
Chủ của người dân Trung Đông là động cơ của những biến
động đó. Từ đó giới truyền thông dẫn dắt công luận
đến chỗ tin rằng sự can thiệp của các cường quốc Anh -
Pháp - Mỹ là để bảo vệ cho dân chúng trong Vùng có cơ hội
thể hiện nguyện vọng Dân Chủ chính đáng của mình. Nghĩa là
các cường quốc, đứng đầu là Mỹ, đang hành xử, như đã
hành xử từ lâu nay, trong cương vị lãnh đạo thế giới,
thực hiện sứ mệnh cao cả là truyền bá và bảo vệ Dân
Chủ.
Tuy nhiên, luận cứ của giới truyền thông, tuy có vẻ thuyết
phục và bất khả phản biện như vậy, lại dường như không
phù hợp với thực tế lịch sử của những gì đã xảy ra từ
trước đến nay ở nhiều nơi trên thế giới. Xin thử điểm
lại sau đây một số trường hợp điển hình:
Trước hết, xin bắt đầu bằng trường hợp Indonesia và East
Timor. Sau nhiều trăm năm chiếm đóng East Timor làm thuộc địa,
năm 1975 Bồ Đào Nha rời bỏ đảo, trao quyền lại cho dân
địa phương tự làm chủ lấy vận mệnh của mình. Nhưng ngay
sau đó Indonesia, dưới quyền của tổng thống Suharto, một
đồng minh thân cận của Mỹ ở Đông Nam Á, đã xua quân xâm
chiếm, định sáp nhập East Timor vào lãnh thổ của mình. Xin
mở ngoặc ở đây rằng East Timor tuy chỉ là một quần đảo
nhỏ, nhưng lại rất giàu tài nguyên: dầu hỏa, lâm khoáng
sản. Với vũ khí được Mỹ viện trợ, quân Indonesia, ngay sau
cuộc viếng thăm Indonesia của Tổng thống Ford một ngày, đã
tràn qua tàn sát dân East Timor, tổng số thường dân bị giết
lên đến khoảng 200,000 người, chiếm 1/3 tổng dân số East
Timor. Các tổ chức nhân quyền quốc tế, đứng đầu là
International Amnesty, lớn tiếng kêu gào quốc tế can thiệp,
nhưng Mỹ, Anh, Úc Đại Lợi đều làm ngơ, riêng Liên Hiệp
Quốc thì phản ứng rất chậm trễ. Một số tài liệu giải
mật về sau, vào năm 2001, cho thấy rằng chính phủ Mỹ của
Tổng thống Ford và ngoại trưởng Kissinger đã bật đèn xanh cho
Suharto của Indonesia xâm chiếm East Timor. Quân Indonesia tiếp tục
chiếm đóng, đàn áp và tàn sát người East Timor cho đến năm
1999, khi cuối cùng một cuộc tổng tuyển cử của dân địa
phương dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc được thực
hiện, và East Timor được công nhận độc lập. Nhưng ngay cả
trước khi rút lui, theo báo cáo của International Amnesty, quân
đội Indonesia đã phá huỷ gần hết hạ tầng kiến trúc,
trường học, các hệ thống nước uống và y tế của East
Timor, gây nên một thiệt hại lớn lao và lâu dài cho người
dân ở hải đảo nhỏ bé này!
Ngày nay nghe Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ra nghị quyết
1973 chấp thuận cho các cường quốc lập khu vực No Fly Zone ở
Libya để <em>"bảo vệ thường dân Libyan"</em> khỏi bị
thảm sát bởi chính phủ, tuy độc tài, nhưng hợp pháp của
họ, những người có lương tri không khỏi tự hỏi tại sao
trước đây Liên Hiệp Quốc, và nhất là Mỹ, đã không làm
một việc tương tự để cứu cho hàng trăm ngàn người dân vô
tội của hòn đảo bé nhỏ East Timor thoát khỏi bàn tay tàn sát
của quân ngoại xâm Indonesia. Điểm đáng chú ý là vào thời
gian đó, nghĩa là vào năm 1975, Mỹ không vướng bận một cuộc
chiến tranh nào như hiện nay.
Trường hợp khác đáng ngờ về vai trò tiên phong bảo vệ Dân
Chủ của Mỹ là Pakistan: Ai cũng biết rằng chế độ của
tổng thống Musharraf là một chế độ độc tài, quân đội do
Musharraf chỉ huy nắm toàn bộ quyền lực trong nước, các
đảng phái đối lập bị đàn áp; Musharraf ngay cả đã có lúc
tự chuyên bãi chức thẩm phán của Toà Án tối cao, gây nhiều
công phẫn trong công luận Pakistan. Không những vậy, một số
nguồn tin cho rằng Musharraf đi hàng hai giữa Mỹ và Al-Qaeda, ngay
cả đã âm thầm tán trợ cho các tổ chức khủng bố Hồi giáo
để chống lại Ấn Độ. Nếu đem so sánh giữa Musharraf của
Pakistan và Gadhafi của Libya thì thật khó nói rằng ai độc tài
hơn ai. Mặc dầu vậy, các chính phủ Mỹ đã liên tục ủng
hộ cho Pakistan, đặc biệt tổng thống Bush đã tích cực ủng
hộ và viện trợ hàng tỉ dollars/năm cho tổng thống Musharraf
trong nhiều năm trời. Trong khi đó nay chính phủ Mỹ lại lấy
cớ rằng chế độ Gadhafi độc tài nên cần được thay đổi
để có Dân Chủ cho dân Libya. Người ta tự hỏi tại sao
trước đây, chính phủ Mỹ không xử sự cùng một cách như
vậy với chế độ độc tài Musharraf để Pakistan sớm có Dân
Chủ hơn?
Nhưng đáng chú ý nhất là thái độ của Mỹ đối với nền
Dân Chủ của các quốc gia Nam Mỹ.
Trước hết là sự can thiệp vào Guatemala thuộc Trung Mỹ. Vào
khoảng thập niên 1950s, ở Guatemala, được mệnh danh là Banana
Republic, 2% dân chúng giàu nhất nắm toàn bộ nền kinh tế của
xứ đó và hợp tác chặt chẽ với Mỹ, đúng hơn là với các
đại công ty của Mỹ, đứng đầu là United Fruit Company. Tổng
thống đắc cử hợp pháp, theo đúng nguyên tắc Dân Chủ của
Guatemala lúc đó là Jacob Arbenz, thực hiện cải cách ruộng
đất và một số chính sách xã hội khác phù hợp với nguyện
vọng của đa số cử tri. Nhưng những cải cách xã hội của
Arbenz đụng chạm đến quyền lợi của giới tư bản ngọai
quốc, trong đó có quyền lợi của công ty United Fruit, vì vậy
Arbenz bị CIA lật đổ, bị sỉ nhục và trục xuất ra ngoại
quốc.
Tiếp theo là trường hợp Chile. Năm 1970 Bác sĩ Salvador Allende
đắc cử tổng thống Chile với số phiếu vượt xa ứng cử
viên gần nhất. Là một người cấp tiến, khi lên cầm quyền
Allende cũng đã đưa ra một số cải cách mang tính chất xã
hội nhắm vào cải thiện đời sống cho giới lao động và
người nghèo; đặc biệt nhất là một số biện pháp quốc
hữu hoá một số công ty ngoại quốc. Sự cải cách của Allende
khiến các nhà tư bản và chính phủ Mỹ không hài lòng. TT Mỹ
lúc ấy là ông Nixon đã chỉ thị cho CIA <em>"make the Chile
economy scream to prevent Allende from coming to power or to unseat
him"</em> (làm cho kinh tế của Chile khóc thét lên để ngăn
Allende không lên cầm quyền được hoặc bứng anh ta đi). CIA
đã tiến hành theo chỉ thị đó và còn đi xa hơn bằng việc
hậu thuẫn cho tướng Augusto Pinochet làm đảo chánh, mấy năm
sau đó, vào tháng 11/1973 khiến tổng thống Allende đã phải tự
tử. Từ đó Pinochet lên cầm quyền, trở thành nhà độc tài
nổi tiếng ở Nam Mỹ, không thua gì Fidel Castro của Cuba hay
Gadhafi của Libya, chỉ khác là nhà độc tài Pinochet của Chile
lại được các chính phủ Mỹ hết lòng hậu thuẫn.
<div class="boxright200"><img
src="http://danluan.org/files/u23/henrykissinger.jpg" /><div
class="textholder">Henry Kissinger, người mang sứ mệnh truyền bá
Dân Chủ kiểu Mỹ hay tội phạm chiến tranh?</div></div>
Nhân vật cao cấp của chính phủ Mỹ chủ chốt trong vụ Chile
trên đây là Henry Kissinger, lúc đó là Cố Vấn An Ninh Quốc Gia.
Kế hoạch lúc đầu của Kissinger là vận động quân đội Chile
làm áp lực để quốc hội nước đó không tuyên thệ nhậm
chức cho Tổng thống Allende sau khi ông này đắc cử. Sự vận
động của CIA gặp trở ngại, vì tướng Rene Schneider tư lệnh
quân đội Chile không đồng tình. Vậy là Kissinger lệnh cho CIA
ám sát ông tướng này. Tuy vụ ám sát thành công, nhưng Allende
vẫn được quốc hội tuyên phong nhậm chức. Mãi về sau, CIA
mới móc nối được và giúp tướng Pinochet làm đảo chánh,
lật đổ tổng thống Allende, thiết lập nền độc tài quân
sự kéo dài hằng 17 năm trên toàn Chile. Năm 2001, người con trai
của tướng Shneider đã khởi kiện ông Kissinger ra toà án Mỹ
về tội mưu sát cha mình. Vụ kiện mới vừa khởi sự thì vụ
9/11 xảy ra, và vậy là vụ án chìm xuồng! Trong cuộn phim tài
liệu tựa đề The Trials of Henry Kissinger, dựa theo quyển sách
cùng tên của ký giả Christopher Hitchens, Kissinger đã phát biểu
một câu rất đáng chú ý để bào chữa gián tiếp cho các hành
vi của mình trong cương vị chính khách: <em>"The average person
thinks that morality can be applied as directedly to the conducts of the
states to each other as it can to the human relations. That is not all the
cases, because sometime statemen have to choose among evils."</em> Nghĩa là
chính khách nói chung, cũng như chính phủ Mỹ nói riêng, không
phải là người bình thường (average persons), mà là những biệt
lệ (exceptionalism), và đạo đức không áp dụng được trực
tiếp cho mối quan hệ giữa các quốc gia như thường được áp
dụng cho các mối quan hệ nhân sinh giữa cá nhân với nhau!
Thiết nghĩ đó là một câu nói đáng suy ngẫm, tiêu biểu nhất
cho quan điểm chính trị Quyền lực (power politics) trong quan hệ
quốc tế; một sự nhắc nhở cần thiết cho những ai vẫn chưa
rũ bỏ được thói quen lượng định các vấn đề chính trị
quốc tế qua lăng kính đạo đức.
Năm 1980 chính phủ cũng đã Mỹ hậu thuẫn chế độ độc tài
ở Honduras và ở El – Salvador, giúp huấn luyện quân sự cho
các đội Death squads của các chính quyền độc tài của các
quốc gia đó để đàn áp những người đối lập đòi dân
chủ và bình đẳng xã hội.
Can thiệp của Mỹ chống lại các trào lưu đòi Dân Chủ của
các quốc gia Nam Mỹ trở lên mạnh mẻ và trắng trợn nhất là
dưới thời của Tổng Thống Ronald Reagan. Tiếng tăm nhất là
vụ Iran - Contras. Thời đó, năm 1986, Mỹ đã bí mật vi phạm
luật của chính mình (Arm Export Control Act) đem bán vũ khí cho
Iran lấy tiền đem giúp bọn phiến loạn Contras ở Nicaragua
chống lại chính phủ Dân Chủ Sandinista, là chính phủ đã
được bầu lên thay cho chế độ độc tài lâu đời Somoza,
của nước này. Nội vụ bị phanh phui, nhiều viên chức cao
cấp của chính phủ Reagan đã bị truy tố. Chính phủ Reagan
cũng dính líu vào nội tình ở El Salvador, giúp huấn luyện các
Death Squads nổi tiếng ở đó. Lý do được dùng để biện minh
cho những can thiệp trên đây của chính phủ Reagan là để ngăn
chận ảnh hưởng và sự phát triển của chủ nghĩa Cộng Sản
vào các quốc gia Nam Mỹ, vùng đã từng được gọi một cách
khinh thị: Backyard (sân sau) của Mỹ.
Gần đây nhất là âm mưu của CIA lật đổ tổng thống Hugo
Chavez của Venezuela, một tổng thống dân cử theo đúng mẫu
mực dân chủ hiện đại. Vụ đảo chánh thất bại ở Venezuela
năm 2002 là một việc làm bẽ mặt cho chính phủ Bush, nhưng
lại là một vinh quang cho Hugo Chavez. Cũng như vài tổng thống
dân cử khác ở Nam Mỹ, Hugo Chavez không chấp nhận việc để
nền kinh tế của quốc gia mình lệ thuộc vào các nhà tư bản
Mỹ và vào đường lối kinh tế của Toà Bạch Ốc; muốn tìm
cách để có một nền kinh tế độc lập hơn nhằm hổ trợ cho
việc san bằng những bất công xã hội. Venuzuela của Chavez là
một nước xuất cảng dầu hoả rất quan trọng và thị
trường chính là Mỹ. Những cải cách kinh tế của Chavez đụng
chạm lớn đến quyền lợi của giới tư bản bản địa cũng
như tư bản ngoại quốc, và tất nhiên là không được lòng
chính giới Mỹ. Giới truyền thông Mỹ không ngớt lời công
kích Hugo Chavez. Vậy rồi, phe hữu ở Venezuela biểu tình, bắt
cóc Chavez và phao tin là ông ta từ chức, một viên chức thân
thiện với Mỹ được đưa lên thay thế làm tổng thống
Venezuela. Báo chí Mỹ và cả phát ngôn viên chính phủ Mỹ loan
tin về cuộc đảo chánh đó với nỗi hân hoan. Nhưng chỉ 48
tiếng đồng hồ sau, hàng trăm ngàn người dân Venezuela biểu
tình bạo động, không tin rằng Chavez thật sự muốn từ chức,
đòi phe đảo chánh phải giao trả Chavez và phục chức cho ông
ta. Phe đảo chánh yếu thế, quân đội lại ngã về phía dân
chúng, cuối cùng đành đưa Chavez trở về lại thủ đô, và
ông ta đã trở lại chức vụ trong vinh quang với lời thề sẽ
hết lòng đem cuộc đời còn lại phục vụ nhân dân Venezuela,
những người đã cứu mạng Ông.
Cả đối với các quốc gia Trung Á cũng vậy, chính sách Mỹ
cũng cùng một đặc điểm như trên; nghĩa là không mấy quan
tâm đến nguyện vọng của đa số dân chúng ở các quốc gia
đó hay vấn đề Dân Chủ, mặc dù công khai thì hệ thống
truyền thông Mỹ không ngớt cổ súy cho Tự Do và Dân Chủ với
các cuộc cách mạng màu (color revolution) hoa mỹ; nhưng thực tế
thì khác. Từ Turkmenistan với nhà độc tài Niyazov, rồi đến
Uzbekistan với nhà độc tài Karimov; hoặc Kazakhstan với Nazarbayev
khét tiếng, v.v…Ở những quốc gia đó, các chính phủ Mỹ, tuy
ngoài miệng hô hào Dân Chủ, đã không ngừng ủng hộ cho các
nhà độc tài đó, bao lâu họ vẫn còn chấp nhận đi vào quỹ
đạo kinh tế và chính trị toàn cầu của Mỹ.
Tóm lại, việc cho rằng các chính phủ Mỹ luôn duy trì vai trò
truyền bá và bảo vệ Dân Chủ - Tự Do là một huyền thoại
hơn là một thực tế. Tất nhiên vì những lý do tế nhị,
không một viên chức cao cấp nào của các chính phủ Mỹ công
khai thừa nhận sự thật về tính nước đôi (double standard)
trong chính sách của mình đối với vấn đề Dân Chủ. Nhưng
ở các cấp thấp hơn, nhiều người đã thẳng thắn thừa
nhận. Chẳng hạn Phillip Agee, một cựu viên chức CIA nói nguyên
văn: <em>"In CIA we didn't give a hoot about Democracy. I mean it was
fine if a government was elected and would cooperate with us; but if it
didn't then Democracy didn't mean a thing to us and I don't think it
means today."</em> (Ở cơ quan CIA, chúng tôi không mảy may quan
tâm về Dân Chủ. Tôi nghĩ rằng cũng tốt thôi nếu một chính
quyền là do dân bầu và hợp tác với chúng tôi; nhưng nếu
chính quyền đó không hợp tác, bất kể là trước đó hay
hiện nay, thì Dân Chủ chẳng còn có nghĩa gì đối với chúng
tôi cả).
Một cựu viên chức khác của CIA, thiếu tá D'Arbuisson, người
từng phục vụ ở El-Salvador vào đầu thập niên 1980s, khi
được hỏi lấy quyền gì, CIA và chính phủ Mỹ can thiệp vào
nội bộ các nước Nam Mỹ, như El Salvador, Nicaragua, Ông đã
trả lời đơn giản là vì lợi ích an ninh quốc gia (national
security interests) (của Mỹ), D'Arbuisson nói tiếp, nguyên văn:
<em>"We'll intervene whenever we decide it's in our national security
interests to intervene</em>" (Chúng tôi can thiệp bất cứ lúc nào
chúng tôi xét thấy rằng quyền lợi an ninh quốc gia của chúng
tôi buộc phải làm).
Và ngay cả ở cấp cao nhất, đôi khi họ cũng hé lộ ra phần
nào động cơ thật sự đằng sau các bình phong về giá trị lý
tưởng như Dân Chủ và Nhân Quyền của việc can thiệp vào
một quốc gia khác. Chẳng hạn Tổng thống Obama, trong bài diễn
văn đọc vào ngày 28/3 năm nay về vấn đề Libya, đã có lúc
nói rằng: <em>"we must always measure our interests against the need for
action; never hesitate to use our military swiftly, decisively and
unilaterally when necessary to defend our people, our homeland, our allies
and our core interests"</em> (Chúng ta phải dùng quyền lợi làm
thước đo cho nhu cầu hành động của mình;không ngần ngại
dùng quân sự một cách cấp kỳ, quyết liệt và đơn phương
khi cần để bảo vệ người, lãnh thổ, đồng minh và lợi ích
thiết cốt của chúng ta). Cũng trong bài diễn văn đó, Obama
nhấn mạnh thêm rằng: <em>"Though our safety is not directly
threatened, but our interests and values are"</em> (Mặc dầu đôi lúc
tuy sự an toàn của chúng ta không trực tiếp bị đe doạ, nhưng
quyền lợi và các giá trị của chúng ta). Đối với Libya, Obama
khẳng định: <em>"America has an important strategic interest in
preventing Gaddafi from overrunning those who oppose him"</em> (Hoa kỳ
có lợi ích chiến lược quan trọng trong việc ngăn không cho
Gadhafi đè bẹp được những kẻ chống lại Ông). Tắt lại,
là các chính phủ Mỹ can thiệp không phải vì Dân Chủ, mà là
để bảo vệ quyền lợi của chính nước Mỹ; và trong trường
hợp Libya là để giúp che chở cho phe phiến loạn, đánh đổ
Gadhafi nhằm đạt được những đổi thay chính trị có lợi cho
mình và đồng minh của mình. Dân Chủ, trong trường hợp đó
và những trường hợp tương tự khác, chỉ là tấm bình phong
trang trí, là chiêu bài tuyên truyền, không hơn không kém!
Có ít nhất 3 giả định về những biến động hiện nay ở
Trung Đông và Bắc Phi. Giả định đầu tiên cho rằng đây là
một cuộc cách mạng với sự hưởng ứng của đông đảo dân
chúng chống lại các chính quyền độc tài thối nát hiện nay.
Giả định thứ hai là những cuộc cách mạng này có một mục
đích chung là tạo lập một xã hội dân chủ. Giả định thứ
ba cho rằng xã hội dân chủ mà đông đảo dân chúng mong muốn
là một hệ thống lập hiến theo khuôn mẫu các giá trị dân
chủ Tây phương.
Sự thật thì ở Ai Cập, chẳng hạn, chỉ có một bộ phận
nhỏ dân chúng nổi dậy biểu tình. Số lượng tiểu thương và
thợ thuyền tham gia so ra không đông đảo bằng cuộc nổi dậy
của dân Iran năm 1979. Và tuy người biểu tình có đòi hỏi Dân
chủ, nhưng không có gì rõ ràng là họ đòi hỏi loại Dân Chủ
- Tự Do (liberal democracy) như mô hình của Tây Phương. Nhớ lại
ở Iran, cuộc cách mạng năm 1979 tuy đã tạo ra một chế độ
Cộng hoà Hồi giáo dân chủ hơn rất nhiều, nhưng vẫn là
không là một nền Dân chủ - Tự Do như của Âu Mỹ. Và tuy
thực tế thì Mubarak đã bị loại, nhưng không có gì chắc
chắn rằng chế độ chính trị ở đó sẽ thay đổi hoàn toàn,
bởi vì quân đội vẫn nắm giữ toàn bộ quyền hành và các
chính đảng đối lập, ngay lúc này, vẫn chưa hoàn toàn được
tự do hoạt động. Cũng chưa có dấu hiệu gì cho thấy tình
hình sinh hoạt của các chính đảng và đoàn thể đối lập
sẽ khá hơn trong tương lai gần.
Còn ở Bahrain, rõ ràng đa số dân chúng thuộc về hệ phái
Shiite, căm ghét chính quyền do thiểu số theo hệ phái Sunni nắm
giữ từ mấy chục năm qua. Họ muốn có tự do bầu cử để
có thể, nhờ vào số đông của lá phiếu, giành chính quyền
về tay hệ phái của mình. Việc liệu đa số người dân Shiite
đó có muốn tạo lập một thể chế Dân chủ - Tự do phù hợp
với định nghĩa về Nhân quyền của LHQ hay không vẫn còn chưa
có câu trả lời. Điểm khác đáng chú ý là chính phủ Mỹ cho
đến nay đã không hề có một phản đối mạnh mẽ nào đối
với sự đàn áp người biểu tình ở Bahrain cũng như sự can
thiệp thô bạo của Saudi Arabia đối với đòi hỏi dân chủ
của người biểu tình tại đó. Việc Saudi Arabia ngang nhiên
đưa quân đội vào giúp đàn áp người biểu tình ở Bahrain
không những đã được Mỹ mà cả Liên Hiệp Quốc cùng làm
ngơ!
Đến đây có thể sẽ có thắc mắc vậy tại sao Dân Chủ vẫn
luôn được các chính phủ Mỹ và các cường quốc Tây Phương
đặt ra như tiêu chuẩn hàng đầu trong chính sách đối ngoại
của họ. Và tại sao Dân Chủ luôn đi song song với Kinh tế
Thị trường? Có mối liên quan hữu cơ nào chăng?
Những vấn đề nêu trên rất đáng cho chúng ta, đặc biệt là
những người luôn nuôi dưỡng trong lòng niềm hy vọng rằng
Tây Phương hào hiệp sẽ giúp mang đến Dân Chủ cho Quê hương
mình, suy ngẫm.
California
<strong>Trương Đình Trung</strong>
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11187), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét