Trần Mạnh Hảo: Louis Aragon - một thế kỷ trong một con người

Luois Aragon vịn vào ba năm cuối cùng của thế kỷ XIX như vịn
vào đôi tay của người vú nuôi để đứng dậy và lon ton tập
đi. Aragon chính là tuổi thơ còn sót lại của thế kỷ thứ XIX
gửi tặng thế kỷ thứ XX một chú đại bàng sắp ra ràng của
nền văn học Pháp và thế giới.

<div class="boxright200"><img src="http://danluan.org/files/u23/aragon.jpg"
/><div class="textholder">Louis Aragon (1897 - 1982)/Nguồn ảnh:
devoir-de-philosophie.com</div></div>

Chú đại bàng tơ này được sinh ra từ đôi cánh vĩ đại của
chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực Pháp. Là đứa con
tinh thần chính hiệu của thế kỷ Hugo và Balzac, nhưng trong
cuộc đời thực, Aragon hầu như lại là một đứa con hoang.
Suốt tuổi thơ và tuổi thanh niên, nỗi ám ảnh, day dứt, khổ
đau về thân phận, về nguồn gốc, về cha mẹ... đã đầy ải
tâm hồn Aragon như Satan đầy ải con người nơi địa ngục.
Ngay từ khi tập nói, Aragon đã phải gọi bà ngoại là mẹ
nuôi, gọi chính mẹ ruột mình là chị nuôi.


Năm 1917, trước ngày lên đường nhập ngũ, phải từ bỏ
trường y để lao vào cuộc chém giết khủng khiếp có tên là
Đại chiến thế giới lần thứ nhất, mẹ ruột ông dưới danh
nghĩa người chị nuôi Marguerite chợt gọi chàng trai Aragon lại,
thông báo một số bí mật ghê gớm về nguồn gốc xuất thân
của ông. Aragon chết lặng trong uất hận và thương mến, sung
sướng và đớn đau. Ông cảm thấy mình như vừa được chết,
được tái sinh, ôm chặt lấy mẹ như ôm một chiếc phao cứu
nạn trên biển cả. Cảm giác mãnh liệt, choáng váng, ngất
ngây phút thật sự có mẹ sau hai mươi năm hoài nghi với nỗi
mồ côi ấy như hoả diệm sơn ngùn ngụt cháy suốt cuộc đời
ông, tham dự vào mọi tình cảm và mọi đam mê sáng tạo nghệ
thuật nơi ông. Có lẽ cảm giác ấy sau này đã sống dậy,
thăng hoa, chuyển hoá trong một hình thức khác êm ái và ngọt
ngào hơn khi lần đầu vào năm 1928, Aragon gặp gỡ Elsa Triolet.
Mãi sau này, năm 1942, trước khi lìa đời, mẹ ông mới cho ông
biết hết bí mật về cuộc tình vụng trộm của cha mẹ ông
và thân thế người cha Louis André.

Trái đất có thể vẫn còn là kẻ mồ côi của vũ trụ, nhưng
ông không còn phải mồ côi mẹ nữa. Chừng như Aragon đã khóc
hôn mẹ để bước vào cuộc chiến làm anh lính cứu thương
ngoài mặt trận. Tuồng như ông vẫn là đứa con không cha,
đứa con hoang? Suốt tuổi thơ và tuổi thanh niên, Aragon luôn
phải lặn xuống bản thân mình như lặn xuống biển cả mù
tăm để truy tìm căn nguyên, nguồn gốc. Cuộc đời ông, nới
rộng ra là Paris quê hương, là nước Pháp, là nhân loại và
thời đại luôn luôn là một câu hỏi lớn quần thảo ông
nghìn cơn bão vò xé nội tâm

Ngay từ tuổi thơ, Aragon đã phải suy tư và quằn quại về ý
nghĩa tồn tại như chàng Hamlet. Những bi kịch cá nhân và gia
đình đã sớm đặt lên vai ông cây khổ giá của cả một thế
hệ sinh ra khi Thượng Đế và Socrate đã bị Nietzsche toan giết
chết. Thế hệ ấy đã bị hai cuộc chiến tranh thế giới tàn
bạo và khủng khiếp chặn hai đầu, cắt đứt quá khứ và
tương lai, như không thể còn lối thoát.

Sau hơn hai năm ngoi ngóp trong địa ngục châu Âu, năm 1919,
chiến tranh ném Aragon về lại Paris hoà bình. Con người vô hồn
mất phương hướng, bị chiến tranh làm dị dạng tâm hồn ấy
bỗng trở thành kẻ mồ côi tinh thần như một châu Âu thương
vong chợt mồ côi chủ nghĩa nhân văn quá khứ. Cả một thế
hệ thanh niên đi hoang như đàn gà con lạc mẹ. Aragon đã dễ
dàng ngả vào vòng tay của trào lưu văn nghệ đập phá, phủ
nhận sạch trơn mọi thành tựu nghệ thuật có tên là Dada, do
văn sĩ người Rumani Tristan Tzara (1896-1963) sáng lập tại Zurich -
Thụy Sỹ từ năm 1916. Sau đó, cùng với Paul Éluard, Aragon đã
từ bỏ nhóm Dada hũ nút để tham gia vào trường phái siêu
thực do Apollinaire (1880-1918) đặt tên và André Breton làm lý
thuyết gia với châm ngôn nổi tiếng là phải viết như một
cái máy tự động (écriture automatique).

Sau thời gian tôn thờ các vị thần của chủ nghĩa siêu thực
là Lautréamont, Freud, Nietszche... phủ nhận và chối bỏ ý thức,
chối bỏ hiện thực, coi vô thức là con đường duy nhất dẫn
đến cảm hứng nghệ thuật, Aragon hầu như đã bị thứ nghệ
thuật thôi miên này làm cho ma mị. Và có thể, nếu không có
lý tưởng và tình yêu hoà nhập trong một người đàn bà trần
thế sẽ đến cứu chuộc cuộc đời ông, biết đâu Aragon đã
phải chết đuối trên mặt đất, dù là mặt đất của Paris
hoa lệ đi nữa. Làm con cá thi ca bơi lội trong biển cả ảo
giác, dùng một thứ thực phẩm phi lý, quẫy lên những tiếng
quẫy quái dị cùng đường, Aragon chừng như không còn gì liên
hệ tới mặt đất của thực tại. Là một chiến tướng của
chủ nghĩa siêu thực Pháp, thế mà có lúc, buồn chán và tuyệt
vọng đeo đuổi ông, khiến nhiều khi Aragon toan tính tự sát.
Ông có thể đã vĩnh viễn chui vào hũ rượu siêu thực và
không thể nào tỉnh dậy để thoát ra khỏi cái thế giới lên
men, thoát khỏi một thứ nhân loại đã bã ra, ngấu xuống,
bốc hơi để hoá cồn chín mươi độ ấy nếu không có chuyện
cuối năm 1928 gặp Elsa Triolet (1896-1970) - em vợ nhà thơ Nga Xô
viết Maiacovxki.

Elsa, người đàn bà Nga gốc Do Thái chính là cột mốc tái sinh
lớn nhất cuộc đời Aragon như ông từng viết: <em>"Anh quả
thật đã sinh từ môi ấy/ Cuộc đời anh khởi sự tự em
đây"</em>. Elsa với mái tóc vàng tĩnh vật Levitan kiêu kỳ,
lộng lẫy, chợt đổ xuống hồn người đàn ông siêu thực
Pháp toàn bộ cái hiện thực vô bờ bến của mùa thu Nga vàng
ngập lụt chân trời, ngập lụt cả tâm hồn Aragon chất vàng
mười trang trọng Taiga. Elsa với đôi mắt xanh thẳm khôn cùng
của những thảo nguyên Nga vô tận đã vây bủa chàng thi sĩ
Pháp, như thể Aragon vừa rơi xuống đáy cùng của thế giới,
nơi chỉ có tình yêu và thi ca kết hợp lại thành bài ca bất
tử.

Tưởng là cuộc tình sét đánh làm ông ngất đi trong mê dại
điên cuồng, trái lại, đã thức tỉnh ông, lay ông dậy sau
giấc hôn mê siêu thực, siêu hình, siêu giác. Cũng như hai
người đàn bà Nga khác là Gala và Olga Khklova tác động thôi
thúc hai thiên tài hội hoạ là Salvador Dali và Picasso phát
triển; Elsa không chỉ là nguồn cảm hứng, nguồn hạnh phúc,
nguồn thơ của Aragon mà còn là toàn bộ thế giới mới ông
khám phá ra thông qua tâm hồn - thể xác người đàn bà sẽ là
vợ ông cho tới chết. Từ khi được Elsa hoá, Aragon dần dần
đã trở lại vườn Eden có thực của con người, hoà nhập con
người cá nhân vào con người xã hội như tâm hồn ông hoà vào
tâm hồn người đàn bà Nga theo kiểu nước sông Volga hòa vào
biển Caxpi. Khoảng năm 1930, 1931 Aragon chia tay với trào lưu siêu
thực để trở về với chủ nghĩa hiện thực khi chủ nghĩa
siêu thực đã suy đồi, đã bế tắc cùng cực, đã bị chế
giễu là chủ nghĩa hũ nút (hermétisme).

Đây là giai đoạn có tính cách quyết định tới toàn bộ sự
nghiệp khổng lồ của Aragon kể cả tiểu thuyết và thi ca, khi
sau này ông đóng góp cho văn học Pháp và văn học thế giới.
Đây cũng chính là bài học nhãn tiền cho những nhà hậu siêu
thực khác từng đua đòi vô thức hoá, phi lý hoá, suồng sã
hoá nghệ thuật, kể cả ở nước ta những năm gần đây. Năm
1934, dưới bóng mát của tình yêu Elsa, Aragon đã bắt đầu
viết bộ tiểu thuyết đồ sộ là Thế giới hiện thực, tiếp
tục truyền thống lớn lao của chủ nghĩa hiện thực Pháp với
thiên tài Balzac và những đỉnh cao Stendhal, Flaubert, Maupassant,
Zola... của thế kỷ trước.

Cùng với một vài nhà văn khác, hầu như Aragon đã bắc được
cây cầu qua hai hố thẳm do hai cuộc chiến tranh thế giới để
lại, đặng nối liền hiện tại khủng hoảng sụp đổ với
truyền thống của chủ nghĩa hiện thực Pháp trong quá khứ.
Phong trào Dada và siêu thực sinh ra bởi tuyệt vọng chiến tranh,
từng tìm cách cắt đứt mình với truyền thống, chối bỏ
chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực thế kỷ thứ XIX.
Tưởng chủ nghĩa hiện thực đã hết thời, đã không còn
đất sống. Nhưng chủ nghĩa hiện thực hầu như đã được
phục sinh trong bộ thiểu thuyết lớn lao Thế giới hiện thực
của Aragon. Nhiều người cho rằng chính tiểu thuyết mới là
sự đóng góp lớn nhất của ông cho văn học Pháp. Bởi thông
qua hàng ngàn trang sách ấy, nước Pháp trong số phận những
nhân vật, những con người bị thế giới tư bản ném vào
chiến tranh, ném vào công xưởng, ném vào cuộc đời như
người ta ném gà con cho diều quạ. Hai cuộc chiến tranh thế
giới tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại do chủ nghĩa tư
bản sinh ra ở nửa đầu thế kỷ hai mươi giống như hai cái
bìa bằng khói lửa và đau thương của bộ tiểu thuyết hiện
thực này. Hầu như toàn bộ máu và nước mắt mồ hôi, niềm
phẫn nộ và bi thương, sự thống khổ và dằn vặt tìm
đường, ý chí quật cường giải phóng ách phát xít của châu
Âu nói chung và nước Pháp nói riêng trong thế kỷ XX đều có
mặt nơi bộ tiểu thuyết trường thiên này.

Có thể nói đây chính là một Tấn trò đời mới, như thế
kỷ XIX từng hiện lên dưới ngòi bút hiện thực của thiên
tài Balzac. Tên các cuốn tiểu thuyết của Aragon trong bộ Thế
giới hiện thực xuất hiện liên tục làm sôi nổi văn đàn
Pháp với những: Chuông thành Bal (1934), Những khu phố đẹp
(1936), Những người du lịch trên hoàng xa (1938), Aurélien (1944),
Những người Cộng sản (1949-1951), Tuần lễ thánh (1958)... Hàng
trăm nhân vật của bộ tiểu thuyết theo những lộ trình bi
kịch của số phận, kéo nhau vào văn học theo hành trình sống
và chết, yêu thương và căm thù. Những số phận bị đẩy vào
chân tường ấy, may mắn thay, dưới ngòi bút nhân đạo chủ
nghĩa của Aragon, dù là tăm tối, bị dày vò đủ đường, vẫn
giữ được niềm tin vào tương lai nhân loại, vào con đường
giải phóng đang chờ họ. Đấy là nét mới mẻ do phương pháp
sáng tác hiện thực mới mang lại cho ngòi bút tiểu thuyết
Aragon so với chủ nghĩa hiện thực quằn quại và khốc liệt
của quá khứ. Trong đống tro tàn của tuyệt vọng châu Âu do
hai cuộc đại chiến thế giới gây ra, chừng như qua trước
tác của Aragon, con phượng hoàng của hy vọng đã hồi sinh và
vỗ cánh.

Bên cạnh tiểu thuyết và phê bình văn học ra, Aragon còn có
một sự nghiệp thi ca rất lớn lao ngay từ thời ông còn là
một trong những người đề xướng ra trào lưu siêu thực.
Nhiều người cho rằng thơ Aragon đồ sộ và hay hơn cả các thi
sĩ đồng thời như P. Eluard, J. Pévert, Saint-John Perse. Có thể
nói Aragon là nhà thơ tình lớn nhất thế kỷ XX không chỉ trong
văn chương Pháp mà còn cả trong văn chương thế giới. Nàng
Elsa thông qua thi ca của Aragon như được biến thành Eva, thành
biểu tượng cho cái đẹp và yêu thương của toàn thế giới.
Chưa bao giờ hình ảnh người đàn bà được vinh danh, được
tụng ca như hình ảnh của tạo hoá, hình ảnh của chân thiện
mỹ như trong thơ tình của Aragon. Đôi mắt xanh, mái tóc vàng,
bàn tay thon dài và thân hình kiều diễm của Elsa đã trở thành
thi ca, thành xúc cảm của hàng trăm trang diễm lệ.

Nàng thơ Elsa không chỉ là tình cảm thẩm mỹ mà còn là tư
tưởng thẩm mỹ, là trí tuệ được lãng mạn hoá của Aragon.
Những dòng thơ cuồn cuộn thác chảy hồn ông về phía chân
trời của các trưởng lão, của những bí mật tâm hồn người
đàn bà mà ngoài thi ca ra không có gì có thể tới được. Ngay
trong thời kỳ chống phát xít Đức, thơ tình của Aragon đã
trở thành thơ chiến đấu. Cái đẹp của Elsa, cái tuyệt mỹ
của nghệ thuật đã trở thành vũ khí diệt quân thù. Trong
cuộc chiến tranh vệ quốc của nhân dân Pháp, cùng với Éluard,
Aragon đã trở thành nhà thơ chiến đấu lớn nhất và được
tôn vinh nhất. Đây chính là ví dụ nhãn tiền chống lại
trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật (cực đoan) và những
quan niệm lệch lạc khác phủ nhận tính dấn thân của văn
học. Aragon đã đóng góp rất lớn cho sự phát triển của
nghệ thuật thi ca Pháp bằng những thủ pháp tích cực của
trào lưu siêu thực, hoà trộn siêu thực vào hiện thực, hiện
thực vào lãng mạn như ông và Elsa đã hoà hợp lại trong tình
yêu văn nghệ.

Có lẽ, ở bên kia thế giới, Aragon đang cùng Elsa bay lượn như
những tinh cầu của cái đẹp. Cái chết, sự cô đơn, niềm hư
vô của thế giới như không còn trọng lượng với hồn thơ
trùm thế kỷ này. Trong lúc niềm tin vào chân thiện mỹ, tin
vào tương lai nhân loại của ông đang bị thời cuộc hiện nay
thử thách, nếu chợt Aragon sống dậy, chắc chắn sẽ đọc to
câu thơ thuở nào ông từng viết: <em>"Nếu phải đi trở
lại/Tôi vẫn đi lối này"</em>. Vâng, Aragon, một thế kỷ trong
một con người, một thi hào, một văn hào Pháp mãi mãi là
biểu tượng cho cuộc chiến đấu thiêng liêng của nhân loại
chống lại cái xấu xa, tàn bạo, xác lập một thế giới tốt
đẹp hơn, nhân ái và bao dung hơn. Nghệ thuật biểu hiện cái
đẹp, hướng tới chân thiện mỹ nhưng cái đẹp luôn đồng
hành cùng cái có ích, cái tốt chứ không phải cái vô nghĩa và
phi lý. Phải chăng điều này chính là thông điệp Aragon gởi
đến chúng ta, nhất là trong những năm gần đây, sự tìm tòi
cực đoan của một thiểu số lớp trẻ nào đó trong thẩm mỹ
thi ca hầu như thiếu một định hướng đúng?

<strong>Trần Mạnh Hảo</strong>

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11204), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét