Phạm Xuân Nguyên - Trí thức Việt Nam, nhìn từ quyền lực: có hay không có?

Trước khi bàn vào vấn đề được nêu thành câu hỏi ở đề
bài, tôi muốn kể lại một câu chuyện còn nóng hổi sau đây.
Chuẩn bị cho báo Tết Mậu Tý 2008, báo Sài Gòn Tiếp Thị
(SGTT) nảy ý làm một cuộc tọa đàm về vai trò của trí thức
trong không gian tư tưởng tinh thần của xã hội ta nhân nhìn
lại cuộc sống đất nước cả năm 2007. Khách mời tọa đàm
có nhà văn Nguyên Ngọc, nhà sử học Dương Trung Quốc, nhà khoa
học Phạm Duy Nghĩa, và tôi, nhà nghiên cứu văn học Phạm Xuân
Nguyên. Chúng tôi đã trò chuyện chân tình, cởi mở, thẳng
thắn, mỗi người từ tầm hiểu biết và góc nhìn của mình,
về sứ mạng và vai trò của trí thức đối với sự tồn tại
và phát triển của dân tộc từ xưa tới nay, tập trung chính
vào thời hiện tại. Hai nhà báo của SGTT (Huy Đức, Mỹ Lệ)
đã ghi chép, ghi âm những ý kiến của các vị khách, sau đó
chuyển thành bài viết. Trên số Tết 2008 của báo SGTT bài này
chỉ được đăng không đầy đủ với nhan đề "Không gian
mới của trí thức", nhưng đã có tiếng vang. Và rồi trong
cuộc giao ban báo chí tháng 2/2008 của Bộ Văn hóa – Thể thao
– Du lịch, bài viết đó đã bị nhắc nhở, phê bình.
(<em>Bản ghi đầy đủ ý kiến trong cuộc tọa đàm với nhan
đề "Để dân tộc ngẩng cao đầu" đã được đưa lên blog
"Osin" của nhà báo Huy Đức, nhưng blog này sau đó đã bị
tấn công</em>).

Như thế là thế nào? Thay vì được khen ngợi và khích lệ vì
đã đề cập kịp thời một vấn đề có thực trong cuộc
sống mà Đảng cũng đang quan tâm và đang chuẩn bị ra nghị
quyết thì báo SGTT lại bị buộc phải coi đó là một khuyết
điểm, sai lầm của mình. Có lẽ do những người làm báo đã
lắng nghe cuộc sống nói hơn là "<em>nghĩ trong những điều
đảng nghĩ</em>" theo tên một bài viết của nhà thơ Chế Lan
Viên thuở nào.

Tại cuộc tọa đàm đó tôi đã nói mấy ý sau. Theo tôi, ở
Việt Nam có những người trí thức nhưng chưa có tầng lớp
trí thức thực sự đúng nghĩa. Có những người trí thức
Việt Nam có nhân cách kẻ sĩ, nhưng rất ít người có tư cách
trí thức. Nhân cách kẻ sĩ là thừa hưởng truyền thống tiết
tháo của nhà nho. Tôi có nhắc lại quan điểm của cố giáo sư
Trần Đình Hượu (1925 – 1995), một nhà nghiên cứu tư tưởng
và văn hóa nổi tiếng, ông cho rằng theo hành trình của nhà nho
trong lịch sử, thì từ cuối thế kỷ XVIII đến nay, chúng ta
có các loại hình: nhà nho-tài tử, nhà nho-cần vương, nhà
nho-duy tân, nhà nho-tây học, nhà nho-cách mạng. Nho ở đây chỉ
một tính chất, một loại hình, bất luận hoàn cảnh xuất
thân và học vấn, và có thể nói nó là xuyên/liên thời đại
nữa. Chất kẻ sĩ là sự khảng khái và bất chấp, bộc lộ
rõ và có tác động mạnh về mặt đạo đức. Tư cách trí
thức thì khác, đó là sự suy nghĩ độc lập và dám đi đến
cùng trong sự suy nghĩ của mình trên cơ sở học vấn tri thức
và khả năng tư duy khoa học, không chịu hệ lụy và ràng buộc
nào từ ngoại cảnh dù nhân danh gì. Tôi cho để trí thức
Việt Nam có thể lớn mạnh thành một tầng lớp đúng nghĩa và
có vai trò tích cực đối với xã hội thì chúng ta phải vận
hành một thứ văn hóa chính trị tham dự. Văn hóa chính trị
(political culture) là một quan niệm chỉ sự hành xử của
người dân đối với chính quyền, hay chính trị nói chung. Đó
là "Sự định hướng của các công dân của một quốc gia
đối với đời sống chính trị, sự nhận thức của họ về
tính hợp thức chính trị và các truyền thống của thực tế
chính trị" (<em>"The orientation of the citizens of a nation toward
politics, and their perceptions of political legitimacy and the traditions of
political practice"</em> – www.photius.com/countries/brazil/glossary/).
Có nhiều thứ văn hóa chính trị khác nhau tùy theo cấp độ và
kiểu loại tham dự chính trị cũng như tùy theo thái độ của
người dân đối với đời sống chính trị. Almond và Verba, hai
tác giả công trình nghiên cứu nổi tiếng về chính trị học
"Văn hóa dân sự" (The Civic Culture, 1963) đã nêu lên ba kiểu
văn hóa chính trị tinh (pure type) như sau:

- <span class="underlined-text">Kiểu giáo dân (Parochial):</span> Nơi
các công dân chỉ mơ hồ biết là có chính quyền trung ương
tồn tại và họ sống gần như không quan tâm gì đến các
quyết định của nhà nước.

- <span class="underlined-text">Kiểu thần dân (Subject):</span> Nơi
các công dân biết có chính quyền trung ương tồn tại và họ
phụ thuộc nhiều vào các quyết định của nó với rất ít
sự bất đồng, phản đối.

- <span class="underlined-text">Kiểu tham dự (Participant):</span> Nơi
các công dân có khả năng tác động đến chính quyền bằng
nhiều cách khác nhau và họ bị ảnh hưởng bởi việc đó.

Ba kiểu tinh này của văn hóa chính trị có thể kết hợp với
nhau, phối hợp những yếu tố đắc dụng của mỗi cái, tạo
thành văn hóa dân sự.

Bây giờ, "trước khi ngồi vào bàn hãy thống nhất khái
niệm", tôi xin trình bày sơ qua thế nào là "trí thức".
Chữ "<em>Intelligentsia</em>" mà ta dịch là "trí thức" gốc
từ Nga. Cách đây gần hai chục năm trên một tờ tạp chí Liên
Xô có một cuộc thảo luận bàn tròn về "Trí thức xưa và
nay". Tham gia thảo luận là các nhà đông phương học Liên Xô
hồi đó. Tôi xin trích dịch một số ý kiến nêu ra đây tham
khảo[1]. V. I. Maksimenko quan niệm trí thức: "<em>Đó là một
kiểu ý thức và đó cũng là một môi trường văn hóa xã hội,
nhờ đó ý thức này được sinh ra, được duy trì, được phổ
biến và được truyền lại cho thế hệ khác hay dân tộc khác.
Có thể có những quá trình xã hội-lịch sử mà trong lòng
chúng trí thức không những thể hiện mình ra, mà về nhiều
mặt còn có khả năng quy định chiều hướng đời sống của
dân tộc. […]. Trí thức bao giờ cũng có tính "quốc tế"
và tính "thế giới", nhưng không phải do sự đoạn tuyệt
mang tính chất hư vô chủ nghĩa với các mối quan hệ nền
tảng của mình, mà do các khát vọng của nó mang tính toàn nhân
loại và do nó không chấp nhận vai trò làm nhà tư tưởng cho
những quyền lợi phe nhóm, hạn hẹp. Vì thế nó không thể
tạo thành "giai cấp" cũng như không thể lập thành "đảng
phái": mọi mưu toan trên con đường này đều sẽ biến thành
sự tự bứt mình khỏi cuộc sống hiện thực làm khô cứng
giới trí thức</em>". Theo ông, tất cả mọi tấn kịch của
trí thức đều xa gần liên quan đến một mâu thuẫn nảy sinh
tự chính bản chất của trí thức: định hướng tự trị về
tư tưởng-cuộc sống-hoạt động và nhu cầu biến sự tự
trị đó thành cái được xã hội thừa nhận, điều này thể
hiện rõ nhất trong quan hệ với "quyền lực" và "nhân
dân". Nói chính xác hơn: "<em>Ở đâu các quan hệ này không
được ý thức, chúng ta có thể tha hồ tìm thấy các cấu trúc
trí tuệ phát triển cao, nhưng không tìm được trí thức. Trong
quan hệ với quyền lực, trí thức có thể đứng ở vị trí
hợp tác hay đối lập, đối thoại hay bác bỏ hoàn toàn, nhưng
có một điều nó không thể làm: trùng khớp với quyền lực
và biến thành một trong những hiện thân của nó mà vẫn giữ
được mình là trí thức</em>". G. S. Pomerants cho rằng
"<em>trước thời Phục Hưng của châu Âu… không có các nhà
trí thức theo nghĩa chặt chẽ của từ này. Chỉ có các tiền
trí thức. Họ xuất hiện cùng với triết học</em>". Ông theo
quan niệm của M. Buber là "<em>có hai kiểu người mang văn hóa
trí thức thay nhau bước ra tiền đài lịch sử. Kiểu "ổn
thỏa" thể hiện trong mình văn hóa như là hệ thống chức
năng chuẩn mực; kiểu "đặt vấn đề", ngược lại, –
đó là người mang sự khủng hoảng văn hóa, sự tả tơi, đổ
nát, và sự thay thế các hình thức của nó. Nhà tư tưởng
kiểu ổn thỏa, ngay dù có nghiên cứu triết học đi nữa, cũng
biến nó thành một khoa học hệ thống chuyên ngành (Aristotel,
Hégel). Nhà tư tưởng kiểu đặt vấn đề, giống như Hamlet,
tìm cách khôi phục cái thế giới bị "lung lay", "trật
khớp" (Pascal, Kierkegaard). Sự khác biệt giữa các thời đại
chỉ là ở mức độ ảnh hưởng của kiểu này hay kiểu kia mà
thôi</em>".

Điều thú vị là có sự phân biệt giữa "intelligent" và
"intellectual". Rất khó dịch hai từ này, gọi là "trí
thức" và "trí giả" có được chăng? Tôi cứ để ngỏ
cách dịch nghĩa, nhưng theo tôi, đây có lẽ là chỉ hai dạng
trí thức khác nhau (hay hai dạng khác nhau nối tiếp nhau của
trí thức) thuộc hai kiểu văn hóa khác nhau, có thể là dạng
Đông và dạng Tây. E. A. Torchinov đặt câu hỏi: "<em>Có phải
intelligentsia hiện diện như là dấu hiệu quan trọng của một
nền văn hóa này hay khác, hay tầng lớp này xuất hiện ở một
giai đoạn lịch sử nhất định nào đó, rồi sau biến mất
(được thay bằng, chẳng hạn, các chuyên gia hay các
"intellectual")? Có phải intelligent là người quá độ từ
người học giả trung đại sang người intellectual thời mới ở
châu Âu?</em>" Ông cho câu trả lời sẽ là khẳng định nếu
như không có thực tế Trung Quốc với tầng lớp nhà nho ở
đây. Theo ông từ nho gần với quan niệm về "intelligent"
của Nga hơn với quan niệm về "intellectual" của phương Tây.
Và mặc dù nhà nho chưa phải là trí thức theo đúng nghĩa của
từ này, nhưng đó là nền tảng cho trí thức có thể xuất
hiện khi có điều kiện thích hợp. A. I. Kobzev cho chữ nho là
bao gồm cả "intelligent" và "intellectual". Ông dẫn ý kiến
của nhà Trung Quốc học nổi tiếng người Anh J. Needam cho rằng
quan niệm "<em>công danh rộng mở cho người tài</em>" mà
nhiều người gắn với cuộc Đại Cách Mạng Pháp, thật ra
lại không phải xuất từ Pháp hay châu Âu nói chung, mà là từ
Trung Quốc. Thế kỷ XX các dân tộc châu Âu lấy thi cử để
tuyển viên chức, ấy là đã có ý dựa theo kinh nghiệm của
Trung Quốc. A. I. Kobzev cho rằng "intelligentsia" theo nghĩa
chuẩn mực và rộng nhất là tầng lớp người lao động trí
óc. Nhưng định nghĩa đó quá rộng, cần thu hẹp lại bằng
cách chỉ ra: một, cấp độ học vấn; hai, kiểu lao động trí
óc (sáng tạo, tự do, phi tôn giáo); ba, các quan niệm và phương
châm tư tưởng hệ quan trọng nhất (niềm tin vào sứ mệnh
riêng của mình, sự hướng theo những tư tưởng tiến bộ,
thái độ phê phán đối với truyền thống, sự đối lập với
quyền lực, lòng yêu dân); bốn, sự tự nhận diện của
intelligentsia với tư cách tự nó. A. I. Mezcheryakov chỉ ra bốn
sự khác biệt cơ bản giữa intelligentsia Nga và tầng lớp có
học Nhật Bản: "<em>1) mở / khép (về mặt xã hội; 2) chủ
nghĩa thế giới / chủ nghĩa quốc gia; 3) phản kháng / xu thời
(về mặt xã hội); 4) phá hủy / bảo tồn và phát triển
(truyền thống)</em>". Ông cho rằng sau khi hoàn thành thiên
chức lịch sử của mình, kiểu "intelligent" được thay bằng
kiểu "intellectual", đặc trưng cho kiểu sau này là
"<em>thuyết tùy thời, thái độ nhẫn nại và sự cân bằng
khôn khéo giữa truyền thống và cách tân</em>".

Gần đây hơn, năm 2000, V. A. Mau, một nhà nghiên cứu Nga, khi
tìm hiểu giới trí thức Nga để truy tìm nguyên nhân đảo lộn
của xã hội Nga thế kỷ XX, đã viết: "<em>Giới trí thức
không thể giống như những tên kẻ cắp trong vòng pháp luật
với quy chế là cấm hợp tác với chính quyền, cũng không thể
để chính trị bị thao túng bởi những kẻ con buôn và hám danh
lợi. Thiếu sự cạnh tranh từ bên ngoài, thiếu sự liên hệ
thường xuyên từ phía các trí thức, chính trị vẫn chỉ là
một lĩnh vực hoạt động của con người thiếu vắng những
giá trị và nguyên tắc nào đó</em>"[2].

Trong cuốn sách Người mất hướng (L'homme dépaysé), Tzvetan
Todorov, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng gốc Bungary sống
tại Pháp, đã đưa ra nhiều suy nghĩ về trí thức, nhất là
người trí thức "dépaysé". Trong một đề mục "Chính trị
của trí thức" ông viết: "<em>Trí thức là gì? Cá nhân tôi
dùng từ này chỉ với nghĩa sau: nhà khoa học hay nghệ sĩ (nhà
văn nằm trong phạm trù này) không chỉ đơn giản làm công
việc khoa học hay sáng tạo tác phẩm nghệ thuật thúc đẩy
sự nhận thức chân lý hay sự nảy nở cái đẹp, mà còn không
bàng quan với lợi ích xã hội, với các giá trị của xã hội
họ đang sống, do đó, tham gia vào cuộc tranh luận xoay quanh các
giá trị này. Trí thức theo quan niệm như thế của cái từ đó
là khác xa với nghệ sĩ hay nhà khoa học không quan tâm gì đến
phương diện chính trị hay đạo đức của sự nghiệp sáng
tạo của mình, cũng như khác xa với nhà truyền giáo hay nhà
chính trị chuyên nghiệp không có khả năng sáng tạo</em>".
Ông tán thành sự xác định của Montaigne phân biệt ba vị thế
đối với chân lý và các giá trị tinh thần: "<em>vị thế
của người hư vô chủ nghĩa (như cách chúng ta nói hiện nay),
những người từ chối tìm kiếm chúng; vị thế của người
giáo điều, những người đã tìm thấy chúng; và vị thế của
người nghiên cứu không mệt mỏi, những người tiếp tục tìm
kiếm ngay cả nếu như họ biết rằng sự tìm kiếm không đi
đến đâu cả. Ranh giới giữa loại người sau và người hư
vô chủ nghĩa mà hiện nay đặc biệt nhiều là rất lớn, bởi
nó được xác định bằng các mục đích cuối cùng. Ranh giới
giữa họ và người giáo điều mỏng manh hơn, bởi đây chủ
yếu liên quan đến các phương tiện để đạt mục đích:
người giáo điều có được giá trị nhờ vào truyền thống
(mang tính tôn giáo hay không) hoặc nhờ vào sự đốn ngộ
thoáng qua (từ lời lẽ của vị thủ lĩnh có phép mầu nhiệm
hay từ sáng tạo của nghệ sĩ thiên tài), còn người tìm kiếm
chân lý và các giá trị tinh thần có được chúng thông qua sự
nhận thức Vũ Trụ và thông qua sự đối thoại giữa mọi
người. Trí thức kiểu thứ ba, không giáo điều không hư vô,
làm việc cả với chân lý, cả với các giá trị tinh thần,
điều đó do chính thiên chức của nó gây nên; hơn thế ở cả
hai mặt nó đều đạt được sự hài hòa, bởi nó không tin
vào những chân lý có sẵn, không tin vào các giá trị chỉ dựa
trên hành động đức tin. Kiểu trí thức như thế, ngược lại
với hai kiểu kia, không phải là lỗi thời</em>"[3].

Karatani Kòjin, giáo sư văn học ở đại học Hosei, Tokyo (Nhật
Bản), trong một cuộc trao đổi với nhà nghiên cứu Trung Quốc
Wang Hui "Nghĩ về chủ nghĩa toàn cầu từ góc nhìn Mácxít"
(Thinking about Globalism from a Marxian Perspective), có nói thế này:
"<em>Từ hồi trẻ đến nay, nhà tư tưởng tôi đọc nhiều
nhất là Marx. Tuy nhiên, mãi đến tận gần đây tôi vẫn không
coi mình là người mácxít. Trong "Hệ tư tưởng Đức" và
các tác phẩm khác, Marx phê phán hệ tư tưởng và các nhà tư
tưởng hệ, nhưng ở Nhật Bản, chữ "hệ tư tưởng" này
thường được dịch là "ý thức sai". Cách dịch đó khiến
tưởng như là chắc có một "ý thức đúng", đấy không
phải là quan điểm của Marx. "Hệ tư tưởng" là niềm xác
tín cho rằng ý thức riêng của người ta là đúng. Marx nói
rằng nhà tư tưởng hệ là người không thể phân biệt được
giữa cái người ta nghĩ, cái hiện có, và cái hiện người ta
đang làm. Trong đời sống thường ngày, ai cũng hiểu sự khác
nhau giữa cái người ta nghĩ và cái người ta hiện có, nhưng
đấy không phải là trường hợp các nhà tư tưởng hệ. Họ
cứ khăng khăng cái họ nghĩ là cái hiện có thực</em>".[4]

Edgar Morin, nhà khoa học xã hội Pháp, cho thuật ngữ "trí
thức" gồm có ba điều: 1) Chỉ người hoạt động trong lĩnh
vực văn hóa, tinh thần; 2) Các hoạt động đó có tác động
đến đời sống chính trị và xã hội của xã hội quanh họ;
và 3) Loại người này có ý thức tuân theo các nguyên lý phổ
quát thích hợp. Điểm thứ ba trong định nghĩa "trí thức"
của Edgar Morin nghĩa là thế nào? Đó có nghĩa là trí thức
phải có được tính bất đồng sáng tạo và tinh thần phê
phán, phải duy trì được "độ căng" giữa lý tưởng và
thực tế. "Bản chất tuyệt đối của các lý tưởng của
trí thức ngăn họ có những thỏa hiệp nửa vời, "nửa sự
thật", mà các nhà chính khách thấy khó tránh khỏi"[5].

Những cách hiểu và định nghĩa về trí thức nêu trên có thể
cho thấy một quan niệm thống nhất: trí thức là người có tri
thức và biết suy nghĩ khác biệt và độc lập. Trí thức, theo
tôi, là người bằng cái đầu của mình giữ vị thế độc
lập trong xã hội, là người độc lập bằng cái đầu của
mình, và là người chỉ truy cầu một mục đích: chân lý. Có
tri thức, học vấn – xét ở điều kiện cần này, chúng ta có
trí thức. Biết suy nghĩ khác biệt và độc lập – xét ở
điều kiện đủ này, chúng ta chưa có trí thức. Trí thức
Việt Nam, cho phép tôi được nói thẳng nói thật, mang bản
tính thụ động, xu thời và hèn nhát cố hữu. (Ấy vậy mà
trí thức thuộc địa còn là khá hơn trí thức xã hội chủ
nghĩa về tư cách trí thức của mình). Nguyên nhân ở đây là
từ sự sinh thành của giới trí thức Việt Nam và từ môi
trường xã hội trong đó trí thức hoạt động. Nhưng hôm nay
chúng ta không nói về sự sinh thành mà nói về môi trường
hoạt động của trí thức.

Cuộc hội thảo này bàn về việc xây dựng một chính sách
của Đảng đối với trí thức ở thời điểm hiện nay. Thực
chất đây là bàn về quan hệ giữa giới cầm quyền và giới
trí thức nhìn từ góc độ quyền lực. Thiết nghĩ những
điều trình bày trên đây về bản chất của trí thức đã có
thể giúp xác định Đảng cần phải làm gì để có được
quan hệ đúng và tốt đối với trí thức. Tôi tóm tắt cụ
thể là Đảng cần:

- xóa bỏ mọi định kiến sai lầm và tác hại về giới trí
thức.

- nghiên cứu giới trí thức với tư cách một tầng lớp xã
hội như là đối tượng khoa học.

- tôn trọng giới trí thức với tất cả sự khác biệt bản
chất của nó.

- tạo hoàn cảnh tự do và dân chủ cho giới trí thức làm công
việc trí thức.

- chịu đựng sự phản biện xã hội ngày càng đóng vai trò
quan trọng trong một xã hội dân sự và dân chủ của giới trí
thức.

Trong thời hậu hiện đại hiện nay, mà bản chất là "hoài
nghi các đại tự sự" (J-F. Lyotard), trí thức càng phải
được hành xử và hành xử được như là những người nghĩ
và nói chứ không phải là những người nghe, nhất lại là nghe
thụ động và một chiều. Đảng phải biết lắng nghe trí
thức, nghe với sự thành tâm và hiểu biết chứ không phải
nghe giả vờ, nghe chỉ để nghe rồi bỏ đấy, để thực sự
thay đổi mình trong sạch và vững mạnh và để biết mình cần
làm gì cho sự nghiệp lớn của dân tộc mà đảng đã nhận
lấy sứ mệnh đảm đương.

Hà Nội 3. 2008

(Tham luận tại cuộc hội thảo về trí thức do Ban tuyên giáo
Trung ương tổ chức, tháng 3/2008).

Tác giả gửi cho Quê choa

________________

[1] Tạp chí "Các dân tộc á Phi" (Narody Azii i Afriki), số
2/1990, tr. 39-56.

[2] V. A. Mau. Trí thức, lịch sử và cách mạng, bút ký về
cuộc sống của nước Nga hiện nay, tạp chí Thế giới mới
(Novy Mir) số tháng 5/2000, tr. 140 – 167.

[3] Tzvetan Todorov. L'homme dépaysé. 242 p., Seuil, Paris. 1996.

[4] Xem Website: http://www. karataniforum.org/

[5] Dẫn theo Yue Daiyun. Comparative Literature and China, Peking
University Press, 2004, tr. 211.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/11421), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét