Nói dối và...

<div class="special_quote"><strong>Văn Công Hùng:</strong> Mình không
chủ trương lật lại lịch sử, bởi có những điều cũng
chỉ... lịch sử mới lý giải được lịch sử, còn bao giờ
thế hệ này, trong đó có mình, trở thành lịch sử thì chưa
biết. Song có những điều mà do chính con người hôm nay, trong
một khoảnh khắc nào đó, điều kiện nào đó, phải bắt
buộc bịa tạc, và giờ họ công bố ra, thì không thể không
làm ngơ được. Từ hồi sinh viên mình đã phản biện chuyện
đi bộ vĩ đại của vua Quang Trung trong việc ra bắc đánh
giặc, rồi chuyện cống vải. Mới đây nhất, mình đọc 1 tài
liệu cho rằng voi của quân Tây Sơn đã tham gia trận Rạch
Gầm- Xoài Mút. Huhu, nếu không lên tiếng thì chỉ thời gian sau
nữa, người ta sẽ đào thấy xương... voi ở đấy...

Vậy nên mình đồng tình và chia sẻ với bài viết sau đây
của nhà thơ Trần Nhuận Minh, và mình đã xin phép anh Trần
Nhuận Minh và Trần Đăng Khoa lấy về từ blog Trần Đăng
Khoa.</div>

<h2>BÀI THƠ NAM QUỐC SƠN HÀ KHÔNG PHẢI CỦA LÍ THƯỜNG KIỆT
và vấn đề nói dối nói thật của người Việt ta</h2>

Quả thật chúng ta đã nói dối quá nhiều, viết dối quá
nhiều. Bản thân tôi cũng đã từng nói dối, đã từng viết
dối. Cứ nhớ đến là lại xấu hổ. Đã đến lúc phải nói
thật, viết thật. Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng
sự thật, nói rõ sự thật, là khẩu hiệu của đại hội VI
đảng Cộng sản Việt Nam và cũng là phương châm hành động
của những người Cộng sản chân chính Việt Nam. Chính tôi đã
trực tiếp nghe từ Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến Đỗ
Mười, Lê Khả Phiêu khuyến khích các nhà văn nói thật, viết
thật, và yêu cầu các nhà văn lấy đó làm tiêu chuẩn đạo
đức nghề nghiệp của mình.

Có một thời kì khá dài, chúng ta nghĩ rằng: cái gì có lợi
cho cách mạng, dù cái đó không diễn ra, vẫn là sự thật. Còn
cái gì không có lợi cho cách mạng, dù cái đó có diễn ra ngay
trước mắt, cũng không phải là sự thật. Quan niệm này, theo
tôi, xuất phát từ câu nói nổi tiếng của Mao Trạch Đông:
"Cái gì có lợi cho cách mạng thì cái đó là chân lí", mà
Nguyễn Đình Thi thuật lại, trong ghi chép của Hà Minh Đức.
Cũng theo Nguyễn Đình Thi, trong bài nói chuyện về văn nghệ ở
Diên An năm 1942, "Mao Trạch Đông phủ nhận tính người, đề
cao tính giai cấp và thực dụng của văn học". (Nguyễn Đình
Thi – Chim phượng bay từ núi, của Hà Minh Đức, nhà xuất
bản Văn học, 2010).


Chúng ta lại phải đánh giặc, hai lần kháng chiến trường kì,
vô cùng gian khổ và ác liệt, cần phải chiến thắng bằng
mọi giá, để giải phóng đất nước, giành độc lập tự do
cho dân tộc, kể cả đốt cháy giải Trường Sơn, nếu cần,
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.

Trong binh pháp cuả mọi thời, mọi quốc gia, ai cũng biết có
thuật nghi binh. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, chúng ta cũng dùng
thuật nghi binh, làm lạc hướng chú ý của đối phương để
tạo ra chiến thắng áp đảo ngay từ trận đầu… Nhưng áp
dụng nó trong văn chương và học thuật lại là vấn đề khác,
có khi tạo ra những sai lầm vài thế kỉ… Ví như bài thơ
Phóng cuồng ca rất nổi tiếng của Trần Tung, Bồi tụng Bùi
Huy Bích thời Lê ghi là của Trần Quốc Tảng, 200 năm sau, cho
đến tận bây giờ, sai lầm này của ông Bùi vẫn không sửa
hết được. Gần đây là bài thơ Nam quốc sơn hà… không
phải của Lí Thường Kiệt. Giáo sư Bùi Duy Tân, người thày
dạy tôi ở trường đại học Tổng hợp Hà Nội, đang điều
trị ung thư giai đoạn cuối ở bệnh viện Hữu Nghị, nhờ con
chở đến và xin đăng kí phát biểu trong hội thảo thơ tại
nhà Thái Miếu trong Ngày thơ Việt Nam, chiều Rằm tháng Giêng
năm Kỉ Sửu ( 2009), do nhà thơ Vũ Quần Phương, chủ tịch hội
đồng Thơ chủ trì và tôi là ủy viên hội đồng, được phân
công cùng với nhà thơ Vũ Quần Phương, thực hiện cuộc hội
thảo này. Bài thơ Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt
thường được biểu diễn trong màn múa hát dàn dựng theo phong
cách sử thi rất hoàng tráng với giáo mác oai hùng tại sân
khấu chính của Ngày thơ Việt Nam. Giáo sư nói với chúng tôi
rằng: đây là lời phát biểu cuối cùng của ông, vì ông không
biết sẽ "đi" ngày nào. Chúng tôi đã dành cho ông 45 phút,
trong khi những người khác, chỉ có 15 phút.

Tại đây, trong không khí linh thiêng của nhà Thái Miếu, có
đốt hương trầm khi hội thảo khai mạc, giáo sư đã chính
thức báo cáo rằng, bài thơ ấy khuyết danh, giáo sư là người
đầu tiên gán cho Lí Thường Kiệt và sau đó, ông cùng những
cộng sự của ông và những học trò của ông nữa, đã viết
vào tất cả các loại sách giáo khoa, từ cấp tiểu học đến
trên đại học. Và bây giờ, trong hương khói linh thiêng của
Thái Miếu - Quốc Tử giám Thăng Long - Hà Nội 1000 năm văn
hiến, ông chính thức xin lỗi các thế hệ thày giáo và các
thế hệ học trò…

Nghĩ cũng tiếc, bởi bài thơ mấy chục năm nay, đã được coi
là Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc do Lí
Thường Kiệt soạn thảo. Và tên ông, Lí Thường Kiệt, sánh
ngang với Nguyễn Trãi và Hồ Chí Minh. Bây giờ không phải của
Lí Thường Kiệt thì ứng xử ra sao… Thực ra, không có ý
kiến chính thức của giáo sư, bất cứ ai có chút am hiểu về
lịch sử và thơ văn thời Lí, cũng đều biết bài thơ ấy
khuyết danh, chỉ là tục truyền, mà ngay tục truyền cũng không
ghi: "tục truyền rằng bài thơ ấy là của Lí Thường
Kiệt", như sau này ghi tục truyền rằng: những bài thơ Nôm
ấy (ám chỉ âm vật và chuyện buồng the ) là của Hồ Xuân
Hương ( mà không phải của Hồ Xuân Hương). Tôi tra trong Đại
Việt sử kí toàn thư ( 1479) tập I, chương Nhân Tông hoàng đế
nhà Lí, năm Bính Thân ( 1076), vua sai Lí Thường Kiệt đánh
Tống trên sông Như Nguyệt. Sau khi ghi xong cuộc chiến, với
thắng lợi lớn rồi, sử gia mới ghi thêm trong ngoặc đơn
(…), nguyên văn như sau ("Tục truyền rằng, Thường Kiệt
đắp luỹ làm rào ở dọc sông để cố giữ. Một đêm các
quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân, có tiếng
ngâm to rằng: Nam quốc sơn hà nam đế cư… ) Sử gia ghi hết
bài thơ 4 câu rồi viết sang việc khác ngay, không ghi bài thơ
đó tục truyền là của ai và kết quả bài thơ ấy trong trận
đánh là như thế nào.

Bây giờ, trên các diễn đàn và trên các sách báo, vẫn có
người nói và viết về bài thơ này của Lí Thường Kiệt…
Dù vài năm nay, sách giáo khoa dạy cho học sinh phổ thông trong
nhà trường, bài thơ ấy đã đề khuyết danh rồi. Và một
bạn tôi cho hay, bài thơ NAM QUỐC SƠN HÀ thiếp chữ vàng đề
tên Lí Thường Kiệt trong bảo tàng lịch sử nay cũng không
đề tên tác giả nữa. Như thế là sự thật đã được khôi
phục theo đúng tinh thần đại hội VI của Đảng.Ví như Thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, một Hồ Xuân Hương dân
gian, cũng như một Đoàn Thị Điểm dân gian trong truyện Trạng
Quỳnh, mà tôi đã trình bày lại khá căn kẽ trong các bài đã
đăng báo trước đây…Tôi nhớ giáo sư Hoàng Xuân Hãn hoặc
giáo sư Trần Thanh Mại, một trong hai ông, đã kêu to lên rằng:
"mồ cha không khóc đi khóc đám mối". "Mồ cha" là Lưu
Hương kí , tác phẩm do Hồ Xuân Hương thật sáng tác. "Đám
mối" là Thơ truyền tụng…, sáng tác dân gian gán cho Hồ
Xuân Hương. Nó vẫn nguyên giá trị nếu xét trong phạm trù văn
học dân gian, chứ không phải văn chương thành văn, văn chương
bác học của một tác giả có thật. Vậy mà "đám mối"
ấy, có trong tất cả các sách giáo khoa dạy sự trung thực văn
hóa cho học trò ở mọi cấp học trong nước, chưa kể ở
nước ngoài… Được biết có thời kì, chúng ta còn định làm
hồ sơ để UNESCO công nhận Hồ Xuân Hương ( nhân vật dân
gian) là thi hào dân tộc như Hội đồng hòa bình thế giới đã
từng công nhận thi hào dân tộc Nguyễn Du. Xuân Diệu đã có
tập sách Ba thi hào dân tộc: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương…Hãy chỉ nói hai vấn đề rất lớn và rất nhỡn tiền
trong văn chương, chưa kể trong các loại khoa học đòi hỏi sự
chính xác khác. Ví như nguyên nhân cuộc khởi nghĩa Mai Thúc
Loan, sách giáo khoa sử học, ở tất cả các cấp, hàng vài
chục năm, đã viết, do Mai Thúc Loan cùng nông dân Nghệ Tĩnh
phải gánh vải cống sang Trung Hoa cho Dương Quí Phi ăn… mà
nổi dậy chống quân nhà Đường. Khi tra vào tiểu sử Dương
Quí Phi thì Mai Thúc Loan khởi nghĩa năm 713, năm ấy, bố mẹ
Dương Quí Phi còn chưa lấy nhau. Năm 719, nghĩa là 6 năm sau,
Dương Ngọc Hoàn mới sinh ra, năm 736 mới vào cung, năm 739 mới
làm phi cho vua Đường Minh Hoàng và được gọi là Dương Quí
Phi… ( chưa kể việc gánh vải vài chục năm sau ấy, ở Quảng
Châu , Trung Hoa, chứ không phải ở Việt Nam) . Rồi em bé Đuốc
sống Lê Văn Tám. Tôi đã có 7 năm dạy học ( 1962 – 1969) và
22 năm làm bí thư chi đoàn và bí thư đoàn, (1962 – 1974),
thường nêu cao tấm gương anh hùng hiếm có của anh. Nhưng chỉ
một lần, đến thăm kho xăng ở Hà Khẩu, thị xã Hồng Gai,
một kho xăng loại nhỏ, sau khi nghe thuyết trình về hệ thống
cấu trúc, bảo ôn, và nguyên tắc bảo vệ của các kho xăng,
tôi đã nghi ngờ chuyện Lê Văn Tám là bịa rồi…Biết bao
trường học, con đường. công viên… hiện vẫn còn mang tên
Lê Văn Tám… Gần đây, giáo sư Phan Huy Lê, một nhà sử học
đầu ngành và là chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
đã công bố công khai trên báo chí và trên Đài Truyền hình
Việt Nam, ý kiến của giáo sư Trần Huy Liệu, trước khi mất (
cũng giống như giáo sư Bùi Duy Tân) về việc ông, khi làm Bộ
trưởng tuyên truyền, đã tạo ra hình tượng anh hùng này, chỉ
để tuyên truyền trong kháng chiến chống Pháp, thì tôi tin ngay
và càng thêm kính trọng nhân cách hai vị giáo sư. Rồi cành
đào Thăng Long mà vua Quang Trung gửi tặng Ngọc Hân công chuá
đang ở Phú Xuân (Huế) là do một nhà viết chèo bịa ra, sau
này được sử dụng trong nhiều cuốn sách như một tư liệu
chính thức về mối tình cao đẹp của vị anh hùng áo vải
Nguyễn Huệ. Gần đây, tôi được biết tại nhà thờ danh nhân
văn hóa Chu Văn An ( Chu An) tại Chí Linh, Hải Dương có dòng
chữ sơn son thiếp vàng lớn để thờ: "Ta chưa thấy nước
nào coi thường sự học mà khá lên được". Dưới câu đại
tự đó đề CHU VĂN AN, như một câu danh ngôn "Hiền tài là
nguyên khí quốc gia…" của Thân Nhân Trung vậy. Ai cũng ngạc
nhiên vì chưa từng thấy Chu An nói thế, viết thế bao giờ. Sau
hỏi ra mới biết đó là lời thoại trên sân khấu của nhân
vật Chu An trong một vở kịch chèo. Vậy đó là lời của nhà
viết chèo hôm nay đấy chứ. Chao ôi, cái nước mình nó thế (
lời nhà văn Hoàng Ngọc Hiến ) các nhà sử học chân chính,
các nhà văn hoá thứ thiệt đi đâu cả rồi…

Ấy là chưa kể "phát minh khoa học" lạ lùng: "ăn ngô bổ
hơn ăn gạo" …vân vân và vân vân…

Tôi có câu thơ: Ngày vĩ đại là ngày không nói dối…

Bởi tôi biết "không nói dối" là một điều rất khó tránh
và không ít trường hợp, ta dùng nó như một phương tiện hành
xử. Vì những lời nói dối, dễ được nghe hơn những lời
nói thật, nhất là với đàn bà, trẻ con và các cấp trên. Ví
như tôi thường kể cho các cháu ngoại nghe về lòng tốt đến
không thể nào có, của các bà tiên, ông bụt, trong các chuyện
cổ, mà đương nhiên là tôi vẫn biết đó là những điều
bịa tạc giả dối. Ngay từ lúc lọt lòng, mình đã dạy thế
hệ sau sự giả dối rồi…Vậy thì còn biết trách ai đây?...

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10347), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét