Nguyễn Tường Tâm - Từ Gadhafi tới chiến lước của Hoa Kỳ phòng thủ biển Đông

<div class="special_quote"><strong>Lời tác giả</strong>: <em>Gadhafi,
dù phải đi trốn, nhưng đoàn xe hộ tống ông ta trên đường
bôn tẩu vẫn còn 80 chiếc với trang bị vũ khí đủ mạnh để
không một đoàn quân nổi dậy nào dám theo sát. Vậy thì tại
sao đoàn xe bôn tẩu của ông ta lại tan rã? Do oanh kích của
các phi cơ chiến đấu của NATO. Đúng! Nhưng câu trả lời chưa
trọn vẹn. Độc giả có thể tìm thấy câu trả lời lý thú
mở ra một hướng nghiên cứu chiến lược của Hoa Kỳ phòng
thủ Biển Đông ở bài dưới đây.</em></div>

Nhà đại độc tài Gadhafi đã chết. Gọi ông ta là nhà đại
độc tài vì ông ta tàn sát quá nhiều sinh mạng. Ông ta chết.
Ông ta bị giết. Ông ta bị bắn bởi một người dân nổi
loạn bằng chính khẩu súng cold báng vàng của ông ta. Ông ta
bị bắn chết sau khi bị đám đông hành hạ. Đám đông uất
ức. Ông ta bị bắn chết sau khi bị lôi ra từ một miệng
cống bên đường. Nhưng tại sao ông ta lại phải chui vào chốn
dưới một miệng cống bên đường? Tại sao giây phút cuối
của ông ta lại thảm hại như vậy? Ông ta đã không chết một
cách oai hùng như hình ảnh một chiến sĩ mà ông ta thường tỏ
vẻ. Ông ta chết như một con chuột cống bị truy đuổi tới
đường cùng.

Nhưng tới những giờ cuối của nhà độc tài lực lượng dân
chúng nổi dậy vẫn không đủ mạnh để truy đuổi ông, dù
rằng lúc đó lực lượng dân chúng nổi dậy có mạnh hơn lúc
khởi đầu. Gadhafi, dù phải đi trốn, nhưng đoàn xe hộ tống
ông ta trên đường bôn tẩu vẫn còn 80 chiếc với trang bị vũ
khí đủ mạnh để không một đoàn quân nổi dậy nào dám theo
sát. Vậy thì tại sao đoàn xe bôn tẩu của ông ta lại tan rã?
Do oanh kích của các phi cơ chiến đấu của NATO. Đúng! Nhưng
câu trả lời chưa trọn vẹn. Nếu chỉ có hỏa lực mạnh mà
không có tin tức tình báo chính xác thì vẫn chỉ là một đoàn
quân hùng hổ mà thiếu khả năng chiến đấu. Và nhất là
không thể chiến thắng. Điều này đã được một số sĩ quan
Hoa Kỳ từ chiến trường Iraq tham gia hội thảo tại đại học
Stanford ở miền bắc California cách nay vài năm nêu lên. Các sĩ
quan trong cuộc hội thảo đó nói rằng, tại Iraq, quân lực Hoa
Kỳ thiếu tin tức tình báo nhân sự vì thiếu hợp tác của
dân chúng cho nên gặp khó khăn trong việc tiễu trừ nhóm dân
chúng có tinh thần hồi giáo quá khích và quốc gia cực đoan
chống Hoa Kỳ sau khi chính Hoa Kỳ trước đó không lâu đã lật
đổ nhà độc tài Sadam Hussein để giải phóng họ. Vai trò quan
trọng của tình báo chiến đã được binh gia Tôn Tử nêu lên
từ lâu.

Trong mười ba thiên của bộ Binh pháp Tôn Tử, thiên cuối đề
cập đến chiến tranh gián điệp với tiêu đề <a
href="http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/124/124/124/34769/Default.aspx">"Phép
dụng gián"</a>. Tình báo chiến không xa lạ gì với những
người đã từng chỉ huy trong quân đội, và những ai quan tâm
tới chiến thuật chiến lược. Vậy tin tức tình báo ở đâu
cho biết có một đoàn xe đông đảo đang trên đường bôn tẩu
giữa vùng sa mạc mênh mông không người của Libya? Chi tiết
này đã bị chìm đi trong hàng ngàn tin tức nóng bỏng truyền
đi khắp thế giới từng giờ, thậm chí từng phút về sự sôi
động của chiến trường Libya. Bởi vì nguồn tin đó chỉ
chiếm có một đoạn ngắn ngủi trong hàng ngàn bản tin dài
dằng dặc đầy hấp dẫn loan báo về cái chết của Gadhafi. <a
href="http://news.yahoo.com/moammar-gadhafi-dead-rebels-killed-dictator-081350571.html">Đoạn
tin của ABC News</a> như sau:

<div class="special_quote"><em>"Khi quân nổi dậy hạ được thành
phố Sirte, cứ điểm cuối cùng của Gadhafi, thì một chiếc phi
cơ trinh sát không người lái của Hoa Kỳ được điều khiển
vô tuyến từ Las Vegas, tiểu bang Nevada Hoa Kỳ, đã báo động
cho NATO biết có một đoàn xe 80 chiếc đang trên đường bôn
tẩu. Ngay lúc đó các chiến đấu cơ của Pháp đã đáp ứng
bằng một cuộc không kích, tiêu diệt hai chiếc trong đoàn xe
này. Người ta chưa rõ liệu các chiến đấu cơ của Pháp có
đánh trúng xe của Gadhafi không, nhưng khi quân nổi dậy tràn
tới thì họ cho phóng viên Gabriel Gatehouse của đài BBC biết
rằng họ đã lôi được Gadhafi ra từ một lỗ cống bên
đường."</em>(1) </div>

Điều này cho thấy, mặc dù chỉ nhận giữ vai trò yểm trợ,
nhưng thực ra Hoa Kỳ vẫn đóng vai trò chủ đạo trong chiến
dịch quân sự của NATO tại Libya.

Tin tức này cũng cho thấy tại sao ngay từ đầu NATO đã nhất
định yêu cầu Hoa Kỳ lãnh đạo chiến dịch. Giới lãnh đạo
quân sự của NATO đã tự biết rằng thiếu phương tiện thu
thập tin tức tình báo kỹ thuật của Hoa Kỳ thì lực lượng
không quân hùng hậu của NATO, mà bản doanh đóng bên ngoài
đất nước Libya, tận bên kia bờ Địa Trung Hải, cũng sẽ vô
dụng. Vì biết vai trò quan trọng của mình và biết rằng sự
đóng góp về tin tức tình báo là quá đủ để chiến dịch
quân sự của NATO thành công nên Hoa Kỳ đã chỉ nhận vai trò
lãnh đạo trong giai đoạn khởi đầu, là giai đoạn phá hủy
hệ thống phòng không của Libya. Đây là giai đoạn quan trọng
nhất và cũng là giai đoạn Hoa Kỳ có khả năng hữu hiệu
nhất. Công tác này đòi hỏi có phương tiện tình báo kỹ
thuật phát hiện vị trí các hệ thống phòng không của Libya
mà chỉ các trinh sát cơ không người lái được điều khiển
từ Hoa Kỳ và các vệ tinh do thám mới có thể thực hiện
được. Sau khi đã phá hủy toàn bộ hệ thống phòng không của
Libya, tạo một an toàn trận địa cho không quân NATO, thì Hoa
Kỳ rút về vị trí yểm trợ thông tin kỹ thuật. Đó là một
chiến lược mà với kinh nghiệm của một sĩ quan tác chiến và
tham mưu trong chiến tranh Việt Nam, tôi cho là khôn ngoan của
giới lãnh đạo Hoa Kỳ cả trên phương diện quân sự lẫn
chính trị: Vừa tránh thương vong cho binh sĩ của mình, vừa
tránh sự chống đối chiến tranh có thể phát khởi từ dân
chúng Hoa Kỳ, vừa tránh sự chống đối của dân chúng địa
phương hay thế giới Hồi giáo, hay lục địa Phi châu, nổi lên
bởi vì tình tự dân tộc và lại rất "dị ứng" với Hoa
Kỳ.

Khả năng thu thập tin tình báo kỹ thuật của Hoa Kỳ có tính
cách quyết định cho khả năng chiến thắng của lực lượng
quân sự Hoa Kỳ. Quân đội Hoa Kỳ lại được trang bị vũ khí
tối tân được điều khiển vô tuyến tấn công chính xác các
mục tiêu ở xa với sức tàn phá khốc liệt. Hiện nay, với hai
khả năng vũ khí và tình báo kỹ thuật đó, Hoa Kỳ có khả
năng toàn thắng một cách chớp nhoáng trong mọi cuộc chiến
tranh qui ước trong tương lai nếu Hoa Kỳ phải đối diện ở
bất cứ chiến trường nào trên thế giới. Một sĩ quan trẻ
gốc Việt trở về với thương tật từ chiến trường Iraq đã
cho người viết biết rằng hành quân ở Iraq không có gì đáng
sợ, vì đối phương chưa thấy mình thì đã bị tiêu diệt
rồi. Chỉ ngại là xe quân xa cán phải mìn thôi. Nhưng đáng
sợ nhất là khi tuần tiểu trong thành phố, không biết đối
phương là ai, sẽ tấn công lúc nào; và thường xuyên có những
tay bắn sẻ.

Kỹ thuật tình báo và vũ khí hiện đại giúp nâng cao khả
năng phòng thủ từ xa của Hoa Kỳ mà hiện nay không một quốc
gia nào trên thế giới sánh bằng. Phòng thủ từ xa vốn dĩ là
một chiến lược phòng thủ quân sự hữu hiệu nhất, rất cổ
điển và quen thuộc đối với giới chỉ huy quân sự mọi
cấp, ở mọi quốc gia. Hiện nay khả năng phòng thủ từ xa mang
lại một an ninh diện địa tuyệt đối cho lãnh thổ Hoa Kỳ.
Cho tới còn rất lâu trong tương lai, chưa biết tới bao giờ,
không một hỏa lực mạnh mẽ nào từ ngoại biên Hoa Kỳ có
thể tấn công đất nước này. Bởi vì với phương tiện thu
thập tin tức tình báo kỹ thuật như hiện nay, một hỏa tiễn
của đối phương được bắn đi nhắm vào Hoa Kỳ, dù phát
xuất từ mặt đất, trên không, trên biển, hay từ tầu ngầm
đều sẽ bị phát hiện ngay khi vừa rời giàn phóng và sẽ bị
hỏa tiễn liên lục địa của Hoa Kỳ tiêu diệt trên không
phận ngoài Hoa Kỳ. Bởi thế thỉnh thoảng Bắc Triều Tiên đe
dọa đã thử nghiệm thành công loại hỏa tiễn có khả năng
bắn tới lục địa Hoa Kỳ thì đó chỉ là lời đe dọa của
con trẻ.

Với hỏa lực có sức tàn phá mãnh liệt và chính xác một
mục tiêu từ xa và phương tiện thu thập tin tức tình báo kỹ
thuật nhanh chóng và chính xác, Hoa Kỳ hiện đang là một
cường quốc đầy đủ khả năng răn đe bất cứ một quốc gia
nào có ý tưởng dùng vũ lực gây bất ổn tại bất cứ vùng
nào trên thế giới. Chính khả năng phòng thủ hay cũng gọi là
tấn công từ xa đã khiến Hoa Kỳ từ cách nay khoảng 20 năm
đã có chiến lược tái phối trí lực lượng ở vùng Ven Thái
Bình Dương (Pacific Rim), bao gồm các căn cứ trú quân tại Nam
Hàn, Nhật và Philipines. Các lực lượng đông đảo quân sĩ
đóng tại các quốc gia này từ sau Thế chiến Thứ 2 đã
được tái phối trí lui về phía nam xuống tận Singapore và
Malaysia mà vẫn bảo vệ một cách hữu hiệu an toàn cho các
quốc gia này và vùng biển đông ngăn chặn nguy cơ gây hấn
của Trung quốc và Bắc Triều Tiên.

Tuy rằng sự rút toàn bộ hay một phần lực lượng phòng thủ
diện địa của Hoa Kỳ tại ba nước này bề ngoài, theo các
nghiên cứu chính thức, là do những chống đối chính trị của
dân chúng bản xứ hay do ngân sách thiếu hụt, nhưng thực chất
vẫn là nhờ khả năng tấn công từ xa của lực lượng quân
sự của mình. Khả năng tấn công từ xa đã giúp giới lãnh
đạo quân sự thấy không cần thiết phải duy trì nhiều quân
tại khu vực nguy hiểm, gần với Bắc Hàn và Trung quốc. Do đó
lực lượng quân sự Hoa kỳ đã rút bỏ hoàn toàn các căn cứ
quân sự tại Philipines, rút bỏ một phần lực lượng ra khỏi
Nhật Bản và Nam Hàn. Đặc biệt tại Nam Hàn lực lượng quân
sự Hoa Kỳ trước kia thường trực ở đường ranh giới tuyến
ngăn cách Nam Bắc Hàn, đã được di chuyển ra khỏi Nam Hàn
một phần, phần còn lại đa số được di chuyển lui về phía
nam, kể cả phía nam của thủ đô Seoul, xa vùng giới tuyến
nhiều đe dọa.

Theo <a href="http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/2930997.stm">một
bản tin ngày mùng 9/4/2003</a> của BBC, <em>"Bộ trưởng quốc
phòng Hoa Kỳ Donald Rumsfeld trước đó một tháng đã nói rằng
một số trong 37 ngàn quân Hoa Kỳ hiện trú đóng tại Nam Hàn
có thể được cho lui xuống sâu hơn về phía nam, cách xa biên
giới với Bắc Hàn. Một số sẽ được tái phối trí tại các
quốc gia lân bang, hoặc ngay cả hồi hương."</em>(2)

Theo <a
href="http://en.wikipedia.org/wiki/U.S._Naval_Base_Subic_Bay#Closure">trang
bách khoa toàn thư mở Wikipedia</a>:

<em>"Tại Philipines, từ năm 1992, hàng tấn trang thiết bị và
các kho hàng, bến bãi của các căn cứ hải quân Hoa Kỳ đã
được rời sang các quốc gia Á châu khác trong đó có Nhật
bản và Singapore. Cuối cùng thì vào ngày 24/11/1992, cờ Hoa Kỳ
đã được hạ xuống tại căn cứ hải quân Subic lần cuối
cùng. Đồng thời 1,416 quân nhân Thủy quân lục chiến và hải
quân, thủy thủ cuối cùng tại căn cứ hải quân Subic Bay Naval
Base đã rời nước này bằng phi cơ và chiến hạm Hoa Kỳ USS
Belleau Wood." </em>(3)

Theo <a href="http://www.cato.org/pubs/fpbriefs/fpb012.pdf">một bài báo
của Viện Cato ngày 29/7/1991</a>, ông Galen Carpenter, giám đốc
nghiên cứu chính sách ngoại giao của viện này nhận định
rằng <em>"Sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Philipines
là quá tốn kém và không cần thiết."</em> Ông viết rằng
<em>"Mục tiêu chính yếu của các căn cứ quân sự Hoa Kỳ
tại Philipines (đặc biệt là căn cứ Subic Bay) lâu nay là cung
cấp yểm trợ tiếp vận quan trọng cho sự hiện diện quân sự
Hoa Kỳ ở Ấn độ dương và vùng Vịnh Persian (Persian Gulf
regions). Nhưng vai trò đó cũng được căn cứ trên tình huống
tệ hại nhất đó là tình huống lực lượng Hoa Kỳ cần tung
ra một sự can thiệp hỗ trợ mạnh mẽ trong vùng Nam Á và vùng
Vịnh Persic (South Asia or the Persian Gulf)."</em> Ông viết tiếp,
<em>"Có người cho rằng các căn cứ Hoa Kỳ tại Philipines cũng
cần thiết để phòng thủ khối ANZUS (gồm Australia và New
Zealand)." Tuy nhiên ông nhận định, "Khả năng của các căn
cứ quân sự của Hoa Kỳ ở Philipines hiện nay kém quan
trọng."</em>(4)

Cũng theo<a href="http://en.wikipedia.org/wiki/Okinawa_Prefecture">trang
bách khoa toàn thư mở Wikipedia</a> thì:

<em>"Tại Nhật bản, vào năm 2003, Hoa Kỳ đã xem xét việc di
chuyển hầu hết 20,000 Thủy quân lục chiến trên đảo Okinawa
tới các căn cứ mới sẽ được lập tại Australia; gia tăng
sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ tại Singapore và Malaysia;
và tìm kiếm thỏa thuận cho căn cứ tầu hải quân tại vùng
biển Việt Nam và binh sĩ bộ binh tại Philipines (…and seeking
agreements to base Navy ships in Vietnamese waters and ground troops in the
Philippines.)" </em>

(Xin xem ghi chú quan trọng liên quan tới Việt Nam ở dưới bản
đồ ở cuối bài.)

<em>"Vào năm 2006, khoảng 8,000 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ
được di chuyển ra khỏi đảo Okinawa, Nhật bản và tái phối
trí tại đảo Guam (của Hoa Kỳ)." "Tháng 11/2008, Tư lệnh
Hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ là Đô Đốc Timothy
Keating nói rằng việc di chuyển về Guam sẽ không thể hoàn
tất trước năm 2015."</em>
(http://en.wikipedia.org/wiki/Okinawa_Prefecture)

Sau khi tái phối trí, Singapore đã trở nên một tổ hợp căn
cứ quan trọng yểm trợ cho lực lượng hỗn hợp của Đệ
Thất Hạm Đội Hoa Kỳ chịu trách nhiệm an ninh vùng Biển
Đông. <em>"Tại Singapore Bộ Tư Lệnh Căn cứ tiếp vận Miền
Tây Thái Bình Dương (Commander, Logistics Group Western Pacific)
được thành lập tại Sembawang Terminal, thuộc Singapore vào tháng
7/1992, sau khi bộ tư lệnh được tái phối trí từ căn cứ
hải quân Subic Bay của
Philipines."</em>(http://closethebase.org/us-military-bases/asia-pacific/).
Bộ tư lệnh này trực thuộc Đệ Thất Hạm Đội Hoa Kỳ chịu
trách nhiệm tiếp tế lương thực, săng dầu và đạn dược và
sửa chữa cho các chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội bên
ngoài Nhật bản. Hạm đội này hoạt động trong khu vực rộng
52 triệu dặm vuông (52 million square miles). Bộ tư lệnh này cũng
phối hợp hoạt động cho vùng Đông Nam Á, cũng như phối hợp
các hoạt động huấn luyện chung với Brunei, Indonesia, Malaysia,
Thailand, Philipines và Singapore.

www.clwp.navy.mil/ (http://www.themilitaryzone.com/bases/singapore.html)

Với hai khả năng quân sự và tình báo kỹ thuật hiện đại,
lực lượng Hoa Kỳ tại chiến trường ngoại biên đã an toàn
hơn trong thời chiến tranh Việt Nam. Số lượng tổn thất nhân
mạng ít hơn rất nhiều. Lữ đoàn 3 nhảy dù [Third Brigade Combat
Team (3BCT), 101st Airborne Division (Air Assault)] với trên 9,000 quân
(6 tiểu đoàn trực thuộc) dưới quyền điều khiển của đại
tá Lương Xuân Việt trong 13 tháng hành quân tại Afghanistan chỉ
tổn thất có 17 nhân mạng (http://lxvnkt.blogspot.com/ Monday, June 6,
2011).

Đó là con số quá ít cho một chiến dịch quân sự lớn và lâu
dài như vậy, theo tiêu chuẩn quân sự truyền thống. Điều đó
khiến giảm nhẹ nguy cơ chống đối chiến tranh của dân chúng
Hoa Kỳ. Sở dĩ lực lượng quân sự Hoa Kỳ có tổn thất quá
nhẹ như vậy là vì trên chiến trường diện địa, tức là
không phải chiến tranh trong thành phố, đối phương chưa phát
hiện ra lực lượng quân sự Hoa Kỳ thì đã bị Hoa Kỳ tiêu
diệt tập thể rồi. Số tổn thất binh sĩ rất thấp, và số
tổn thất đó lại không phải do chạm súng tại trận địa,
mà hoàn toàn là do mìn gài bên đường, hay bắn sẻ trong thành
phố hoặc rơi phi cơ vì lý do kỹ thuật. Một sĩ quan trẻ đã
từng bị thương tại Iraq cho biết đi hành quân không sợ mà
chỉ sợ lúc đi tuần trong thành phố. Còn đi hành quân thì
chỉ sợ xe quân sự cán phải mìn mà thôi. So với thời chiến
tranh Việt Nam thì mạng sống của người lính Hoa Kỳ trên
chiến trường hiện nay an toàn gấp bội. Công tác quan trọng
nhất của lực lượng Hoa Kỳ khi tới vùng hành quân hiện nay
là thiết lập trung tâm thông tin. Đó là tai mắt mà cũng là
hệ thống thần kinh điều khiển mọi hoạt động khác của
các đơn vị trực thuộc.

So với thời chiến tranh Việt Nam cách nay 39 năm (1973-2011), thì
vũ khí của Hoa Kỳ đã tiến bộ vượt bực. Có thể nói ngoài
sức tưởng tượng. Trước 1973 Hoa Kỳ cũng có hệ thống tự
động báo động khi có pháo kích của cộng sản. Tức là ngay
khi hỏa tiễn 122 ly của cộng sản rời dàn phóng để hướng
vào thành phố thì hệ thống báo động tự động cũng đã
phát hiện và hú còi. Nhưng thành quả phát hiện pháo kích
không cao. Tức là khi phát hiện khi không. Bởi vì hệ thống
lúc đó còn trong giai đoạn thử nghiệm. Trang cụ hồng ngoại
tuyến, dùng ánh trăng để phát hiện sự di động của đối
phương lúc đó cũng còn yếu: Nhìn không rõ như bây giờ, lại
chỉ phát hiện khi đối phương di động. Ngay hệ thống hồng
ngoại tuyến mạnh thiết trí ở các căn cứ lớn (cấp tiểu
đoàn) cũng chỉ phát hiện đối phương đang di chuyển ở cách
xa căn cứ khoảng 2 cây số trở lại. Hệ thống này được
thiết trí tại ba căn cứ lớn nằm trong hệ thống hàng rào
điện tử MacNamara ở dọc sông Bến Hải ngăn chặn quân cộng
sản xâm nhập từ phương bắc. Không ảnh chụp các hoạt
động của đối phương vẫn phải xử lý bằng tay và truyền
đi theo hệ thống truyền tin cổ điển cho nên nhanh nhất cũng
chỉ hữu dụng 24 tiếng đồng hồ sau. Ví dụ khi không ảnh
phát hiện một sự tập trung đông đảo của đối phương tại
một địa điểm nào đó thì tin tức này chỉ có thể dùng
để xin pháo đài bay B-52 từ Thái Lan sang oanh kích cho ngày hôm
sau. Trong hành quân, 24 tiếng đồng hồ chậm trễ thì đối
phương có thể đã không còn ở đó nữa. Do đó kết quả của
các phi vụ B-52 tại chiến trường Việt Nam không nhiều, trong
khi rất tốn kém. Trên trang mạng <a
href="http://www.centennialofflight.gov/essay/Air_Power/B52/AP37.htm">"U.S.
Centennial of Flight Commission"</a>, người ta viết rằng,
<em>"Oanh tạc cơ khổng lồ B-52 lần đầu tiên tham chiến ở
Việt Nam năm 1965…Chiến dịch này thực hiện việc trải thảm
bom chiến thuật tại Nam Việt Nam, một nhiệm vụ mà loại phi
cơ này không được trang bị và phi hành đoàn không được
huấn luyện; hậu quả là kết quả không được tốt"</em>.
Tất cả các yếu điểm này hiện nay không còn nữa. Các tin
tức tình báo kỹ thuật hiện nay được đơn vị tại chiến
trường xử dụng để có giải pháp đối phó ngay tức khắc
cho nên kết quả hành quân rất là hữu hiệu mà rất ít khi
gặp thương vong. Tóm lại, trong chiến tranh qui ước, hiện nay
Hoa Kỳ là vô địch.

Nhưng trong chiến tranh trong thành phố thì tính ưu thế của vũ
khí và khí tài của Hoa Kỳ mất đi nhiều tác dụng. Người ta
không thể tiến chiếm một thành phố bằng cách san bằng thành
phố đó. Như vậy thì trong thành phố vẫn còn dân chúng. Các
kiến trúc và dân cư trong thành phố đã là nơi trú ẩn an toàn
cho các toán địch quân bắn sẻ hay đột kích chớp nhoáng rồi
lại chôn dấu vũ khí và lẩn vào dân chúng. Đa số thương vong
của binh sĩ Hoa Kỳ ngày nay tại Iraq và Pakistan là do mìn gài
bên đường, lính bắn sẻ hay máy bay trực thăng chuyển quân
rớt vì trục trặc kỹ thuật. Cũng có vài trường hợp trực
thăng bị bắn sẻ rơi. Ngoài ra chiến đấu trong thành phố thì
vũ khí có khả năng tàn phá mạnh sẽ không thể dùng được
vì sẽ gây nhiều thương vong cho dân thường, một nguyên cớ
khiến thế giới lên án, mà ngay cả người dân Hoa Kỳ cũng
lên án.

Mở rộng vấn đề chiến thuật trong tác chiến trong thành phố
ra toàn bộ cuộc chiến tranh nổi dậy mà chiến tranh trong thành
phố là một thành phần, người ta cũng gặp những khó khăn và
hiểm nguy tương tự. Chiến tranh nổi dậy thường là một tên
gọi khác của chiến tranh nhân dân (People's War or Guerrilla
warfare), tức là một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện và
diễn ra vào mọi lúc, ở mọi nơi. Một cuộc chiến tranh nhân
dân như thế sẽ giảm đi rất nhiều sự hữu hiệu của ưu
thế kỹ thuật quân sự của Hoa Kỳ. Ngoài ra, đối phó với
một cuộc chiến tranh nổi dậy lực lượng chiếm đóng sẽ
không được sự hợp tác của đại đa số dân địa phương,
một yếu tố đưa tới thất bại.

Một điều may mắn cho Hoa Kỳ là Hoa Kỳ không có truyền thống
xâm chiếm lãnh thổ làm thuộc địa. Philipines bị Tây Ban Nha
nhượng lại cho Hoa Kỳ vào năm 1898 sau khi thua trận, nhưng ngay
vào năm 1916, đạo luật Jones Law đã tạo cho Philipines một
chính phủ tự trị để chuẩn bị cho sự trao trả hoàn toàn
độc lập cho Philipines. Do đó vấn đề phải đối phó với
chiến tranh nổi dậy ở những quốc gia Hoa Kỳ tham chiến chỉ
là tạm thời và ở tầm mức thấp.

Nói cách khác, cái gọi là hệ thống vũ khí có khả năng tàn
phá khốc liệt, mau chóng và chính xác các mục tiêu ở xa tuy
là một lợi khí tấn công tuyệt hảo nhưng thực chất lại
chỉ hữu hiệu trong một cuộc chiến tranh phòng thủ chứ không
hữu hiệu trong một cuộc chiến tranh xâm chiếm lâu dài (vì
chiếm đóng lâu dài sẽ phải đương đầu với chiến tranh
nổi dậy của dân chúng và khi đó vũ khí tối tân không hữu
dụng).

Như thế, trong ý nghĩa chiến lược "tấn công để phòng
thủ", khả năng tấn công quân sự từ xa hiện nay của Hoa
Kỳ rất hữu hiệu trong việc bảo đảm tự do lưu thông trong
vùng Biển Đông (East Viet Nam Sea) mà "đường lưỡi bò" của
Trung quốc tự vẽ muốn chiếm trọn vẹn chủ quyền, đồng
thời bảo đảm an ninh cho các quốc gia liên minh vùng Ven Thái
Bình Dương (Pacific Rim), nơi được Hoa Kỳ coi là có các lợi
ích thiết thân của quốc gia.

<strong>Nguyễn Tường Tâm</strong>

__________________________

<strong>Ghi chú:</strong>

(1):
(http://news.yahoo.com/moammar-gadhafi-dead-rebels-killed-dictator-081350571.html)
-Moammar Gadhafi Dead: How Rebels Killed the Dictator
By JEFFREY KOFMAN and KEVIN DOLAK | ABC News - Thu, Oct 20, 2011
(2): (http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/2930997.stm) (2)
9 April, 2003, 08:53 GMT 09:53 UK-US army to move S Korea base
(3): (http://en.wikipedia.org/wiki/U.S._Naval_Base_Subic_Bay#Closure)
(4): http://www.cato.org/pubs/fpbriefs/fpb012.pdf
(Cato Institute Foreign Policy Briefing No. 12:The U.S. Military Presence in
the Philippines:Expensive and Unnecessary)-Foreign Policy Briefing-July 29,
1991

<center><img src="http://danluan.org/files/u23/DANLUAN0100090.jpg"
width="600" height="475" alt="DANLUAN0100090.jpg" /></center>

<center><em>Bản đồ các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên thế
giới</em></center>

Nguồn: Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ, dựa trên báo cáo năm 2008

<em>Ghi chú:</em>

Mầu đỏ: các quốc gia đã có căn cứ quân sự Hoa Kỳ
Mầu vàng: các quốc gia có đề nghị lập căn cứ Hoa Kỳ

<em>Ghi chú quan trọng của tác giả</em>: Có sự trùng hợp với
việc Hoa Kỳ tìm kiếm thỏa thuận cho căn cứ tầu hải quân
tại vùng biển Việt Nam (…and seeking agreements to base Navy ships
in Vietnamese waters and ground troops in the Philippines.)"
(http://en.wikipedia.org/wiki/Okinawa_Prefecture) với hình ảnh nước
Việt Nam được tô mầu vàng trên bản đồ này.
http://blog.hiddenharmonies.org/2010/08/map-of-u-s-military-bases-around-the-world/


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10352), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét