Giáp Văn Dương - Chuyện láng giềng: “Dạy ít – Học nhiều” và “Thực học – Thực nghiệp”

Trong cuộc chạy đua phát triển, nhiều nước đã coi cải cách
giáo dục nhằm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao như
chìa khóa để vượt lên. Ở khu vực Đông Nam Á, ngoài Singapore
là nước đã phát triển nhưng vẫn nỗ lực cải cách giáo
dục để tiếp tục giữ vững vị trí hàng đầu, thì đáng
chú ý là Malaysia, bắt đầu từ cuối tháng 8/2011, đã chính
thức khởi động chương trình cải cách giáo dục đầy tham
vọng.

<h2>Singapore</h2>

Ngay từ những ngày đầu thành lập nước, năm 1965, các nhà
lãnh đạo của Singapore luôn tâm niệm: <span
class="underlined-text">Tài nguyên duy nhất của đảo quốc này là
con người, và duy nhất con người.</span> Trên thực tế,
Singapore là quốc gia phi tự nhiên nhất thế giới, vì đất
nước này không có bất cứ nguồn tài nguyên nào, kể cả thứ
tối thiểu nhất là nước ngọt. Tất cả đều phải mua. Và
lúc nào cũng ở trong tình trạng lo sợ: Muốn mua nhưng người
ta không bán!

Chính vì thế, phát triển nguồn lực thông qua giáo dục được
coi là chìa khóa duy nhất để Singapore phát triển. Từ một
nước nghèo khi mới lập quốc những năm 1960, Singapore đã
vượt lên sau bốn thập niên, trở thành một trong những nước
có thu nhập bình quân tính theo đầu người cao nhất thế giới
(43867 đô-la Mỹ/người, năm 2010). Kinh nghiệm này đã được
ông Lý Quang Diệu, nguyên thủ tướng Singapore, chia sẻ nhân
chuyến thăm Việt Nam năm 2007: <span class="underlined-text">Nếu
thắng trong cuộc đua giáo dục, sẽ thắng trong phát triển kinh
tế.</span> Ông cũng thẳng thắn nhận xét: Chất lượng nguồn
nhân lực chính là "nút cổ chai" phát triển mà Việt Nam
phải đương đầu.

Nhận định này tiếp tục được những người kế nhiệm ông
chia sẻ, chẳng hạn, trong một bài phát biểu gần đây, ông Lý
Hiển Long cho rằng: Giáo dục là nền tảng duy nhất để thịnh
vượng và phát triển bền vững. Ưu tiên chính của mọi quốc
gia phải là cải thiện hệ thống giáo dục.

Do đặc điểm riêng về chủng tộc và tôn giáo phức tạp,
việc cải cách giáo dục ở Singapore không hề dễ dàng. Cái
khó đầu tiên mà hầu hết các quốc gia không gặp phải, nhưng
với Singapore lại là vấn đề đau đầu, là chuyện ngôn ngữ.
Singapore có ba sắc dân chính, nói ba thứ tiếng khác nhau là
tiếng Trung (người gốc Hoa), tiếng Malay (người gốc Malay)và
tiếng Tamil (người gốc Ấn). Để tạo ra sự gắn kết cộng
đồng, Singapore đã phải chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ chính
thức để giảng dạy và làm việc. Theo ông Lý Quang Diệu, đó
là chính sách khó khăn nhất mà chính phủ ông đã từng áp
dụng. Nhưng không vì thế mà Singapore nản chí trong việc cải
thiện hệ thống giáo dục của mình. Vì lúc nào họ cũng tâm
niệm rằng, tài nguyên duy nhất họ có là con người, nên không
còn cách nào khác, phải phát triển giáo dục.

Trong khoảng hai chục năm trở lại đây, có ba mốc đáng nhớ
đánh dấu nỗ lực cải cách giáo dục của Singapore. Mốc thứ
nhất là vào khoảng giữa những năm 1980, sự chững lại của
kinh tế Singapore trong năm 1985-1986 và bối cảnh cạnh tranh toàn
cầu đã thúc giục Singapore cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo
dục theo hướng thị trường hóa để tăng khả năng sáng tạo
của cả người học lẫn nhà trường. Điều này đã dẫn
đến xu hướng mềm dẻo, tăng tự chủ và tăng tính cạnh tranh
giữa các trường, mà điển hình là sự ra đời của một số
trường phổ thông độc lập hoàn toàn với Bộ giáo dục vào
năm 1988 và các trường tự trị năm và 1994.

Mốc đáng nhớ thứ hai là "Kế hoạch tổng thể về ứng
dụng công nghệ thông tin trong giáo dục" được đưa vào
triển khai từ năm 1997, nhắm tới việc dùng công nghệ thông
tin để cải cách cách phương pháp và nội dung dạy giảng dạy
nhằm tăng cường tính sáng tạo của học sinh. Cũng năm này,
thủ tướng Goh Chok Tong tiến hành cải cách giáo dục với
triết lý mới: "Trường học tư duy, Đất nước học tập".
Trong đó, "Trường học tư duy" nhắm đến việc phát triển
khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh. Còn "Đất nước học
tập" hướng đến việc tạo ra một xã hội học tập và coi
học tập là một đặc trưng văn hóa quốc gia mà ở đó, sự
sáng tạo và tinh thần đổi mới được cổ vũ và lan tràn ở
mọi tầng bậc trong xã hội.

Mốc đáng nhớ thứ ba là năm 2004, Thủ tướng Singapore Lý
Hiển Long kêu gọi thực hiện giảm tải để tăng tính sáng
tạo cho học sinh. Chủ trương này đã được gói gọn trong
một khẩu hiệu dễ nhớ: "Dạy ít - Học nhiều". Điều này
đã tạo ra một bước chuyển lớn trong hệ thống giáo dục:
Chú trọng chất hơn lượng; giảm nhồi nhét kiến thức để
học sinh được sáng tạo; dành những khoảng trắng trong khung
chương trình để nhà trường có thể đưa chương trình riêng
của mình vào.

Chiến lược "Dạy ít - Học nhiều" này đã "chạm được
vào trái tim, cuốn hút được trí não của người học" và
vươn đến những điều cốt yếu của giáo dục nói chung:
"Tại sao dạy, dạy cái gì và dạy như thế nào?" Nội dung
và phương pháp giảng dạy đã thay đổi đáng kể. Thay vì học
thuộc lòng, học sinh được khuyến khích và buộc tham gia các
dự án nhỏ như thiết kế đồ chơi, học theo nhóm... để áp
dụng kiến thức học được, rèn luyện tính độc lập, cải
thiện kỹ năng giao tiếp và tăng khả năng hợp tác trong công
việc.

Chiến lược "Dạy ít - Học nhiều" này đã mang lại những
kết quả đáng khích lệ, đưa Singapore thành một trong những
nền giáo dục tiên tiến của khu vực và thế giới. Kinh
nghiệm cải cách giáo dục để phát triển của Singapore thật
để suy ngẫm. Ở đây chỉ nêu một ví dụ nhỏ, theo thủ
tướng Lý Hiển Long, chìa khóa để tạo ra mọi thay thay đổi
trong hệ thống giáo dục lại nằm ở một chi tiết mang tính
kỹ thuật: Cải tiến quản trị giáo dục và tạo cơ hội
thăng tiến cho giáo viên!

<h2>Malaysia</h2>

Bắt đầu từ cuối tháng 8 năm nay, Malaysia đã khởi động
chương trình cải cách giáo dục đầy tham vọng. Mục tiêu của
chương trình cải cách giáo dục này là cùng với chương trình
cải cách kinh tế, giúp cho Malaysia trở thành nước có thu nhập
cao vào năm 2020.

Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới năm 2010, nước có
mức thu nhập cao nếu thu nhập bình quân tính theo đầu người
đạt mức 12.276 đô-la/năm trở lên. Maylaysia, năm 2010 đạt
mức thu nhập bình quân danh nghĩa tính theo đầu người là 8423
đô-la Mỹ/năm. Tuy nhiên, không hài lòng với kết quả đạt
được, Malaysia đã nỗ lực cải cách để trở thành nước
phát triển trong vòng một thập niên tới.

Để đạt được mục tiêu này, bên cạnh cải cách kinh tế
với "Mô hình kinh tế mới", Malaysia đã xúc tiến cải cách
giáo dục nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, không
chỉ đáp ứng được đòi hỏi của trình độ phát triển mới
mà còn dẫn dắt sự phát triển đó để hướng đến việc
đạt mức thu nhập bình quân đầu người khoảng 15000 đô-la
Mỹ/người/năm vào năm 2020, với lập luận: Không có vốn con
người, không có nguồn nhân lực lành nghề và giỏi tiếng Anh
thì không thể tạo ra bất cứ dịch chuyển nào trong kinh tế.

Cũng như Singapore, Malaysia có ba nhóm chủng tộc lớn là người
Malay, người Ấn và người Hoa, nói ba thứ tiếng và theo ba tôn
giáo khác nhau. Chính vì thế, chương trình giáo dục của
Malaysia cho phép giảng dạy bằng cả ba thứ tiếng Malay, Hoa,
Tamil ở bậc tiểu học. Ba chủng tộc này đều muốn có chính
sách giáo dục có lợi nhất cho chủng tộc và tôn giáo của
mình, nên việc tiến hành cải cách giáo dục luôn gặp khó
khăn rất lớn. Chẳng hạn, năm 2003, chính phủ đã đưa tiếng
Anh thành ngôn ngữ dạy các môn Toán và Khoa học, nhưng gặp
phải sự chống đối của cả các nhóm giáo dục người Malay
và người Hoa, nên đến năm 2010 đành phải trở lại việc
dạy các môn này bằng tiếng Malay.

Nhưng do nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, chính
phủ Malaysia đã xúc tiến cải cách giáo dục với sứ mệnh
"Phát triển hệ thống giáo dục đẳng cấp thế giới nhằm
phát huy tối đã tiềm năng của cá nhân và hiện thực hóa
giấc mơ phát triển của đất nước", vì nhận thấy "giáo
dục đang lạc hậu hơn so với các lĩnh vực khác".

Điều này được thể hiện rõ nét qua các cải cách theo
hướng "Thực học – Thực nghiệp", trong đó chú trọng các
môn Toán, Tiếng Anh và Khoa học; cải tiến phương pháp giảng
dạy; đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục để nâng cao
chất lượng; phát triển hệ thống trường cao đẳng – dạy
nghề; thu hút sinh viên và giảng viên quốc tế đến giảng
dạy và học ở bậc đại học v.v.

Trông người lại ngẫm đến ta, năm 1996 Việt Nam đặt ra mục
tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, nhưng đến nay
đã đi được hai phần ba chặng đường mà đích đến còn quá
xa vời. Trong hoàn cảnh đó, nhiều chuyên gia trong nước và
quốc tế đã nhiều lần khuyến cáo mạnh mẽ: Việt Nam phải
cải cách giáo dục để phát triển; thất bại trong giáo dục
là thất bại toàn diện, tuyệt đối v.v. Nhưng trên thực tế,
những cải cách giáo dục của Việt Nam đều ở mức manh mún,
đối phó và có thể nói là thất bại hoàn toàn.

Nay với sự đẩy mạnh cải cách giáo dục của những người
hàng xóm, dù đã đi trước ta rất nhiều nhưng vẫn không
ngừng nỗ lực cải tiến để phát triển, với những kế
hoạch vừa tổng thể vừa thiết thực: như "Dạy ít - Học
nhiều" của Singapore và "Thực học – Thực nghiệp" của
Malaysia, chúng ta không khỏi lo lắng, giật mình.

_____________________

<strong>Ghi chú:</strong> Bài đã đăng Tuổi trẻ cuối tuần, số
42, 2011.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/10343), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét