Việt Nam phát triển hải quân

Từ những năm 80 – 90 thế kỷ trước đến nay, cùng
với tình hình chiến lược quốc tế thay đổi và biên giới
trên bộ Trung Quốc – Việt Nam được hòa hoãn, trong khi kinh
tế Việt Nam không ngừng phát triển, trọng điểm quan tâm
chiến lược của Việt Nam cũng đồng thời chuyển dần từng
bước từ đất liền ra ngoài khơi. Việt Nam không những có
tranh chấp về các đảo ở Nam Sa (Trường Sa) với các nước
xung quanh, trong đó bao gồm cả Trung Quốc mà còn đẩy mạnh
xây dựng hiện đại hóa quân đội, coi đó là biện pháp quan
trọng làm chỗ dựa cho sức mạnh chiến lược của mình, đặc
biệt là không ngừng xây dựng lực lượng hải quân và không
quân.

<strong>Tình hình chiến lược thay đổi, không ngừng
điều chỉnh chiến lược quân sự, làm nổi rõ địa vị của
lực lượng hải quân – không quân</strong>

Sau khi thống nhất đất nước, đặc biệt là
từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay, trên cơ sở nhận
định cơ bản về tình hình quốc tế, Việt Nam từng bước
chuyển trọng tâm phát triển đất nước sang xây dựng kinh
tế, chiến lược quân sự cũng chuyển sang "phòng vệ tích
cực", thực hiện phương châm chiến lược "thu hẹp trên
bộ tiến quân ra biển", từng bước thu hẹp chiến tuyến
trên đất liền, củng cố các đảo đã chiếm được ở Nam
Sa, mở rộng phạm vi kiểm soát trên biển; Thu hẹp quy mô lục
quân, tăng cường xây dựng lực lượng hải quân – không
quân. Coi trọng phát triển biển, bảo vệ tài nguyên ở vùng
đặc quyền kinh tế, thúc đẩy lợi ích các đảo ở Nam Sa…,
trong các phương diện nói trên Việt Nam có tiến triển rõ
rệt, được cả thế giới quan tâm.

Xét trên phương diện địa lý, Việt Nam nằm ở phía
Đông bán đảo Đông Dương thuộc Đông Nam Á, phía Bắc dựa
vào lục địa, phía Đông giáp Nam Hải (Biển Đông), đất
nước kéo dài thành một dải hẹp từ Bắc đến Nam, đường
bờ biển dài 3.260 km, khoảng cách ăn sâu trong nội địa rất
ngắn, chỗ hẹp nhất chỉ có 10 km, địa hình như vậy đã
khiến cho công tác phòng vệ trở nên khó khăn. Việt Nam coi
trọng phát triển sức mạnh hải quân-không quân, tăng cường
xây dựng chiến trường ở các đảo – bãi, có thể mở rộng
một cách hữu hiệu khoảng cách phòng ngự của mình, tranh thủ
thời gian dự báo phản ứng. "Dựa vào không gian phòng ngự
trên biển, làm giảm áp lực phòng vệ trên đất liền tương
đối hẹp" đã trở thành tư tưởng an ninh mới của Việt Nam
. Đồng thời hải cảng ven biển phía Đông Nam của Việt Nam
có vị trí độc đáo, có tầm quan trọng chiến lược, nhiều
tuyến hàng hải quốc tế đi qua đây, có thể trở thành cứ
điểm để kiểm soát Nam Hải và Eo biển Malắcca.

Xét từ phương diện kinh tế, Việt Nam vẫn là một nước nông
nghiệp lạc hậu, thu nhập GDP bình quân đầu người đứng ở
phần cuối trong bảng xếp hạng các nước ở Đông Nam Á, tài
nguyên dầu khí chủ yếu ở Nam Hải đã trở thành nguồn đảm
bảo GDP quan trọng của Việt Nam. Các số liệu cho thấy mỗi
năm Việt Nam khai thác khoảng 200 tỉ tấn dầu thô, chiếm gần
30% GDP của nước này, hơn nữa tỉ lệ này đến năm 2020 có
thể sẽ tăng lên đến 53%, thậm chí còn cao hơn. Dầu khí ở
Nam Hải đã trở thành trụ cột quan trọng và là điểm tăng
trưởng chủ yếu của nền kinh tế Việt Nam . Nếu dầu khí
xảy ra vấn đề gì lớn thì kinh tế Việt Nam sẽ có thể rơi
vào tình cảnh khó khăn.

Xét theo tình hình chính trị quốc tế, lực lượng hải
quân-không quân lớn mạnh sẽ là con bài quan trọng để Việt
Nam có được địa vị bá quyền khu vực, nâng cao ảnh hưởng
quốc tế của mình. Khác với các nước Đông Nam Á khác, Việt
Nam là nước xã hội chủ nghĩa, trong khi phát triển kinh tế,
việc thế lực phương Tây chia rẽ, diễn biến hòa bình lật
đổ cũng đồng thời là đối tượng mà Việt Nam phải đề
phòng như một trọng điểm. Sau khi thống nhất, Việt Nam luôn
mưu tìm địa vị bá quyền ở khu vực bán đảo Trung Nam (tên
gọi khác của "bán đảo Đông Dương" theo cách gọi của
người Trung Quốc, nghĩa là bán đảo phía Nam Trung Quốc, bao
gồm Việt Nam, Lào, tỉnh Vân Nam-Trung Quốc, Campuchia, Mianma,
Thái Lan và phần phía Tây Malaixia). Những năm trước đây Việt
Nam xâm nhập Campuchia, hiện nay tranh giành các đảo ở Nam Hải,
kiểm soát khu vực biển, tất cả đều là những bước đi
thực tế của Việt Nam nhằm thực hiện giấc mộng nước
lớn, vì thế tất yếu đã khiến Việt Nam đẩy nhanh nhịp
độ xây dựng lực lượng hải quân-không quân, giành được
tiếng nói có trọng lượng ở khu vực bằng thực lực quân
sự nhất định.

<strong>Chú trọng nhập vũ khí trang thiết bị kỹ thuật cao,
nâng cao hiệu quả tác chiến của hải quân-không quân</strong>

Để đáp ứng đòi hỏi trong tình hình mới, Việt Nam đã
điều chỉnh thể chế biên chế quân đội, quy mô lục quân
giảm mạnh, binh chủng kỹ thuật cao được tăng cường. Hải
quân-không quân được hỗ trợ, xác định rõ mục tiêu xây
dựng hiện đại hóa. Quân đội Việt Nam đã lần lượt xây
dựng "Kế hoạch phát triển vũ khí trang thiết bị hải quân
năm 2000" và "Kế hoạch phát triển hải quân thế kỷ 21",
mở rộng chi phí quân sự cho hải quân, trong khi mở rộng
nghiên cứu và mua sắm vũ khí trang thiết bị cũng đồng thời
xây dựng và mở rộng quân cảng quan trọng ở Trung Nam Bộ. Quy
hoạch xây dựng hải quân trung hạn và dài hạn ở Việt Nam
đã xác định rõ yêu cầu đến trước năm 2010 sẽ từng
bước thải loại trang thiết bị cũ, tăng thêm số lượng tàu
chiến đời mới, coi trọng phát triển tàu ngầm và bộ đội
không quân; Đến trước năm 2020 sẽ sơ bộ hoàn thành xây
dựng thể chế binh lực phòng vệ cơ bản ở Biển Nam Trung Hoa
(Biển Đông); Đến trước năm 2050 có khả năng tác chiến
độc lập ở biển xa.

Bắt đầu từ cuối năm 2009 lãnh đạo cấp cao quân
đội và Chính phủ Việt Nam đã mua tàu ngầm, máy bay chiến
đấu và tên lửa của Nga và Ixraen, tập trung xây dựng hệ
thống phòng không cảnh báo. Tháng 4/2009, Việt Nam tuyên bố
đặt mua 6 chiếc tàu ngầm lớp KILO cải tiến của Nga, tổng
giá trị khoảng 1,8 tỉ USD, chiếc đầu tiên dự kiến sẽ bàn
giao vào năm 2012. Việc mua bán này đã khiến hải quân Việt Nam
có sự thay đổi về chất trong quá trình phát triển, khả năng
tác chiến sẽ được nâng cao mạnh mẽ. Việt Nam đã đặt mua
của Nga hai chiếc tàu hộ vệ Gepard với tổng giá trị 350
triệu USD, đồng thời còn có kế hoạch tự lắp ráp hai tàu
cùng loại. Tàu hộ vệ Gepard cho đến nay là loại tàu chiến
mặt nước có hỏa lực mạnh nhất của hải quân Việt Nam,
lượng giãn nước là 2.090 tấn, có tính năng tàng hình nhất
định, trang bị vũ khí có hệ thống tên lửa chống hạm
"Uranus", hệ thống tên lửa phòng không "Palm", pháo 76 ly
và ngư lôi chống tàu ngầm, đồng thời tàu này còn có thể
chở một máy bay trực thăng Ka-28. Lần đầu tiên hải quân
Việt Nam đã có lực lượng không quân trên tàu chiến hải
quân.

<strong>Mở rộng ngoại giao quân sự, đẩy mạnh giao lưu quân
sự với các cường quốc</strong>

Những năm gần đây ngoại giao quân sự Việt Nam đã thể hiện
đặc điểm "đa dạng hóa, toàn phương vị", coi trọng giao
lưu quân sự với các nước lớn và các nước xung quanh.

Ngày 8/8/2010, tàu sân bay USS George Washington lần đầu tiên đi
vào vùng biển Đà Nẵng, cùng với hải quân Việt Nam triển
khai một loạt hoạt động giao lưu và diễn tập cứu hộ liên
hợp trên biển. Sau khi Obama lên nắm quyền, trọng tâm chiến
lược của Mỹ chuyển sang châu Á-Thái Bình Dương. Vốn là
nước đang muốn gấp rút tìm kiếm cơ hội xây dựng căn cứ
quân sự ở Đông Nam Á, Mỹ đã tiến hành đàm phán với Việt
Nam về việc thuê Cảng Cam Ranh.

Quan hệ giữa quân đội Việt Nam và quân đội Nga cũng được
củng cố sâu sắc hơn, hợp tác quân sự rộng rãi hơn. Trang
mạng của Quỹ Jamestown cho biết năm 2009 Việt Nam trở thành
nước nhập khẩu vũ khí lớn nhất của Nga, Nga cũng là nước
có vai trò không nhỏ đối với trình độ hiện đại hóa trang
thiết bị vũ khí của Việt Nam. Ngày 27/11/2005, tàu tuần dương
mang tên lửa Varyag của Nga đến thăm Đà Nẵng và thành phố
Hồ Chí Minh, đánh dấu giao lưu giữa hai quân đội bước lên
một nấc thang mới. Đồng thời, Nga cũng tỏ cho thấy rất
muốn trở lại Vịnh Cam Ranh.

Xuất phát từ những tính toán chiến lược của mình, hiện nay
cả Mỹ và Nga cùng nhắm đến Vịnh Cam Ranh được coi là hòn
ngọc quý hiếm ở khu vực Đông Nam Á. Chính sách ngoại giao
của Việt Nam cũng linh hoạt và thực tế hơn, không tiếp tục
"nghiêng hẳn về một phía", xử lý thế nào về tình huống
này là vấn đề vẫn còn phải tính toán kỹ lưỡng lâu dài.
Có thể thấy Vịnh Cam Ranh đã trở thành một lá bài để
Chính phủ Việt Nam lựa chọn giữa Mỹ và Nga.

Xét biểu hiện của Chính phủ và hải quân-không quân Việt Nam
gần đây, nước này rất muốn phát huy vai trò chủ đạo trong
tình hình Nam Hải hiện nay. Tăng cường thực lực hải
quân-không quân và lợi dụng ưu thế địa lý để có được
quyền kiểm soát một phần Nam Hải đã trở thành con đường
lý tưởng để Việt Nam có được con bài trong đàm phán. Việt
Nam tích cực cùng với các nước xung quanh cân bằng với Trung
Quốc là muốn nhờ đó để làm yếu đi ưu thế tổng thể
của Trung Quốc, buộc Trung Quốc phải nhượng bộ. Đồng thời
Chính phủ Việt Nam cũng tự biết rõ có lực lượng quân sự
của Mỹ và Nga xen vào chắc chắn tình hình khu vực sẽ căng
thẳng hơn, nhưng Việt Nam lại muốn có được lợi ích từ
Mỹ và Nga để nhờ đó kiềm chế Trung Quốc.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9896), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét