href="http://www.viet-studies.info/NhanVanGiaiPham_Zinoman_BBC.pdf">bài
của Lê Quỳnh</a> giới thiệu một cách đánh giá mới về phong
trào Nhân văn-Giai phẩm do một học giả Mỹ, Peter Zinoman, Giáo
sư Khoa lịch sử ở Đại học Berkeley, đề xuất (1). Tôi lấy
làm tiếc chưa được đọc nguyên bản bài nghiên cứu của vị
giáo sư Mỹ, nhưng qua bài giới thiệu của Lê Quỳnh, vị giáo
sư Mỹ cho rằng các nghiên cứu từ trước đến nay thường
"thổi phồng" giá trị đối kháng chế độ của Nhân Văn
Giai Phẩm mà không nghiên cứu kỹ những bài viết thực sự
của phong trào này, tìm hiểu bản chất của họ là gì. Căn
cứ vào những bài viết của Nhân Văn Giai Phẩm, học giả Mỹ
nhận xét như sau:
<ul><li>Nhân Văn Giai Phẩm không phải là một phong trào đối
kháng về quan điểm chính trị (như các phong trào tương tự ở
Đông Âu) mà chỉ chống đối những sự lạm dụng của các
cấp chính quyền.</li>
<li>Nhân Văn Giai Phẩm không hề chống Liên Xô hay các nước xã
hội chủ nghĩa khác, không chống chủ nghĩa Marx.</li>
<li>Nhân Văn Giai Phẩm coi phương Tây (Pháp, Mỹ,Anh…) là đế
quốc thù địch.</li>
<li>Nhân Văn Giai Phẩm không được các tầng lớp nhân dân
hưởng ứng rộng rãi. Họ được đề cao bởi những thế lực
muốn sử dụng họ vào mục tiêu tuyên truyền chống cộng của
mình.</li></ul>
Những năm xẩy ra phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, từ năm 1956
đến 1958, tôi là sinh viên Khoa Toán Đại học Sư phạm Hà
Nội. Tôi chứng kiến sự "trỗi dậy" ngoạn mục của phong
trào đồng thới theo dõi sát sao những cuộc phê phán dữ dội
từ phía chính quyền chống lại Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi có quan
điểm chính trị riêng của tôi về thời cuộc, nhưng khi viết
bài này, tôi cố gắng dẹp hết sang một bên, cố suy nghĩ
thật khách quan và khoa học về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
Tôi không rõ từ trước đến nay người ta viết những gì về
Nhân Văn Giai Phẩm, tôi ghi lại đây một số sự kiện tôi
biết chắc chắn và bản thân ít nhiều kiểm chứng được.
Báo chí trong nước dùng cụm từ Nhân Văn Giai Phẩm để chỉ
chung những trào lưu "bất mãn" thời kỳ 1956-1958 ở Hà Nội
và một số địa phương ở Miền Bắc Việt Nam. Tôi nhớ lại
rằng chính vào thời kỳ đó người ta gọi những người
thuộc các trào lưu trên là những phần tử "bất mãn", chưa
hề dùng từ "đối kháng", "chống đối" hay "ly
khai"… Tôi nhận thấy từ "bất mãn" rất phù hợp với
bước khởi đầu của Nhân Văn Giai Phẩm, một phong trào đa
tạp hầu như không liên kết với nhau, một phong trào tự phát
không do một ý thức hệ nào điều khiển. Thoạt tiên là nhóm
nhà văn quân đội, những kẻ dám liều lĩnh phê bình thơ Tố
Hữu rồi bị "chấn chỉnh" nên "bất mãn". Nhóm đó gồm
Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm rồi đến Văn Cao.... Đặc
điểm của nhóm này là uy tín chuyên môn và chính trị, họ là
những tác giả được quần chúng ngưỡng mộ, đồng thời họ
là những cán bộ xuất sắc trong kháng chiến chống Pháp, đã
được tặng thưởng nhiều huân chương cao quí của chế độ.
Họ tập hợp thành nhóm "Giai phẩm" vì cơ quan phát ngôn
của họ là tạp chí ra không định kỳ "Giai phẩm mùa thu",
"Giai phẩm mùa xuân". Họ có thần tượng văn nghệ là
Maiakovsky, không phải họ thân Liên xô mà họ chủ trương tự
do sáng tạo, phá những khuôn mẫu cũ, lấy "thơ bậc thang"
làm vũ khí tấn công bọn bảo thủ. Nhóm thứ hai, tạm gọi là
nhóm Nhân Văn, vì họ tập hợp quanh tờ báo "Nhân văn" của
cụ Phan Khôi. Trong lịch sử, cụ Phan vốn nổi tiếng là
"người đối kháng", từng chủ trương những tờ báo chống
đố trật tự thuộc địa và phong kiến. Khi tham gia kháng
chiến, cụ thấy nhiều điều đáng phê phán nhưng không phát
biểu được vì bị ý thức hệ ràng buộc. Thời cơ đến với
cụ là việc Đảng nhận sai lầm về cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức. Việc nhận sai lầm này không phải do lô
gích nội tại mà do áp lực chống sùng bái cá nhân do
Khơ–rút-sốp đề xuất trong Đại hội lần thứ 20 của
Đảng Cộng sản Liên Xô. Lá cờ mà cụ Phan phất lên là "tư
tưởng nhân văn" của Đại hội 20, chống độc tài chuyên
chế trong lãnh đạo, chống sùng bái cá nhân. Tờ Nhân Văn phê
phán công khai những sai lầm trong cải cách ruộng đất, những
sự lãnh đạo độc đoán trong giới chóp bu văn nghệ (Hoài
Thanh, Nguyễn Tuân, Tố Hữu…). Họ kiến nghị xây dựng một
nhà nước nhân ái, vì dân, dân chủ, văn minh. Nhóm thứ ba là
"nhóm đại học", tập hợp xung quanh tạp chí "Đại học
sư phạm" gồm những khuôn mặt tiêu biểu của giới trí
thức miền Bắc như bộ tứ Trần Đức Thảo, Trương Tửu,
Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh… Những vị trí thức này có
thành tích kháng chiến xuất sắc và có những công trình khoa
học tầm cỡ. Họ chủ trương một nền văn hoá "của con
người" chứ không phải "văn hoá của Đảng". Họ tranh
luận với những học giả bảo thủ như Đặng Thai Mai, Hoàng
Xuân Nhị xung quanh khái niệm "văn học có tính Đảng" của
Lê-nin. Theo Trần Đức Thảo, chuyên chính vô sản phải đảm
bảo tự do cá nhân. Nguyễn Mạnh Tường có bài phát biểu nổi
tiếng ở Hội nghị Trung ương Mặt Trận Tổ Quốc. Ông chủ
trương nhà nước pháp quyền, đề cao con người, tình đồng
loại, tình yêu… Nhóm thứ tư là tập hợp một sớ sinh viên
đại học xung quanh tạp chí "Đất Mới". Nhóm này chủ
trương sinh viên tự quản, chống lại sự ràng buộc cua Đoàn
Thanh niên Lao động, tay phải của Đảng. Trào lưu "Đất
Mới" tạo ra một "mùa xuân" trong giới sinh viên. Nhiều
lớp sinh viên lật đổ lớp trưởng, lớp phó do Đoàn Thanh
niên của Đảng áp đặt, họ bầu ra những cán bộ lớp mới
phù hợp với những tiêu chuẩn mà họ đặt ra. Họ không chịu
học chính trị, môn học do các cán bộ ít học vấn đảm
nhiệm, họ yêu cầu tổ chức những buổi tranh luận, thảo
luận về thời cuộc. "Mùa xuân" ấy tồn tại chừng ba
tháng, sau đó các hạt nhân nòng cốt của trào lưu bị trấn
áp. Nhóm thứ năm là những phần tử tập hợp xung quanh tờ
"Trăm hoa" của nhà thơ Nguyễn Bính. Theo Tô Hoài, Nguyễn
Bính có sinh hoạt phần nào buông thả nên hay "bất mãn".
Quả vậy, "bất mãn" của nhóm Trăm hoa không rõ rệt về
chính trị. Nhóm cuối cùng do người chủ Nhà xuất bản Minh
Đức hợp tác với Nguyễn Hữu Đang chủ trương xuất bản tự
do. Họ in lại những tác phẩm của Tự lực Văn đoàn, của Vũ
trọng Phụng, những tác phẩm thời đó coi như cấm kỵ. Ông
chủ nhà xuất bản Minh Đức là người có thành tích tham gia
kháng chiến. Ông Nguyển Hữu Đang là nhà cách mạng kỳ cựu,
thân cận với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ban đầu, chính quyền
nể họ mà không dám mạnh tay trấn áp.
Tất cả những trào lưu trên có chung một mục tiêu là đòi
tự do, dân chủ, chống độc đoán cá nhân, xây dựng một ý
thức hệ "nhân văn", bình đẳng. Nhà cầm quyền nắm bắt
được bản chất đó của những kẻ "bất mãn" nên họ
phát động một chiến dịch lớn chống lại khái niệm <em>tự
do tư sản</em>. Trong một buổi gặp gỡ toàn bộ sinh viên Hà
Nội ở Nhà hát Nhân dân, nay là Cung văn hoá hữu nghị, tướng
Giáp khuyên sinh viên nên tỉnh táo trước âm mưu của địch
xúi dục đòi tự do. Tướng Giáp cho biết quân đội sẵn sàng
đứng ra giữ trật tự nếu sinh viên nổi loạn. Chu Ân Lai, khi
thăm Đai học Hà Nội cũng nói nhiều về "thị du" (tự do,
lối đùa của Lỗ Tấn). Ông giảng giải sự khác nhau giữa
tự do đích thực của chế độ mới so với tự do tư sản.
Voroshilov khi đến thăm Đại học Hà Nội cũng nói đến tính
ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa so với chế độ tư
bản, khuyên sinh viên cảnh giác với tư do tư sản.
Việc Nhân Văn Giai Phẩm không chống trật tự cộng sản, không
chống Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa
khác, họ coi Mỹ, hay Phương Tây nói chung là đế quốc thù
địch có thể được giải thích qua bối cảnh lịch sử. Bối
cảnh đó như thế nào?
<strong>1.</strong> Miền Bắc Việt Nam thời đó chưa phải là
một nhà nước cộng sản. Dầu từ năm 1950 trở đi, chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông thâm nhập mạnh, về lí
thuyết Việt Nam vẫn sống theo Hiến Pháp 1946, một hiến pháp
dân chủ đại nghị theo mô hình Pháp. Trong chính phủ, rất
nhiều bộ trưởng là người ngoài Đảng: Phan Kế Toại (Nội
Vụ), Trần Đăng Khoa (Giao Thông Vận Tải), Nguyễn Văn Huyên
(Giáo Dục), Phan Anh (Ngoại Thương), Vũ Đình Hoè (Tư Pháp),
Nghiêm Xuân Yêm (Nông Nghiệp), Vũ Đình Tụng (Y Tế), Hoàng Minh
Giám (Văn Hoá)… Các cán bộ cao cấp của các ngành, sỹ quan
quân đội, vẫn là thành phần lớp trên do chế độ cũ đào
tạo, chưa bị thay thế bằng các phần tử công nông vô sản.
Việt Nam về hình thức là một nước theo <em><strong>chế độ
đa nguyên, đa đảng</strong></em>. Bên cạnh Đảng Lao động cầm
quyền, còn có các đảng khác không đối lập mà "anh em",
như Đảng Xã hội của Nguyễn Xiển, Đảng Dân chủ của
Nghiêm Xuân Yêm. Điều đáng chú ý là báo chí được tự do
như năm 1946, theo đúng hiến pháp. Vì vậy mà có tờ Nhân Văn
của cụ Phan, tờ Trăm hoa của Nguyễn Bính, các tập Giai phẩm
của nhóm Trần Dần, Lê Đạt, bên cạnh tờ Hà nội mới, ban
đầu là của tư nhân, về sau được công hữu thành báo của
nhà cầm quyền Hà nội. Cán bộ ngoại giao và chuyên gia Liên
xô được cử lần đầu sang Việt Nam hình dung mình sẽ đến
một nước nhiệt đới nghèo khổ, lạc hậu, ruộng đồng
đầy rắn rết và cá sấu. Vốn sống trong một nước bao cấp
thiếu thốn, họ ngỡ ngàng phát hiện một Hà Nội xinh tươi
với những cửa hàng đầy ắp hàng hoá, với những biệt thự
kiểu Pháp sang trọng và những con người thanh lịch có học
vấn cao. Nhưng điều mà họ ngỡ ngàng nhất là báo chí tự do,
chuyện khó xẩy ra ở đất nước họ. Giai đoạn này, từ ngữ
chính thống gọi là "dân chủ nhân dân", y như những năm
đầu của Trung Quốc thời Mao. Tố Hữu, khi phê phán Nhân Văn
Giai Phẩm, cũng nói: "<em>Họ chống lại nền chuyên chính dân
chủ nhân dân</em>" mà không nói "<em>chuyên chính vô
sản</em>". Trong nền dân chủ nhân dân này, các thành phần
kinh tế của chế độ cũ vẫn tồn tại: công thương nghiệp
tư nhân, tiểu thương, tiểu chủ, nông dân cá thể, những
người hành nghề tự do v.v... Các nhà tư sản tên tuổi như
Nguyễn Sơn Hà, Ngô Tử Hạ lập ra Hội công thương Hà nội.
Nhiều nghiệp chủ có chân trong quốc hội. Các ngoại ngữ Anh,
Pháp vẫn được dạy trong các trường chưa bị thay thế bằng
tiếng Nga hay tiếng Hoa. Ngôn ngữ giao dịch của ngành ngoại
giao là tiếng Pháp. <span class="underlined-text">Người dân bình
thường trong những năm ấy chưa thấy sức nặng của một hệ
thống toàn trị</span>. Vì vậy các trào lưu "bất mãn" trên
không chống chế độ mà chỉ chống những khía cạnh khắc
nghiệt mới nẩy sinh dưới chế độ đó như vấn đề hộ
khẩu, vấn đề thành phần giai cấp v.v... Có điều nghịch lý
khó tin là trong một vài tuần lễ vào năm 1956, Đảng đứng
chung trận tuyến với những kẻ bất mãn và quảng đại quần
chúng đối diện với hệ thống chỉ đạo cải cách ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức, kẻ nắm quyền thực sự
được các cố vấn phương Bắc hỗ trợ. Giáo sư Trần Văn
Giàu, dạo đó là bí thư chi bộ (hay Đảng ủy?) đại học,
được mời nói chuyện trước sinh viên về chính sách sửa sai
của Đảng. Ông Giàu cho biết trong một thời gian dài Đảng
bị tê liệt, hễ đội cải cách đến địa phương nào là
chính quyền và Đảng nơi đó bị vô hiệu hoá, kẻ thì đi tù,
kẻ thì lánh sang địa phương khác hay trốn lên miền núi, kẻ
thì ngồi đó chờ số phận định đoạt. Ngay các lãnh tụ
của Đảng như Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Hoàng Văn Hoan…vì
thuộc thành phần bóc lột mà bị các đội cải cách địa
phương và bần cố nông gửi giấy triệu tập về quê chịu
tội. Tướng Giáp khi công cán qua Quảng Bình bị dân quân vây
bắt, may mà cận vệ nổ súng đẩy lùi đám cuồng tín hung
hãn. Các tên tuổi trong Ban chỉ đạo cải cách như Hồ Viết
Thắng, Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương, làm sởn tóc gáy ngay
cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo ông Giàu thì Cụ Hồ hai lần
bị các vị kia "uốn nắn" vì đã do dự khi hành quyết
những phần tử mà Cụ cho là tốt, không có tội gì. Ông Giàu
kết thúc buổi nói chuyện bằng lời kêu ca rằng đám cải
cách làm đất nước lụn bại, làm đời sống nhân dân và cán
bộ lâm vào cảnh cùng cực. Ông lấy ví dụ về bản thân ông:
các đó hai năm (cuối 1954) ông được phát một đôi giày da
màu nâu để đi đón Nehru, thủ tướng Ấn độ ghé thăm Hà
nội, vậy mà cho đến nay (1956) ông vẫn chưa đủ tiền mua
đôi giày mới!
Chính nhờ Khơ-rút-sốp và Đại hội 20 của Liên Xô mà Đảng
Việt Nam thoát được tình trạng bị đám chỉ đạo cải cách
khống chế, mới mạnh dạn sửa sai dầu biết Trung Quốc khó
chịu. Các cấp Đảng từ Trung ương đến địa phương nắm
quyền trở lại, cán bộ bị oan sai được phục hồi. Sau khi
lấy lại vị thế cũ, Đảng quay lại chống Khơ-rút-sốp
kịch liệt, tuy chỉ là ngấm ngầm, đứng hẳn về phía Mao
lên án bọn xét lại hiện đại.
<strong>2.</strong> Hình ảnh Liên xô thời đó đối với mọi
tầng lớp nhân dân miền Bắc là tích cực. Trước hết, đó
là viện trợ vô tư về kinh tế và quân sự. Nhưng cái quan
trọng nhất đối với các trào lưu "bất mãn" là Đại hội
20 của Đảng Cộng sản Liên xô. Việc chống tệ sùng bái cá
nhân Staline và lên án những cuộc thanh trừng đẫm máu thời
Staline trở thành lá bùa hộ mệnh cho các trào lưu đó. Rõ ràng
ai cũng thấy Liên xô là chỗ dựa chắc chắn, còn việc Staline
ép Hồ Chí Minh phải thực hiện đấu tranh giai cấp ngay trong
giai đoạn giải phóng dân tộc thì ít ai biết được. Trung
Quốc thì vào thời đó là một nước ôn hoà. Họ chủ trương
cải tạo công thương nghiệp bằng chính sách công tư hợp doanh
chứ không tiêu diệt tư sản, ku-lắc, trục xuất trí thức ra
nước ngoài như nước Nga xô viết. Đại bộ phận nhân sỹ
trí thức sống yên ổn trong chế độ mới, thậm chí họ có
quyền tự trị đại học. Những sự kiện như Chu Ân Lai buộc
Việt Nam chia cắt đất nước, việc các cố vấn Trung Quốc
chủ trương giết càng nhiều càng tốt trong cải cách thì không
ai biết. Trong hoàn cảnh đó không một kẻ bất mãn Việt Nam
nào nghĩ đến chuyện chống Liên Xô, Trung Quốc hay phe xã hội
chủ nghĩa. Những vụ nổi loạn ở Hungari, Ba Lan.. được tuyên
truyền như là xung đột giữa hai phe, chứ không phải là ước
vọng của nhân dân đòi tự do dân chủ. Những kẻ bất mãn
Việt Nam hoặc suy nghĩ như các nhà cầm quyền, hoặc không
muốn dây vào âm mưu đế quốc nên dè dặt khi phát biểu.
<strong>3.</strong> Trí thức Việt Nam ngày nay lấy làm tiếc mà
nghĩ rằng sự đoạn tuyệt của đất nước với Phương Tây
trong một thời gian dài làm cho đất nước chậm phát triển,
nhất là trong tình hình hiện nay khi phải đối mặt một cách
cô đơn với người láng giềng hùng mạnh đầy tham vọng lãnh
thổ. Nhưng vào những năm cuối của thập kỉ 50 thế kỉ
trước, Phương Tây như thế nào? <span class="underlined-text">Đó
là nước Pháp với chính sách thực dân lỗi thời gây bao tang
tóc cho Việt Nam và các thuộc địa khác.</span> Mãi khi tướng
De Gaulle trả độc lập cho Algérie năm 1962 thì bộ mặt nước
Pháp mới thay đổi. <span class="underlined-text">Còn nước Mỹ thì
với tư tưởng chống cộng bệnh hoạn</span>, đã tiếp tay cho
thực dân trong suốt cuộc chiến tái chiếm thuộc địa, và như
"Người Mỹ trầm lặng" vạch rõ, rất ngây thơ trong việc
lật đổ những chính thể mà họ không ưa, rồi áp đặt cho
nước này nước nọ, trong đó có Việt Nam một cuộc chiến
tranh ý thức hệ với phe cộng sản. Nếu ngày nay những kẻ
"bất mãn" như Dương Thu Hương, Cù Huy Hà vũ, nhìn Phương
Tây như chỗ dựa tinh thần trong sự nghiệp đòi tự do, thì
vào thời Nhân Văn Giai Phẩm, dầu bất mãn đến đâu cũng
không thể nghĩ tốt cho Phương Tây, những kẻ chủ trương chia
cắt lâu dài Việt Nam, dội không biết bao nhiêu bom đạn lên
đầu người dân vô tội. Vả lại ngay trong thời điểm cao
trào Nhân Văn Giai Phẩm, liên quân Anh-Pháp-Israel tấn công Ai
cập nhằm chiếm lại quyền kiểm soát kênh Suez. Ai Cập là
một nước mới được độc lập, cũng như các nước mới
được giải phóng khác, phải đối mặt với âm mưu tái chiếm
thuộc địa của đế quốc. Trong hoàn cảnh đó, thân Phương
Tây đồng nghĩa với phản bội, một sự thực mà kẻ bất mãn
nào cũng muốn tránh.
<strong>4.</strong> Nhân Văn Giai Phẩm có ảnh hưởng như thế nào
trong nước và trên thế giới? Ai ủng hộ? Ai lợi dụng?
Đương nhiên những kẻ chống cộng trong và ngoài nước chớp
lấy cơ hội vàng để bôi bác chế độ miền Bắc, coi như minh
chứng về sự khắc nghiệt của chế độ cộng sản. Điều
nghịch lý là, đáng ra chính quyền Ngô Đình Diệm thời đó
phải hoan hỉ khai thác thì lại lệnh cho báo chí im lặng vì
sợ một Nhân Văn Giai Phẩm rất dễ xẩy ra ở miền Nam khó
kiểm soát hơn nhiều. Ở miền Bắc, Nhân Văn Giai Phẩm được
"đa số thầm lặng" ủng hộ. Tờ Nhân Văn số đầu tiên
như một tiếng sét giữa ban ngày. Quần chúng đang xem phim trong
các rạp ban ngày bỏ chạy ra đường tìm mua tờ báo. Tờ báo
nói lên nguyện vọng của dân chúng về một đời sống bình
thường, không bị đe doạ vì đấu tranh giai cấp hay bị trù
dập về mặt tư tưởng. Trong sinh viên đã xẩy ra thực sự
một mùa xuân hiếm có. Truyền thống Nhân Văn Giai Phẩm dai
dẳng trong giới văn nghệ sỹ và trí thức cho đến hôm nay. Sau
năm 1986, với chủ trương "đổi mới", người ta khôi phục
cho hầu hết các phần tử Nhân Văn Giai Phẩm. Trần Đức
Thảo, Nguyễn Mạnh Tường… được trả lương hưu, được
xuất bản sách. Hữu Loan, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt lại
xuất hiện trên văn đàn. Chỉ có những phần tử "hết sức
ngoan cố" như Trương Tửu, Nguyễn Hữu Đang ẩn náu kín đáo
nơi nào không ai biết. Trong những năm cuối thập kỉ 80 của
thế kỷ 20, nhiều nhà văn, nhà báo Phương Tây và Liên Xô rồi
Nga tìm cách tiếp cận vói các phần tử "cựu Nhân Văn Giai
Phẩm". Họ hơi thất vọng, y như vị học giả Mỹ hiện nay
ở Berkeley, phát hiện ra đó là những con người không có chính
kiến gì rõ rệt. Họ có lí vì trước khi đến Việt Nam họ
nghĩ tới những týp như Sakharov, Walesza, Clavel, Soljenitsine.. của
Đông Âu. Họ thấy những con người khác hẳn. Trần Đức
Thảo làm cho bạn bè cũ ở Paris phát khóc vì thất vọng khi
thấy ông ngoan cố đi theo Marx đến cùng. Rõ ràng những phần
tử Nhân Văn Giai Phẩm, do bối cảnh lịch sử mà khác xa đám
ly khai hay đối kháng Đông Âu. Tôi nghĩ nên đánh giá họ trong
bối cảnh riêng biệt của họ. Lấy cái nhìn đồng đại để
xét đoán một vấn đề lịch đại, theo tôi, không phải là
cách làm thích đáng.
HCM, 6/9/11.
Trương Quang Đệ
Tác giả gửi cho viet-studies ngày 6/9/2011
_____________________________
(1) <a
href="http://www.viet-studies.info/NhanVanGiaiPham_Zinoman_BBC.pdf">Lê
Quỳnh: Một đánh giá mới về Nhân văn-Giai phẩm</a>, bài đăng
ngày 2/9/11 trên BBC tiếng Việt.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9869), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét