Phạm Văn Bản - Bàn về Hiến Pháp CHXHCN Việt Nam

Đọc bản Hiến Pháp của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, tôi có cảm tưởng rằng, ông chủ muốn
dựng ngôi nhà tình thương cứu người. Nhưng khi xây cất
lên, ông lại thay đổi ý định, muốn bế quan tỏa cảng, và
ra lệnh cho đám thợ vít kín các ngõ ngách ra vào, để
khiến cho mọi người sống trong nhà bị ngộp thở, bệnh
họan, thiếu sinh khí! Dù rằng trên nóc gia trang, ông chủ có
cho thợ sơn phết tấm bùa lỗ bang "Độc lập – tự do –
hạnh phúc." Nhưng lá bùa hộ mệnh này dường như hết hiệu
nghiệm… và từ chủ chí nô, đều mắc chứng kinh phong lở
lóet, ngứa ngáy khó chịu, sức mỏi trí mệt! Vì mình hại
mình!

Phải thừa nhận rằng, đảng Cộng Sản Việt Nam cũng có
kinh nghiệm soạn thảo 3 bản hiến pháp, nhưng tới bản
thứ 4 viết vào năm 1992, thì tự dưng lại làm mất hết tín
chỉ, hay cái gọi là "tích sạn chính trị" vì đã không theo
bài bản và lịch sử chính trị của các nước dân chủ
thế giới. Ngược lại, đảng ta lại học hỏi Bác Kim nhằm
thực hiện chế độ độc tài toàn trị, và sọan thảo cái
bản hiến pháp ngược đời. Hiến pháp của các nước dân
chủ không ghi nhận chủ nghĩa, không ấn định độc đảng,
không ghi các tổ chức ngoại vi Đoàn Thanh Niên, Nghiệp
Đoàn, Mặt Trận Dân Tộc… Và từ đó Hiến pháp CHXHCNVN
đã trở thành một văn kiện vô nghĩa, vô giá trị vì
không đặt căn cứ theo sự thỏa thuận của hai phía,
chính quyền và nhân dân, trên nền tảng của lý thuyết
khế ước, mà ngược lại, xây dựng trên căn bản của
chủ nghĩa Marx-Lenin, lấy Đảng Cộng sản làm giai cấp
lãnh đạo, như Lenin từng nói, "Đảng Cộng sản đứng
trên và đứng ngoài luật pháp."

Theo đó, khiến chúng ta liên tưởng tới thời đại nông
nghiệp xa xưa, khi còn sinh hoạt chính trị quân chủ, vua là
con Trời, thế thiên hành đạo, đứng trên và đứng
ngoài luật pháp như Lenin từng nói. Cũng như vua, Cộng Sản
cũng đứng trên mà truyền lệnh xuống, lệnh của họ là
lệnh của Trời, và ai trái ý Trời, trái ý "bác
đảng" đều bị mang đi cải tạo, chu di tam tộc, hoặc bị
đảng lôi ra bờ đìa đập đầu và cho đi mò tôm!

Việc làm rõ ràng như thế mà họ lại lấp liếm gọi là
hiến pháp? Phải chăng chỉ là loại pháp lệnh, được
cải danh hiến pháp cho có vẻ che đạy trước trào lưu dân
chủ tiến bộ của nhân loại. Ngày xưa khi người dân bị
áp bức, bị kèm kẹp tới tận cùng thì họ vùng lên
đòi hỏi quyền làm người, đòi tự do dân chủ. Những
ông vua đã phải nhượng bộ, phải lập ra hiến pháp
để giới hạn quyền của vua, mà thêm quyền hạn cho dân.
Nhưng hôm nay giai cấp cầm quyền mới, người Cộng Sản
lại đi ngược trào lưu tiến hóa chính trị của loài
người, mà dùng pháp lệnh là thứ hình luật được
áp dụng trong cai trị, nhằm củng cố địa vị quyền
hành, gia tăng độc tài chuyên chế, và phát triển bạo
lực tội ác.

Nhìn lại từ cái thuở loài người mới kết xã, chưa có tiền
tệ, chưa có chữ viết, chưa có luật lệ thì những giao tiếp,
trao đổi hay liên hệ thường theo bản năng, thỏa thuận, giao
ước từ hai phía, hai người, hai nhóm hoặc hai gia đình. Và
lối giao tiếp, liên hệ này dần dà biến thành thói quen, thành
ra cái lệ mà người ta gọi là tục lệ.

Tục lệ đã được bổ túc, biến cải cho thích hợp với nếp
sống và phát triển của mỗi dân tộc qua bao ngàn năm. Những
người sống chung trong xã hội, phần đông tuân theo, noi theo
luật lệ theo thói quen của lớp tiền nhân thuở trước mà cư
xử với nhau. Đang khi, phần nhỏ đã không tuân giữ điều lệ
tự nhiên, nghĩa là trong giao tiếp họ có bội ước, bội tín
và lật lọng, hành động ngang ngược đã khiến cho số đông
phải chọn ra một Trưởng Lão, là người sống lâu và có
nhiều kinh nghiệm, uy tín trong thôn làng hay bộ lạc mà phán
quan xét xử.

Rồi những vụ xét xử như thế, dẫn đến kết quả bên đúng
bên sai, bên có tội bên vô tội… dù là oan hay ưng, người ta
đã phải ngăn ngừa tội lỗi mà đặt ra hình phạt cho kẻ có
tội, để làm gương cho những người khác. Từ đó, luật lệ
ra đời.

Nói rõ ràng như thế, thì trước khi có hình luật được khai
sinh, con người đã có tục lệ, tức là những luật lệ dựa
trên căn bản của sự thỏa thuận, thỏa hiệp để tồn tại
và cùng phát triển của hai người, hai nhóm.

Vậy thì luật pháp phải chăng đã là cách gọi chung của hình
luật và tục lệ. Và cả hai hình thức luật pháp này được
đưa vào tổ chức cai trị để giúp cho xã hội phát triển,
ổn định và điều hòa.

Tiếp đến, các dân tộc khắp nơi trên thế giới, khi thành
lập quốc gia thì tục lệ đã giữ một vai trò quan trọng và
thiết yếu trong việc điều hòa xã hội; và tổ chức cai trị,
tức triều đình áp dụng hình luật để giữ gìn an ninh, trật
tự xã hội. Hai hình thức của luật pháp: Tục Lệ có nhiệm
vụ giữ gìn thuần phong mỹ tục, vun bồi luân lý đạo đức;
và Hình Luật giữ nhiệm vụ trừng phạt những kẻ thác loạn,
vi phạm hệ thống giá trị của xã hội và con người.

Theo thời gian, các vua quan của nền quân chủ cũng bỏ quên vai
trò của Luật Pháp và Tục Lệ, và chỉ xử dụng một hình
thức luật pháp, đó là hình luật. Hơn thế nữa họ phá bỏ
nhiệm vụ trong sáng của hình luật ban đầu, là bảo vệ hệ
thống giá trị của xã hội và con người. Họ xử dụng hình
luật như một thứ vũ khí để tiêu diệt hay bịt miệng những
ai có can đảm phê phán, chống đối hành động độc tài của
họ.

Bởi thế trong suốt 3500 năm của lịch sử quân chủ phong
kiến, chuyên chế thì người dân đã bị tròng lên đầu một
thứ luật pháp duy nhất, là hình luật, là pháp lệnh khắc
nghiệt và bất công.

Vào khoảng 500 năm trước nhật lịch, ở Á Châu có Khổng Tử,
triết gia đã nhìn ra sự độc đoán, phi lý của pháp lệnh,
nên đã thu góp lượm nhặt những điều tốt từ pháp luật
tục lệ mà ghi chép lại thành ra quyển Thượng Thư, một trong
những cuốn trong chương trình mà ông biên soạn Ngũ Kinh, nhằm
giảm bớt độc tài, độc đoán dã man của các tầng lớp vua
chúa quan lại, tức những nhà lãnh đạo chính trị ngày ấy,

Vào khoảng năm 384-322 trước tây lịch, triết gia Hy Lạp
Aristotle cũng nhìn thấy sự phi lý của hình luật và nặng về
pháp lệnh do giai cấp cai trị đặt ra. Ông cũng đã dựa trên
luật pháp tục lệ để đưa ra một ý niệm chính trị, đặc
biệt là sự liên hệ thỏa hiệp của giai cấp thống trị và
giai cấp bị trị, được người đời sau biết đến qua cái
tên Lý Thuyết Khế Ước. Lý thuyết này xác nhận giai cấp cai
trị là chính quyền, và muốn được chính danh, phải dựa trên
Giao Kèo, trên sự Đồng Thuận của người dân bị trị.

Lý thuyết này cũng được Thomas Hobbes và John Locke khai triển
vào cuối thế kỷ 17 ở Anh, và Jean Jacques Rousseau ở Pháp và
cuối thế kỷ 18, với những nguyên tắc của Lý Thuyết Khế
Ước là:

- Sự chấp thuận, thỏa thuận phải là giao ước nền tảng
của sự cai trị
- Tối quyền của cá nhân đối với xã hội văn minh, và quyền
lợi đối với nghĩa vụ
- Bảo vệ các quyền tự nhiên, nhân quyền là mục đích cuối
cùng của chính quyền
- Quyền khởi loạn, làm cách mạng

Lý thuyết khế ước phân tích nguyên nhân căn bản của con
người, từ đó dẫn đến những căn bản về đời sống chính
trị. Theo thuyết này, nhân loại chịu ảnh hưởng bởi hai
nguyên nhân chính là kiêu hãnh và sợ hãi.

Sự sợ hãi của con người dẫn đến sự xác định là, con
người có những quyền tự nhiên như quyền tự vệ và cá
quyền liên quan như tự do và sở hữu. Sự kiêu hãnh thì tạo
ra mâu thuẫn và xung đột. Nếu thiếu đời sống xã hội văn
minh thì sự xung đột này sẽ dẫn đến chiến tranh.

Bản tính tự nhiên của con người là gây chiến, và để tránh
sự ghê gớm này, cũng như bảo đảm các quyền tự nhiên của
con người, thì chính quyền phải được thành lập do khế
ước. Các chính quyền đều bị hạn chế bởi mục đích đã
đưa đến sự thành lập chính quyền. Nếu chính quyền nào
vượt quá mục đích thì người dân có quyền phản kháng,
khởi nghĩa và làm loạn.

Do đó, chính quyền được hiện hữu trong một xã hội, thì
bộ luật thành văn phải được lập ra, và được sự đồng
ý bởi những người bị cai trị. Sự đồng ý thỏa thuận về
pháp luật của thành phần cai trị và bị trị trong chính trị
được gọi là Hiến Pháp.

Từ những luận cứ này, nhiều định nghĩa về hiến pháp
được xuất hiện. Theo quan điểm của pháp lý, thì hiến pháp
được gọi là Luật Căn Bản, là bộ luật mẹ trên đường
hướng hợp nhất với các luật lệ căn bản trong ý niệm
cộng đồng, và trong ý niệm cai trị một nước. Bởi thế,
định nghĩa về hiến pháp thời nay là sự tổ chức công
quyền, các bộ, sở của chính phủ và sự liên quan của các
cơ sở đó.

Tóm lại, đọc hiến pháp của CHXHCNVN, chúng ta đã thấy ngay
rằng những người CSVN chỉ xử dụng Hình Luật và sản sinh ra
pháp lệnh. Đang khi, Tục Lệ mới giúp sản sinh ra Hiến Pháp,
như những điều mà người viết đã trình bày rõ ràng ở
phần trên. Tuy rằng luật pháp là cách gọi chung, nhưng hiến
pháp và hình luật là hai vấn đề, hai mục đích trong việc thi
hành luật. Mục đích của hiến pháp là bảo vệ các thành
phần cá nhân trong cộng đồng chính trị, chống lại sự can
thiệp của quyền lực tiến vào đời sống tự do, tự trị
của từng cá nhân.

Với phạm vi cá nhân, nhân quyền là tự chủ. Nhân quyền là
quyền tối thượng của con người và vượt trên phạm vi quốc
gia. Dân quyền là tự do. Chính quyền là dân chủ. Chính quyền
và dân quyền được tôn trọng ngang nhau theo nguyên tắc bình
quyền. Đó chính là xã hội nhân bản.

Nhưng trên thực tế, nhân quyền thường bị thay đổi theo tùy
nơi, trường hợp và thời đại. Bởi thế nhân quyền tại
Việt Nam lại trở thành vấn đề phức tạp nhiêu khê vì do
nhà cầm quyền sở tại ấn định. Vậy chúng ta muốn đánh
giá hay xác định nấc thang giá trị của một chính phủ, chúng
ta cần phải khảo sát về quyền cá nhân mà chính quyền tuyên
bố trong hiến pháp, và so sánh thực tế tự do cá nhân của
nước đó đang hưởng ra sao.

Tóm lại, mục đích của hiến pháp là bảo vệ từng cá nhân
trong cộng đồng chính trị. Tiếp đến là ứng dụng vào việc
phân chia quyền lực chính trị, nguyên tắc phân quyền, được
coi là mục tiêu thứ hai của hiến pháp. Một chính quyền hiến
định, là một chính quyền đó phải bị hạn chế quyền hành
qua phương pháp phân quyền, tản quyền, chia quyền… nhằm ngăn
ngừa sự tập trung quyền lực vào một chính quyền trung ương,
một đảng chính trị cầm quyền như đảng Cộng sản tại
Việt Nam. Bởi thế, mỗi chế độ chính trị đã cần có một
Khung Tổ Chức để phân chia quyền hành của một cơ quan công
quyền, một hệ thống định nghĩa quyền cá nhân, và một quy
chế cộng đồng.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9919), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét