(VNDCCH) đã nói hoặc không nói liên quan đến Hoàng Sa, Trường
Sa đã để lại một vũ khí tuyên truyền mà Trung Quốc đã,
đang và sẽ tiếp tục khai thác trong tranh chấp chủ quyền trên
hai quần đảo này với Việt Nam.
Thực tế là VNDCCH đã không hề tuyên bố rằng Hoàng Sa,
Trường Sa là của mình, hoặc là của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).
Nổi bật nhất là VNDCCH đã không có lời bảo lưu về hai
quần đảo này trong công hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn
Đồng gửi Chu Ân Lai ngày 14/9/1958.
Ngoài ra, phía Trung Quốc còn cho rằng tồn tại những sự kiện
sau:
● Ngày 15/6/1956, Thứ trưởng Ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm
đã nói với thường vụ viên của sứ quán Trung Quốc tại Hà
Nội rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc. Tuy nhiên,
Trung Quốc chưa từng nêu ra biên bản của buổi họp họ cho
rằng trong đó Ung Văn Khiêm đã nói điều trên.
● Sách giáo khoa và bản đồ và báo Nhân Dân dưới thời
VNDCCH đã thể hiện quan điểm Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung
Quốc.
Dễ có thể thấy được tại sao những điều trên là vũ khí
tuyên truyền lợi hại cho Trung Quốc, nhưng theo pháp lý quốc
tế thì không có nghĩa chúng làm cho nước Việt Nam thống nhất
mất chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa vào tay Trung
Quốc.
Chúng ta có lập luận mạnh mẽ để cho rằng trước khi Việt
Nam chia đôi, Hoàng Sa là của Việt Nam, và Pháp đã tuyên bố
chủ quyền đối với Trường Sa một cách hợp pháp và sáp
nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa của Nam Kỳ.
Tuy vậy, giai đoạn Việt Nam chia đôi đã để lại một số
nghi vấn cho danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam. Vì VNCH và
VNDCCH đã có những hành vi rất khác nhau liên quan đến Hoàng
Sa, Trường Sa, trả lời cho một số câu hỏi về tính quốc gia
và thẩm quyền của VNDCCH và VNCH trong giai đoạn này có nhiều
ảnh hưởng đến lập luận của Việt Nam.
Mục đích của bài viết này là tổng hợp một số khả năng
và lập luận khác nhau lại thành một bản đồ lý lẽ. Bản
đồ đó còn nhiều thiếu sót vì còn nhiều vấn đề cần
được các nhà luật học Việt Nam làm sáng tỏ, nhưng hy vọng
rằng nó sẽ đóng góp cho thảo luận và khuyến khích việc
nghiên cứu. Người đọc có thể tự xét xem quan điểm của
mình nằm đâu trên bản đồ đó, hay nằm ở điểm chưa có
trên bản đồ, có thể tự bác bỏ một số điểm trên bản
đồ, và có thể tự xét xem cần thêm gì để củng cố lập
luận cho quan điểm của mình. Với mục đích đó, bài này sẽ
xét những trường hợp sau cho giai đoạn chiến tranh 1954-1975.
<table>
<tr>
<td>Ký hiệu</td>
<td> Trường hợp</td>
</tr>
<tr>
<td>2-B</td>
<td>Có 2 Quốc gia, và Quốc gia ở miền Bắc (VNDCCH) thừa kế
Hoàng Sa, Trường Sa từ nước Việt Nam trước khi chia đôi.</td>
</tr>
<tr>
<td>2-N</td>
<td>Có 2 Quốc gia, và Quốc gia ở miền Nam (VNCH) thừa kế Hoàng
Sa, Trường Sa từ nước Việt Nam trước khi chia đôi. Trường
hợp này bao gồm hai tiểu trường hợp 2-N-K và 2-N-R dưới
đây.</td>
</tr>
<tr>
<td>2-N-K</td>
<td>Có 2 Quốc gia, Quốc gia ở miền Nam (VNCH) thừa kế Hoàng Sa,
Trường Sa, và VNDCCH đã không gây ra cho bản thân mình sự ràng
buộc không tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Quốc</td>
</tr>
<tr>
<td>2-N-R</td>
<td>Có 2 Quốc gia, Quốc gia ở miền Nam (VNCH) thừa kế Hoàng Sa,
Trường Sa, nhưng VNDCCH đã gây ra cho bản thân mình một sự
ràng buộc không tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung
Quốc.</td>
<tr>
<td>1-B</td>
<td>Có 1 Quốc gia, và chính phủ miền Bắc là đại diện cho
Quốc gia đó trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975.</td>
</tr>
<tr>
<td>1-N</td>
<td>Có 1 Quốc gia, và chính phủ miền Nam là đại diện cho
Quốc gia đó trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975.</td>
</tr>
<tr>
<td>1-X</td>
<td>Có 1 Quốc gia, và trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975 không
có chính phủ nào riêng biệt có thể thay đổi về danh nghĩa
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa.</td>
</tr>
</tr>
</table>
Khi viết bài này, một số nhà luật học có nhiều uy tín của
Việt Nam đã giúp tác giả một số tư liệu, thông tin, nhiều
hướng dẫn quý báu về pháp lý quốc tế, và nhiều thảo
luận về lập luận. Tác giả cảm ơn các nhà luật học này.
Tất cả những sai sót về kiến thức, phương pháp lập luận,
quan điểm, là của tác giả.
<h2>Trong giai đoạn Việt Nam chia đôi</h2>
Một số sự kiện liên quan đến giai đoạn này là:
<div class="special_quote">● Ngày 2/9/1945 chính quyền Việt Minh
tuyên bố sự ra đời của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa.
● Ngày 5/6/1948 Pháp ký hiệp ước Vịnh Hạ Long công nhận
một chính thể dưới chính quyền Bảo Đại với tên Quốc gia
Việt Nam.
● Ngày 20/7/1954 Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký
Hiệp định Genève tạm thời chia Việt Nam thành hai vùng tập
kết quân sự.
● Ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập chính
thể Việt Nam Cộng hòa.
● Năm 1969 chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam được
thành lập với chính quyền là Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.
● Ngày 30/4/1975 chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể.
● Ngày 25/4/1976 Việt Nam bầu cử Quốc hội cho nước Việt
Nam thống nhất.
● Ngày 2/7/1976 chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam sáp nhập với nhau
thành chính quyền của nước Việt Nam thống nhất với tên
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.</div>
<h2>Một hay hai Quốc gia?</h2>
Câu hỏi trước tiên cho giai đoạn này là câu hỏi: <em>VNDCCH
và VNCH là hai Quốc gia độc lập hay là hai vùng lãnh thổ của
một Quốc gia trong tình trạng nội chiến?</em>
Theo luật quốc tế, để là một Quốc gia (State), cần có (i)
lãnh thổ, (ii) nhân dân, (iii) chính phủ, và (iv) khả năng có
quan hệ với các chính phủ khác.
Một số nhà luật học có nhiều uy tín của Việt Nam cho rằng
ý kiến của các luật gia quốc tế nổi tiếng nhất, thí dụ
như James Crawford, Robert Jennings, Nguyễn Quốc Định, Jules
Basdevant, Paul Reuter, Louis Henkin, Grigory Tunkin, cho rằng VNDCCH và
VNCH là hai Quốc gia khác biệt.
Trong quyển The Creation of States in International Law, GS James Crawford
lập luận như sau để cho rằng VNCH và VNDCCH là hai Quốc gia.
● Sự ra đời của VNDCCH vào năm 1945 không có gì bất hợp
pháp và VNDCCH có thể cho rằng mình là đại diện cho toàn
Việt Nam. (Lưu ý với luận điểm này GS Crawford không khẳng
định VNDCCH là một Quốc gia vào năm 1945). Sau khi Pháp "công
nhận sự độc lập" của Quốc Gia Việt Nam (QGVN) trong Hiệp
ước Vịnh Hạ Long 1948, với điều kiện QGVN phải nằm trong
Liên Hiệp Pháp, VNDCCH và QGVN cũng vẫn chưa là hai Quốc gia, vì
VNDCCH thì chưa kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ, còn QGVN
thì chưa thật sự độc lập.
● Việc Hiệp định Genève 1954 thiết lập hai vùng tập kết
quân sự phải được xem như sự thiết lập hai Quốc gia. Trên
phương diện luật pháp cũng như trên thực tế, lãnh thổ của
mỗi Quốc gia trên không phải là toàn bộ Việt Nam. (Với luận
điểm này, GS Crawford cho rằng ranh giới trong Hiệp định Genève
đã trở thành biên giới giữa hai Quốc gia, có nghĩa VNDCCH và
QGVN (cũng như VNCH, là thể chế tiếp nối QGVN) đáp ứng
được các điều kiện về (i) lãnh thổ và (ii) nhân dân).
● Trong Hiệp đinh Paris 1973, VNCH và VNDCCH được xem như hai
thể chế trong việc sử dụng quân sự, tự khẳng định, đối
nội và đối ngoại. Những thể chế như thế là những Quốc
gia. (Với luận điểm này, GS Crawford cho rằng Hiệp đinh Paris
1973 có nghĩa VNDCCH và VNCH đáp ứng được các điều kiện
(iii) chính phủ và (iv) khả năng có quan hệ với các chính phủ
khác, và vì vậy nó công nhận VNCH và VNDCCH là hai Quốc gia).
Chắc chắn là VNDCCH và VNCH đều có thể đáp ứng được các
điều kiện (iii) chính phủ và (iv) khả năng có quan hệ với
các chính phủ khác, nhưng còn hai điều kiện (i) lãnh thổ và
(ii) nhân dân thì sao?
Theo ý kiến của tác giả, mặc dù thực tế về sự kiểm soát
và ngoại giao ủng hộ quan điểm tồn tại hai Quốc gia với
lãnh thổ và nhân dân được giới hạn bởi vĩ tuyến 17, để
trả lời câu hỏi về có một hay hai Quốc gia, intention cũng là
một khía cạnh cần được xét đến song song với thực tế.
Intention của VNCH và VNDCCH là gì? Có phải là mình là Quốc gia
với lãnh thổ và nhân dân được giới hạn bởi vĩ tuyến 17
hay không?
Hiến pháp đầu tiên của VNDCCH ra đời năm 1946. Đương nhiên
lúc đó VNDCCH cho rằng lãnh thổ của mình bao gồm Bắc, Trung,
Nam. Điều 2 hiến pháp VNDCCH 1946 ghi, <em>"Đất nước Việt Nam
là một khối thống nhất Trung Nam Bắc không thể phân
chia"</em>. Lời nói đầu của hiến pháp 1959 của VNDCCH ghi,
<em>"Nước Việt Nam ta là một nước thống nhất từ Lạng
Sơn đến Cà Mau"</em>, và điều 1 ghi, <em>"Đất nước Việt
Nam là một khối Bắc Nam thống nhất không thể chia
cắt".</em>
Việc từ <em>"thống nhất"</em> và các cụm từ <em>"không
thể phân chia"</em> và <em>"không thể chia cắt"</em> được
dùng cho một thực thể địa lý, ở đây là <em>"Đất nước
Việt Nam"</em> từ Bắc đến Nam, có vẻ như là sự khẳng
định không thể chia thực thể địa lý đó thành hay cho hai
Quốc gia. Như vậy, dường như các hiến pháp của VNDCCH không
công nhận việc chia thực thể địa lý bao gồm Bắc, Nam thành
hai Quốc gia.
Hiến pháp đầu tiên của VNCH ra đời năm 1956. Lời mở đầu
viết "Ý thức rằng Hiến pháp phải thực hiện nguyện vọng
của nhân dân, từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan". Điều 1
hiến pháp VNCH 1956 ghi, <em>"Việt Nam là một nước Cộng hòa,
Độc lập, Thống nhất, lãnh thổ bất khả phân"</em>. Điều
1 hiến pháp VNCH 1967 lặp lại điều 1 của hiến pháp VNCH 1956.
Câu hỏi là <em>"Việt Nam"</em> trong điều 1 hiến pháp VNCH
1956 là từ Cà Mau đến vĩ tuyến 17 hay đến Ải Nam Quan? Nếu
là đến Ải Nam Quan thì dường như <em>"Thống nhất"</em> và
<em>"bất khả phân"</em> trong hiến pháp VNCH cũng có nghĩa
không công nhận việc chia thực thể địa lý bao gồm Bắc, Nam
thành hai Quốc gia.
Hiệp định Genève 1954 chia đôi Việt Nam chỉ chia Việt Nam
thành hai vùng tập kết quân sự và quy định rằng cho đến khi
có tổng tuyển cử thì việc quản lý dân sự trong nằm trong
tay VNDCCH và Liên Hiệp Pháp. Như vậy, Hiệp định Genève riêng
nó không chia Việt Nam thành hai Quốc gia với hai chính phủ.
Hiệp định Paris 1973 cũng khẳng định là ranh giới trong Hiệp
định Genève 1954 chỉ là ranh giới tạm tời giữa hai vùng tập
kết quân sự, chứ không phải ranh giới chính trị hay lãnh
thổ.
Như vậy, có thể lập luận rằng các hiến pháp của VNDCCH và
VNCH đều cho rằng từ Nam Quan đến Cà Mau chỉ có một Quốc
gia, tức là lãnh thổ của VNCH hay VNDCCH đều không bị giới
hạn bởi vĩ tuyến 17, và Hiệp định Genève 1954 không đi
ngược với quan điểm đó. Cũng xin nói thêm là QGVN không ký
kết hiệp đinh này.
Phân tích về các hiến pháp này, một trong những nhà luật
học có nhiều uy tín của Việt Nam cho rằng:
● Các hiến pháp trên đã cố tình tránh dùng các thuật ngữ
pháp lý <em>"lãnh thổ nước VNDCCH"</em> hay <em>"lãnh thổ
nước VNCH"</em>, và chỉ thể hiện quan điểm chính trị (thay
vì quan điểm pháp lý) của VNCH và VNDCCH không chấp nhận sự
chia đôi vĩnh viễn, và không chấp nhận việc có hai Quốc gia.
● Quan điểm chính trị đó đã phải nhường bước trước
thực tế chính trị - pháp lý, và VNCH và VNDCCH đã hành xử
như hai Quốc gia với lãnh thổ giới hạn bởi vĩ tuyến 17.
● Thực tế quản lý, ngoại giao và những điều trên ủng hộ
quan điểm VNDCCH và VNCH là hai Quốc gia.
Câu hỏi ở đây là một phiên tòa quốc tế, hay các nhà luật
học quốc tế, sẽ giải thích các hiến pháp trên thế nào? Và
nếu giải thích đó đi ngược với thực tế quản lý và
ngoại giao nghiêng về có hai quốc gia, thì tòa và các nhà luật
học sẽ quyết định thế nào?
Ngoài những cân nhắc trên, chúng ta cũng phải xét đến câu
hỏi: Quan điểm của chính phủ Việt Nam ngày nay là gì? Quan
điểm đó có thể ảnh hưởng đến việc tranh tụng ở tòa và
lập luận mà các tác giả Việt Nam có thể công bố rộng rãi.
Chúng ta có thể xây dựng luồng lập luận chính về Hoàng Sa,
Trường Sa dựa trên một trong hai trả lời, nhưng cũng vẫn
phải xây dựng luồng lập luận phụ để dự trù cho trường
hợp trả lời đó không được tòa, hay ý kiến luật học, hay
các nhà chính trị Việt Nam ngày nay chấp nhận.
<h2>Các trường hợp hai Quốc gia: 2-B, 2-N, 2-N-K, 2-N-R</h2>
Trong trường hợp VNDCCH và VNCH là hai Quốc gia khác biệt, chúng
ta phải trả lời câu hỏi: <em>Quốc gia nào đã thừa kế danh
nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ nước Việt
Nam trước đó?</em>
Hiêp định Genève không trả lời rõ ràng về vấn đề này.
Thứ nhất, Hiêp định Genève không ghi rõ ràng về Hoàng Sa,
Trường Sa thuộc về vùng tập kết quân sự nào. Theo Hiêp
định Genève, ranh giới chỉ kéo dài từ đất liền vào lãnh
hải theo một đường vuông góc với bờ biển. Lúc đó, lãnh
hải chỉ là 3 hải lý hay cùng lắm là 12 hải lý cho nên ranh
giới đó không vươn ra đến Hoàng Sa, Trường Sa. Tuy nhiên,
một trong những nhà luật học hàng đầu của Việt Nam cho
rằng, theo quan điểm của Việt Nam lúc đó, Hoàng Sa, Trường Sa
là lãnh thổ phụ thuộc của các tỉnh ven bờ cho nên hai quần
đảo này đương nhiên thuộc về vùng tập kết phía nam cùng
với các tỉnh đó.
Thứ nhì, Hiệp đinh nói về hai vùng tập kết quân sự chứ
không phải về lãnh thổ của hai Quốc gia.
Vì vậy, có lẽ trả lời cho câu hỏi <em>"Quốc gia nào đã
thừa kế danh nghĩa chủ quyền quyền đối với Hoàng Sa,
Trường Sa từ nước Việt Nam trước đó?"</em> tùy thuộc vào
thực tế quản lý và nhận thức của VNDCCH và VNCH. Như vậy,
trên lý thuyết có hai trường hợp sau.
<h2>Trường hợp 2-B</h2>
VNDCCH và VNCH đã trở thành hai Quốc gia khác biệt và VNDCCH là
Quốc gia thừa kế danh nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa,
Trường Sa. Trong trường hợp này, các hành vi của VNDCCH liên
quan đến Hoàng Sa, Trường Sa sẽ bất lợi cho chủ quyền Việt
Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam phải bác bỏ
trường hợp này. Để dự trù cho trường hợp sự bác bỏ
không thuyết phục được toà án quốc tế hay ý kiến học
thuật, các nhà nghiên cứu Việt Nam phải nghiên cứu về các
nguyên tắc recognition, acquiescence và estoppel trong luật quốc tế
để lập luận rằng các hành vi của VNDCCH không làm cho VNDCCH
bị mất danh nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
<h2>Trường hợp 2-N</h2>
VNDCCH và VNCH đã trở thành hai Quốc gia khác biệt và VNCH là
Quốc gia thừa kế danh nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa,
Trường Sa. Trong trường hợp này, các hành vi của VNDCCH không
ảnh hưởng đến danh nghĩa chủ quyền mà VNCH duy trì. Trường
hợp này có sẽ lợi cho Việt Nam.
Trên thực tế, QGVN và sau đó là VNCH luôn luôn khẳng định
chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, trong khi cho đến năm
1975 VNDCCH mới gửi quân đội đến Trường Sa, cho nên trường
hợp 2-N, cũng là trường hợp có lợi cho Việt Nam, là hợp lý
hơn trường hợp 2-B.
Riêng về Trường Sa thì có thể lập luận rằng Pháp đã sáp
nhập Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa, không bảo lưu gì về
Trường Sa khi VNCH trở thành một Quốc gia hoàn toàn độc lập
bao gồm tỉnh Bà Rịa, và sau đó Pháp cũng không phản đối
việc VNCH thực thi chủ quyền đối với Trường Sa, cho nên VNCH
đã thừa kế chủ quyền đối với Trường Sa từ Pháp. Với
lập luận đó, về Trường Sa, VNDCCH là một bên hoàn toàn
không liên quan, và trường hợp 2-N là hoàn toàn áp dụng.
Xin nói bên lề ở đây rằng không những lập luận "thừa
kế Trường Sa từ Pháp" khẳng định được trường hợp 2-N
(thay vì 2-B), tức là trường hợp có lợi cho Việt Nam, nó còn
vững chắc hơn lập luận "thừa kế Trường Sa từ nhà nước
phong kiến Việt Nam" (vì khó chứng minh được rằng nhà nhà
nước phong kiến Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền trên toàn
bộ quần đảo Trường Sa và đội Bắc Hải đã thực thi chủ
quyền trên toàn bộ vùng lãnh thổ đó.
Trong trường hợp 2-N, mặc dù VNDCCH không thể ảnh hưởng
đến danh nghĩa chủ quyền mà VNCH thừa kế và duy trì, và
không thể gây ra sự ràng buộc gì cho VNCH, chúng ta vẫn cần
phải xét xem VNDCCH có đã gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc
nào cho bản thân mình hay không. Vì vậy, trường hợp 2-N bao
gồm 2 tiểu trường hợp sau:
<strong>Tiểu trường hợp 2-N-K</strong>
VNDCCH đã không gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc nào cho bản
thân mình, cho nên nước Việt Nam thống nhất chỉ thừa kế
danh nghĩa chủ quyền từ VNCH, không phải thừa kế nghĩa vụ
gì từ VNDCCH. Trường hợp này sẽ hoàn toàn có lợi cho Việt
Nam.
<strong>Tiểu trường hợp 2-N-R</strong>
VNDCCH đã gây ra nghĩa vụ có tính ràng buộc nào đó cho bản
thân mình, cho nên nước Việt Nam thống nhất có thể phải
thừa kế nghĩa vụ đó từ VNDCCH cùng với thừa kế danh nghĩa
chủ quyền từ VNCH. Trường hợp này để lại một di sản có
hại cho Việt Nam, một di sản có lợi, và sẽ được phân tích
sau.
<strong>2-N-K hay 2-N-R?</strong>
Định nghĩa của trường hợp 2-N là VNCH là Quốc gia thừa kế
chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Trong trường hợp
2-N, không thể có chuyện VNDCCH gây ra nghĩa vụ ràng buộc VNDCCH
phải chuyển nhượng hai quần đảo này cho Trung Quốc, hoặc
phải từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo này. VNDCCH
cũng không thể gây ra sự ràng buộc gì cho VNCH.
Tuy nhiên, VNDCCH vẫn có tiềm năng gây ra một sự ràng buộc
về tự giới hạn quyền tự do hành động của bản thân mình,
ở đây là quyền trong tương lai VNDCCH có thể tranh chấp Hoàng
Sa, Trường Sa với Trung Quốc. Có thể minh hoạ khái niệm
"ràng buộc về tự giới hạn quyền tự do hành động của
bản thân mình" bằng kịch bản giả định sau.
● Nhật và Hàn Quốc tranh chấp nhóm đảo Takeshima/Dokdo, Trung
Quốc là bên thứ ba trong tranh chấp này.
● Trung Quốc ký một thoả thuận với Nhật trong đó Trung
Quốc sẽ không bao giờ tranh chấp nhóm đảo Takeshima/Dokdo với
Nhật để đổi với một khoản viện trợ. Rõ ràng thoả
thuận này không có giá trị chuyển nhượng Takeshima/Dokdo cho
Nhật và không có giá trị ràng buộc gì đối với Hàn Quốc.
● Sau đó Hàn Quốc chuyển nhượng danh nghĩa chủ quyền đối
với Takeshima/Dokdo cho Trung Quốc.
● Trong kịch bản giả định này, khả năng là toà quốc tế
sẽ không cho phép Trung Quốc tranh chấp Takeshima/Dokdo với Nhật.
Minh hoạ này cho thấy trong trường hợp Hoàng Sa, Trường Sa là
của VNCH, và VNDCCH không phải là một bên trong tranh chấp, thì
VNDCCH vẫn có tiềm năng gây ra nghĩa vụ ràng buộc giới hạn
quyền tự do hành động của bản thân mình, cụ thể nghĩa vụ
ràng buộc VNDCCH không được tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa
với Trung Quốc, và chúng ta phải xét xem tiền năng đó có đã
trở thành thực tế hay không.
Mặc dù hành vi của VNDCCH có thể bị hiểu là công nhận hay
thừa nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc, hoặc bị
diễn giải là VNDCCH tự giới hạn quyền tự do hành động
của mình, hành vi đó là những động thái đơn phương. Theo
luật quốc tế, cần phải có nhiều điều kiện trước khi các
động thái đơn phương, hay các lời hứa, có thể gây ra nghĩa
vụ ràng buộc. Nguyên tắc này bao gồm:
● Khi một Quốc gia tuyên bố về tự giới hạn quyền tự do
hành động của mình thì cần phải giải thích tuyên bố đó
một cách có giới hạn.
● Cần phải xét đến bối cảnh của tuyên bố đó.
● Phải rõ ràng là bên tuyên bố thể hiện ý muốn bị ràng
buộc bởi tuyên bố đó.
● Bên kiện bên tuyên bố phải đã có hành động dựa trên
tuyên bố đó.
Phán quyết của Toà án Công lý Quốc tế về tranh chấp các
đảo/đá Pedra Branca, Middle Rocks và South Ledge giữa Malaysia và
Singapore thể hiện rất rõ những nguyên tắc trên.
Năm 1953 Singapore hỏi bang Johor, một trong những tiền thân của
Malaysia, về chủ quyền đối với đảo Pedra Branca. Johor trả
lời bằng công hàm rằng họ không có tuyên bố chủ quyền
đối với Pedra Branca.
Singapore đưa ra trước Toà ba luận điểm về công hàm 1953 của
Johor: (a) Johor đã từ bỏ chủ quyền, (b) một estoppel, và (c)
có tính cách ràng buộc.
Toà bác bỏ cả ba quan điểm trên của Singapore với những lý
do:
● Công hàm 1953 của Johor không có hiệu quả pháp lý có tính
quyết định.
● Bên viện nguyên tắc estoppel phải chứng minh là mình đã có
hành động dựa vào tuyên bố của bên kia, nhưng các hành
động của Singapore không phải là dựa vào công hàm 1953 của
Johor.
● Khi một nước tuyên bố một điều tự hạn chế quyền tự
do hành động của mình thì cần phải giải thích tuyên bố đó
một cách có giới hạn.
● Công hàm 1953 của Johor không phải là trong văn cảnh tranh
chấp chủ quyền giữa Singapore và Johor cho nên không thể giải
thích nó là có tính ràng buộc.
Có nhiều điều song song giữa công hàm 1953 của Johor và hành vi
của VNDCCH, bao gồm cả công hàm Phạm Văn Đồng:
● Các tuyên bố và ấn phẩm của VNDCCH không có hiệu quả
pháp lý có tính quyết định.
● Không có chứng cớ rằng những hành động của Trung Quốc
như đánh chiếm Hoàng Sa, hay viện trợ cho VNDCCH là vì dựa vào
các tuyên bố của VNDCCH. Không những thế, vì VNDCCH không phải
là Quốc gia thừa kế Hoàng Sa, Trường Sa, những tuyên bố của
VNDCCH không có thẩm quyền để Trung Quốc có thể dựa vào.
● Nếu VNDCCH có tuyên bố tự giới hạn quyền tự do hành
động của mình, thí dụ như tuyên bố "tán thành" và "tôn
trọng" về những gì trong tuyên bố 1958 của Trung Quốc về
đường cơ sở và lãnh hải, thì cần phải giải thích những
tuyên bố đó một cách có giới hạn. Có thể dùng nguyên tắc
"giải thích những tuyên bố đó một cách có giới hạn"
để ủng hộ lập luận cho rằng chủ ý của công hàm Phạm
Văn Đồng không phải là để công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là
của Trung Quốc.
● Những tuyên bố hay ấn phẩm của VNDCCH không phải là để
trả lời Trung Quốc trong tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa giữa
VNDCCH và Trung Quốc, cho nên không thể cho rằng chúng có tính
ràng buộc.
Những điểm song song trên ủng hộ quan điểm VNDCCH đã không
hề gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho mình, và trường hợp 2-N-K,
cũng là trường hợp có lợi cho Việt Nam, là hợp lý hơn 2-N-R.
Lưu ý trong trường hợp 2-N (dẫn đến 2-N-K hoặc 2-N-R), danh
nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa không thuộc về
VNDCCH cho nên các nguyên tắc recognition hay acquiescence không áp
dụng, vì việc công nhận hay thừa nhân là của người khác
những gì không phải của mình là những hành động không có
giá trị.
Để khẳng định trường hợp 2-N-K thay vì 2-N-R, các nhà nghiên
cứu Việt Nam phải nghiên cứu về nguyên tắc estoppel để
chứng minh rằng VNDCCH đã không gây ra một estoppel ràng buộc
mình không được tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung
Quốc.
<h2>Các trường hợp một Quốc gia: 1-B, 1-N, 1-X</h2>
Nếu trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975 chỉ tồn tại một
Quốc gia Việt Nam trong tình trạng nội chiến, chúng sẽ phải
trả lời câu hỏi: VNDCCH hay VNCH là đại diện cho toàn Việt
Nam trong giai đoạn đó, bao gồm cả về vấn đề Hoàng Sa,
Trường Sa? Sẽ có ba trường hợp sau.
<strong>Trường hợp 1-B</strong>
Chỉ tồn tại một nước Việt Nam trong tình trạng nội chiến,
và VNDCCH là đại diện hợp pháp của toàn Việt Nam trong giai
đoạn đó. Trường hợp này bất lợi cho Việt Nam như trường
hợp 2-B. Việt Nam phải bác bỏ trường hợp này. Để dự trù
cho trường hợp sự bác bỏ không thuyết phục được toà án
quốc tế hay ý kiến học thuật, các nhà nghiên cứu Việt Nam
phải nghiên cứu về các nguyên tắc recognition, acquiescence và
estoppel trong luật quốc để lập luận rằng các hành vi của
VNDCCH không làm cho VNDCCH bị mất danh nghĩa chủ quyền đối
với Hoàng Sa, Trường Sa.
<strong>Trường hợp 1-N</strong>
Chỉ tồn tại một nước Việt Nam trong tình trạng nội chiến,
và chính phủ VNCH là đại diện của toàn Việt Nam trong giai
đoạn đó. Vì VNCH luôn luôn duy trì danh nghĩa chủ quyền của
Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, trường hợp này sẽ
có lợi cho lập luận của Việt Nam như trường hợp 2-N-K. Xác
suất trường hợp 1-N được chính phủ Việt Nam ngày nay chọn
là thấp.
<strong>Trường hợp 1-X</strong>
Chỉ tồn tại một nước Việt Nam trong tình trạng nội chiến,
nhưng với Hiệp định Genève và tình trạng nội chiến thì
mỗi chính phủ VNCH hay VNDCCH riêng biệt không có đủ thẩm
quyền để làm thay đổi danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam
đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Trong trường hợp này, một mặt
thì VNCH duy trì chủ quyền Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường
Sa, mặt kia thì những hành vi liên quan của VNDCCH không thay
đổi được danh nghĩa chủ quyền đó. Vì vậy, trường hợp
này cũng có lợi cho Việt Nam như trường hợp 1-N và 2-N-K.
Trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975, quốc hội VNDCCH không có
đại biểu được bầu bởi nhân dân miền Nam, và nghị viện
VNCH và nghị viện VNCH không có đại biểu được bầu bởi
nhân dân miền Bắc. Vì vậy, phải chăng có thể lập luận
rằng mỗi chính phủ VNCH hay VNDCCH riêng biệt không có đủ
thẩm quyền để làm thay đổi danh nghĩa chủ quyền của Việt
Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, tức là trường hợp 1-X?
<h2>Khi Việt Nam thống nhất</h2>
Khi Việt Nam thống nhất, danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam
sẽ tuỳ thuộc vào kịch bản nào áp dụng trong giai đoạn
Việt Nam chia đôi.
<strong>Các trường hợp hai Quốc gia: 2-B, 2-N, 2-N-K, 2-N-R</strong>
Trong trường hợp giai đoạn chiến tranh 1954-1975 có hai Quốc
qia, sẽ có vấn đề thừa kế giữa các Quốc gia Việt. Danh
nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa
sẽ đi từ nước Việt Nam trước chia đôi đến một trong hai
Quốc gia trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975, và sẽ đi từ
Quốc gia đó đến nước Việt Nam thống nhất.
<strong>Trường hợp 2-B</strong> có nghĩa VNDCCH thừa kế danh
nghĩa chủ quyền từ nước Việt Nam trước đó, và các hành vi
hữu quan của VNDCCH làm tổn hại danh nghĩa đó. Nước Việt Nam
thống nhất sẽ thừa kế danh nghĩa chủ quyền đã bị tổn
hại và khó có thể cạnh tranh pháp lý với Trung Quốc. Như đã
nói, Việt Nam phải bác bỏ trường hợp này
<strong>Trường hợp 2-N-K</strong> có nghĩa VNCH thừa kế danh
nghĩa chủ quyền từ nước Việt Nam trước đó, và nước
Việt Nam thống nhất thừa kế danh nghĩa chủ quyền này từ
VNCH. Vì Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam (hay Pháp, trong
trường hợp Trường Sa) trước 1954, sau 1976 và ngày nay hai
quần đảo này cũng thuộc về Việt Nam. Trường hợp này có
lợi cho Việt Nam.
<strong>Trường hợp 2-N-R</strong> có nghĩa VNCH thừa kế danh
nghĩa chủ quyền từ nước Việt Nam trước đó, và nước
Việt Nam thống nhất thừa kế danh nghĩa chủ quyền này từ
VNCH. Tuy nhiên nước Việt Nam thống nhất cũng phải thừa kế
nghĩa vụ ràng buộc gây ra bởi VNDCCH, thí dụ như không được
tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa với Trung Quốc. Như vậy, nước
Việt Nam thống nhất sẽ thừa kế hai điều trái nghịch nhau
(danh nghĩa chủ quyền thừa kế từ VNCH và nghĩa vụ ràng buộc
thừa kế từ VNDCCH) và một phiên toà quốc tế sẽ phải
quyết định xoá bỏ điều nào thì sẽ công bằng hơn.
Như đã trình bày, những hành vi của VNDCCH đã không đáp ứng
được các điều kiện để gây ra nghĩa vụ ràng buộc cho
VNDCCH. Vì vậy, trong trường hợp VNDCCH và VNCH là hai Quốc gia
độc lập, khả năng là chúng ta sẽ có trường hợp 2-N-K, có
lợi cho Việt Nam, thay vì 2-N-R.
Giả sử như chúng ta có bị rơi vào trường hợp 2-N-R đi nữa,
thì tác giả cũng cho rằng toà sẽ cho rằng việc xoá bỏ nghĩa
vụ thừa kế từ VNDCCH sẽ công bằng hơn xoá bỏ danh nghĩa
chủ quyền thừa kế từ VNCH.
<strong>Các trường hợp một Quốc gia: 1-B, 1-N, 1-X</strong>
Trong trường hợp giai đoạn chiến tranh 1954-1975 chỉ có duy
nhất một Quốc qia, sẽ không có vấn đề thừa kế giữa các
thể chế Việt, vì danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối
với Hoàng Sa, Trường Sa, sau khi đã thuộc về Việt Nam, sẽ
chỉ thuộc về một Quốc gia Việt.
<strong>Trường hợp 1-B </strong>có nghĩa hành vi hữu quan của
VNDCCH trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975 đã gây tổn hại cho
danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam, và Việt Nam khó có thể
cạnh tranh pháp lý với Trung Quốc. Đó là vì sao lập luận
của Trung Quốc mặc nhiên cho rằng VNDCCH là đồng nghĩa với
Việt Nam, bỏ qua sự kiện Việt Nam chia đôi và VNCH. Như đã
nói, Việt Nam phải bác bỏ trường hợp này.
<strong>Trường hợp 1-N và 1-X</strong> thì sẽ hoàn toàn có lợi
cho Việt Nam. Trong hai trường hợp này, danh nghĩa chủ quyền
của Việt Nam không thay đổi trong giai đoạn chiến tranh
1954-1975. Vì Hoàng Sa, Trường Sa thuộc về Việt Nam (hay Pháp,
trong trường hợp Trường Sa) trước 1954, sau 1976 và ngày nay hai
quần đảo này cũng thuộc về Việt Nam.
<h2>Kết luận</h2>
<strong>Các trường hợp bất lợi cho Việt Nam: 2-B và 1-B</strong>
Các trường hợp bất lợi cho Việt Nam là 2-B và 1-B. Như đã
trình bày, khả năng là trường hợp 2-B bị pháp lý quốc tế
loại bỏ. Lập luận của Trung Quốc dùng trường hợp 1-B. Trung
Quốc mặc nhiên cho rằng VNDCCH là Việt Nam, bỏ qua VNCH. Theo ý
kiến của tác giả,
● Quan điểm chính trị của chúng ta phải bác bỏ 1-B và 2-B.
● Chúng ta cần nghiên cứu luật pháp quốc tế để bác bỏ
1-B và 2-B, cũng như xác định khả năng có thể bác bỏ hai
trường hợp này.
● Để dự trù cho trường hợp toà án quốc tế hay ý kiến
học thuật không chấp nhận việc bác bỏ 1-B và 2-B, các nhà
nghiên cứu Việt Nam phải nghiên cứu về các nguyên tắc
recognition, acquiescence và estoppel trong luật quốc tế (đó là
những nguyên tắc phía Trung Quốc có thể dùng) để lập luận
rằng các hành vi của VNDCCH không làm cho VNDCCH bị mất danh
nghĩa chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
<h2>Trường hợp trung bình: 2-N-R</h2>
Trường hợp 2-N-R là trường hợp trung bình cho Việt Nam. Trong
trường hợp này, nước Việt Nam thống nhất thừa kế hai
điều đối nghịch với nhau: một bên là danh nghĩa chủ quyền
đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ VNCH, và bên kia là nghĩa vụ
ràng buộc nào đó ảnh hưởng đến Hoàng Sa, Trường Sa từ
VNDCCH. Việc thắng thua sẽ tuỳ vào toà cho rằng xoá bỏ nghĩa
vụ VNDCCH gây ra hay xoá bỏ chủ quyền Việt Nam đối với
Hoàng Sa, Trường Sa là công bằng hơn. Tất cả những chứng
cớ chúng ta có hiện nay nghiêng về 2-N-K (VNDCCH đã không gây ra
nghĩa vụ ràng buộc, trường hợp có lợi cho Việt Nam) thay vì
2-N-R. Tuy nhiên, để dự trù cho mọi trường hợp, chúng ta
vẫn cần nghiên cứu về luật pháp quốc tế, để
● Củng cố lập luận để khẳng định trường hợp 2-N-K
(thay vì 2-N-R), và xác định khả năng trường hợp 2-N-R được
tòa chấp nhận.Điều này cần nghiên cứu về nguyên tắc
estoppel và những tuyên bố đơn phương trong luật quốc tế.
● Xác định khả năng, trong trường hợp 2-N-R, tòa sẽ xoá
bỏ nghĩa vụ VNDCCH gây ra hay xoá bỏ chủ quyền Việt Nam đối
với Hoàng Sa, Trường Sa. Điều này cần nghiên cứu về luật
quốc tế về bồi thường: nếu, trong trường hợp 2-N-R,
CHXHCNVN phải bồi thường cho Trung Quốc vì hành vi của VNDCCH
thì bồi thường thế nào là công bằng? Theo ý kiến của tác
giả, giả sử Việt Nam có bị rơi vào trường hợp 2-N-R đi
nữa, thì một toà án quốc tế cũng sẽ không đòi hỏi CHXHCNVN
phải bồi thường cho Trung Quốc bằng danh nghĩa chủ quyền
đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
<h2>Các trường hợp có lợi: 2-N-K, 1-N, 1-X</h2>
Các trường hợp có lợi cho Việt Nam là 2-N-K, 1-N và 1-X. Nếu
Việt Nam khẳng định được một trong ba trường hợp này
trước toà, khả năng là Việt Nam sẽ thắng Trung Quốc trong
tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa.
Xác suất trường hợp 1-N được chính phủ Việt Nam ngày nay
chọn là thấp. Như vậy, trong 6 trường hợp đã nêu ra, 2-N-K
và 1-X là vừa có lợi cho Việt Nam, vừa khả thi trên diện
chính trị. Lựa chọn cho Việt Nam là giữa hai trường hợp
này.
Nếu Việt Nam cho rằng VNDCCH và VNCH không phải là hai Quốc gia,
thì Việt Nam phải khẳng định trường hợp 1-X. Để khẳng
định 1-X, Việt Nam có thể lập luận rằng trong giai đoạn
chiến tranh 1954-1975, quốc hội VNDCCH không có đại biểu
được bầu bởi nhân dân miền Nam, và nghị viện VNCH không có
đại biểu được bầu bởi nhân dân miền Bắc, cho nên mỗi
chính phủ VNCH hay VNDCCH riêng biệt không có đủ thẩm quyền
để làm thay đổi danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam đối
với Hoàng Sa, Trường Sa. Nếu lập luận đó được chấp nhận
thì Việt Nam sẽ thắng. Trước khi có thể chọn 1-X, chúng ta
phải xác định khả năng tòa sẽ chấp nhận quan điểm "mỗi
chính phủ VNDCCH và VNCH riêng biệt không có đủ thẩm quyền
để thay đổi về danh nghã chủ quyền đối với Hoàng Sa,
trường Sa" hay không.
Sách trắng của Việt Nam về Hoàng Sa, Trường Sa lập luận
rằng trong giai đoạn chiến tranh 1954-1975, VNCH luôn khẳng định
chủ quyền Việt Nam. Như vậy có thể hiểu được là thừa
nhận rằng VNCH là một Quốc gia, vì trong luật quốc tế sự
khẳng định chủ quyền phải là của Quốc gia mới có giá
trị. Ngoài ra, có thể cho rằng quan điểm trên hình thức của
VNDCCH về Cộng Hoà Miền Nam và Chính phủ Lâm thời Mặt trận
Giải phóng Miền Nam là hình thức công nhận miền Nam là một
Quốc gia khác biệt.
Phần lớn các luật gia quốc tế nổi tiếng nhất cho rằng VNCH
và VNDCCH là hai Quốc gia. Trong quyển <em>"Chủ quyền trên hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa"</em>, giáo sư luật quốc tế
Monique Chemillier-Gendreau cũng dùng quan điểm đó. Trong sách dựa
trên luận văn tiến sĩ của mình, giáo sư Nguyễn Hồng Thao
cũng dùng quan điểm đó. Lập luận trong sách trắng của Việt
Nam cũng dựa trên quan điểm đó.
Như vậy có vẻ như các lập luận ủng hộ chủ quyền Việt
Nam dựa trên quan điểm VNCH và VNDCCH là hai Quốc gia.
Trên diện pháp lý, để khẳng định được trường hợp 2-N-K,
Việt Nam phải
● Cho rằng VNDCCH và VNCH là 2 Quốc gia. Đây là lãnh vực
của các nhà chính trị.
● Thuyết phục được tòa về rằng VNDCCH và VNCH là 2
Quốc gia. Điều này và các điều sau là lãnh vực của các nhà
luật học.
● Bác bỏ được trường hợp 2-B.
● Bác bỏ được trường hợp 2-N-R.
Trên diện truyền thông đại chúng hiện nay, dường như Việt
Nam không khẳng định cụ thể rằng VNCH và VNDCCH là hai Quốc
gia khác biệt. Có lẽ Việt Nam e ngại rằng nếu VNCH và VNDCCH
là hai Quốc gia khác biệt thì sẽ có câu hỏi là việc VNDCCH
tham gia chiến tranh 1954-1975 có phải là một Quốc gia can thiệp
vào nội bộ của Quốc gia khác hay không. Trong lãnh vực tuyên
truyền về Hoàng Sa, Trường Sa, Trung Quốc đã, đang và sẽ
tiếp tục lợi dụng tình hình đó bằng cách mặc nhiên cho
rằng luôn luôn chỉ tồn tại duy nhất một Quốc gia Việt Nam,
và VNDCCH là đại diện cho Quốc gia đó, để nói rằng Việt
Nam đã công nhận rằng Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc.
Tuyên truyền của Trung Quốc cho thấy việc lựa chọn giữa các
khả năng thí dụ như được nêu ra trong bài này không chỉ là
một vấn đề cho các nhà sử học và các nhà chính trị, mà
nó còn ảnh hưởng đến lập luận của Việt Nam về chủ
quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa, và đến việc tranh thủ
dư luận quốc tế.
Trong việc lựa chọn, người lựa chọn nên cho rằng VNDCCH và
VNCH là quá khứ, trong khi nước Việt Nam thống nhất và sự
vẹn toàn lãnh thổ, bao gồm Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông,
là hiện tại và tương lai. Sự vẹn toàn lãnh thổ, bao gồm
Hoàng Sa, Trường Sa, Biển Đông, phải được nước Việt Nam
thống nhất cho là ưu tiên hơn việc đánh giá những gì đã
trở thành quá khứ. Mặt khác, chúng ta cũng không nên dùng sự
lựa chọn trên để phục vụ những mục đích chính trị khác
với đem lại cho Việt Nam lập luận mạnh mẽ nhất về chủ
quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
***********************************
Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9913), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).
Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét