Nguyễn Thanh Giang - Người hay lo việc nước

Đầu năm 2010 trên các trang mạng nổ ra một cuộc tranh luận
sôi nổi và lý thú về biên giới phía bắc Việt Nam giữa hai
ông Mai Thái Lĩnh và Trương Nhân Tuấn.

Cuộc tranh luận bắt nguồn từ chỗ ông Mai Thái Lĩnh phát
hiện một tòa nhà kiểu Pháp ở phía sau Hữu Nghị Quan trong
một tấm ảnh chụp từ phía Việt Nam để khẳng định rằng
Hữu Nghị Quan hiện thời không phải Ải Nam Quan xưa mà đã
bị xây lấn sang phía Việt Nam.

Ông Mai Thái Lĩnh viết:

<div class="special_quote"><em>"Thấp thoáng phía sau cổng Hữu
Nghị là một công trình kiến trúc mà phía Trung Quốc gọi tên
tiếng Anh là Tòa nhà kiểu Pháp (French-style building), nhưng trong
tiếng Việt lại có cái tên hết sức hấp dẫn là "Lầu
thành kiếu Pháp", hoặc có khi còn gọi là "Lâu đài kiểu
Pháp" hay "Pháp Quốc Lầu".</em>

<em>"Lầu thành kiểu Pháp" từ đâu mà có? Tại sao một công
trình kiến trúc xây trên đất Trung Hoa lại có phong cách kiến
trúc kiểu Tây phương với đường nét tương tự như những
tòa nhà được xây dưới thời thuộc địa mà chúng ta thường
nhìn thấy trong một số thành phố ở Việt Nam?" (1)</em></div>

Ông Trương Nhân Tuấn đặt nghi vấn:

<div class="special_quote"><em>"Nên biết, hiện nay, không chỉ ở
Việt Nam, mà nhiều thành phố các tỉnh Hoa Nam vẫn còn rất
nhiều kiến trúc Pháp được xây dựng từ thời đầu thế kỷ
20. Vùng Hoa Nam là vùng thuộc ảnh hưởng kinh tế và chính trị
của Pháp. Tại Côn Minh (Vân Nam) có nhiều dãy phố cất theo
lối Pháp. Tại Long Châu, toà lãnh sự của Pháp được xây theo
lối Pháp. Ở vùng nhượng địa Quảng Châu Loan (bán đáo
Quỳnh Châu, Quảng Đông), cả một khu phố lớn được xây
cất theo lối Pháp. Ở Thượng Hải, mỗi khu phố là một nét
kiến trúc khác nhau, có nơi giống Anh vì là tô giới Anh, có
nơi giống Pháp vì thuộc tô giới Pháp v.v…Ta không thể dựa
vào lý do toà nhà xây theo lối Pháp mà kết luận rằng nhà đó
của Pháp" (2)</em> </div>

Ông Mai Thái Lĩnh biện minh:

<div class="special_quote"><em>"Điều chúng ta có thể đồng ý
với nhau là: trên lãnh thổ Trung Hoa, có thể có rất nhiều
ngôi nhà xây theo kiểu Pháp. Nhưng nếu là nhà xây trong tô
giới Pháp hoặc là toà lãnh sự của Pháp thì không thành vấn
đề, vì người Pháp xây nhà kiểu Pháp trên lãnh thổ một
quốc gia khác là chuyện bình thường. Ở các vùng tô giới hay
nhượng địa, việc nhà cửa được xây theo kiểu Pháp hay
kiểu Anh cũng là điều hoàn toàn dễ hiểu. Vấn đề là tại
sao chính phủ Trung Quốc (nhà Thanh hay Quốc dân Đảng?) lại
xây trụ sở của một cơ quan công quyền ngay tại biên giới
mà lại xây theo kiểu Pháp thay vì theo kiểu Trung Hoa? Hơn nữa,
cho dù chính phủ Trung Hoa ngày xưa có làm cái công việc đáng
gọi là kỳ cục đó thì chính phủ Trung Quốc ngày nay chắc
hẳn phải có vô số bằng chứng để chứng minh lai lịch của
Pháp Quốc Lầu; tại sao lại phải bịa đặt chuyện toà nhà
đó được xây dưới thời vua Quang Tự? Đó mới là lý do
khiến chúng ta đặt nghi vấn " (3).</em></div>

Trước đó ông Mai Thái Lĩnh đã từng khẳng định ý kiến
của mình qua việc vạch rõ sự gian dối trong một bản văn
của Trung Quốc:

<div class="special_quote"><em>"Lời giới thiệu Hữu Nghị Quan
đăng trên một trang mạng "hợp tác" giữa Trung Quốc và
Việt Nam có tên là Trung-Việt (www.sinoviet.com) cho biết lai
lịch của công trình kiến trúc này như sau: "Năm Quang Tự
đời Thanh, tri phủ Thái Bình Cam Nhữ Lai tái dựng lại lầu
ải bằng một kiến trúc lâu đài kiểu Pháp (Pháp Quốc Lầu),
dỡ bỏ Miếu Quan Đế và Đền Chiêu Trung. Sau này tuy có tiến
hành nhiều lần tu bổ, nhưng vẫn giữ nguyên mạo diện Pháp
Quốc Lầu. Trong thời kỳ chiến tranh chống Nhật, thành lầu
lại bị phá hủy, nay chỉ còn lại tầng dưới tức là cổng
thành hình vòm"</em>

<em>Căn cứ vào nội dung của một tấm bảng quảng cáo
được dựng tại khu vực Hữu Nghị Quan, người ta được
biết: Tòa nhà kiểu Pháp (hoặc Lâu đài Pháp Quốc) được
xây dựng vào năm Quang Tự thứ 22 (1896).</em>

<em>Sự thật là như thế nào? Vua Quang Tự (1869 – 1908) là vị
Hoàng đế thứ 11 của nhà Thanh trong lịch sử Trung Hoa. Ông
trị vì từ năm 1875 đến năm 1908 với niên hiệu là Quang Tự.
Ông mất vào năm 1908, trước Từ Hi Thái hậu một ngày. Cho
dù Tòa nhà kiểu Pháp được xây dựng vào năm 1896 hay muộn
hơn (nghĩa là trước năm 1908) thì tòa nhà này phải hiện
diện trên những tấm ảnh chụp vào thời điểm đó "
(1).</em></div>

Hai ông còn "cãi cọ" nhau về lịch sử. Ông Mai Thái Lĩnh
viết:

<div class="special_quote">"Tấm bia gỗ viết bằng 3 thứ tiếng
(Hán, Anh và Việt) mà một nhà báo ở miền Bắc đã gửi cho
anh Trương Nhân Tuấn thật ra cũng không khác gì tấm bảng
quảng cáo mà tôi giới thiệu.

Tôi gọi đó là bảng quảng cáo vì những điều ghi trên đó
ít có giá trị khoa học. Những tấm bảng quảng cáo như thế
có nhan nhản trong khu vực của Hữu Nghị Quan, nội dung nhằm
giới thiệu cái-gọi-là "lịch sử" của Hữu Nghị Quan,
trong đó xen lẫn giữa sự thật là những điều không đáng
tin. Vì vậy khi xem xét chúng, cần phải phân biệt thật và
giả, không thể tin một cách dễ dàng được.

Hãy thử trích một đoạn trong tấm bia gỗ mà anh Trương Nhân
Tuấn giới thiệu:

"Hữu Nghị Quan xây vào nhà Hán, đến nay đã vào khoảng 2000
năm, đã từng đổi tên 6 lần, tên trước là Ung Kê Quan, sau
lại đổi tên Giới Đầu Quan, Đại Nam Quan, đến đầu nhà
Minh lại đổi tên Trấn Nam Quan, tháng 1/1953 đổi tên Hữu
Nghị Quan".(2)

Không rõ căn cứ vào đâu mà phía Trung Quốc cho rằng "Hữu
Nghị Quan" xây vào đời nhà Hán"? Bởi lẽ vào thời đó,
ranh giới giữa Việt Nam và Trung Quốc chưa lùi đến tận vùng
biên giới như sau này, làm sao lại có cái-gọi-là Ung Kê Quan
tại nơi đó?

Theo Đào Duy Anh trong cuốn "Đất nước Việt Nam qua các
đời", địa bàn của nước Âu Lạc bao gồm "cả dải đất
miền Bắc Việt Nam từ Hoành Sơn cho đến miền Nam tỉnh Quảng
Tây". Về sau, Triệu Đà chiếm Âu Lạc, chia thành hai quận
Giao Chỉ và Cửu Chân. Khi nhà Hán diệt nhà Triệu (năm 111
trước công nguyên), họ chiếm đất Âu Lạc, nhưng vẫn giữ
nguyên hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Nhà Hán chiếm thêm đất
ở phía Nam hai quận của nước ta, đặt làm quận Nhật Nam, sau
đó đem ba quận mới chiếm gộp với bốn quận ở miền nam
Trung Quốc là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố và hai
quận ở đảo Hải Nam là Châu Nhai và Đạm Nhĩ để hình thành
bộ Giao Chỉ.

Quận Giao Chỉ là một trong 9 quận của bộ Giao Chỉ. Phạm vi
của quận Giao Chỉ - quận phía bắc của nước ta thời đó,
rộng đến đâu? Học giả Đào Duy Anh viết: "Như thế thì
đất quận Giao Chỉ ở thời Hán là đất Bắc Bộ ngày nay,
trừ miền tây-bắc còn ở ngoài phạm vi thống trị của nhà
Hán, một góc tây-nam tỉnh Ninh Bình bấy giờ là địa đầu
của quận Cửu Chân và một dải bờ biển từ Thái Bình đến
huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình, bấy giờ chưa được bồi đắp;
lại phải thêm vào đấy một vùng về phía tây-nam tỉnh Quảng
Tây".

Tóm lại, quận Giao Chỉ bao gồm cả một phần đất của
Quảng Tây ngày nay.

Mặt khác, xét cái tên Ung Kê Quan, ta thấy trong Cương mục, các
nhà sử học đời nhà Nguyễn dựa theo Địa lý chí trong Tiền
Hán thư, chú giải như sau về quận Uất Lâm: "Quận Uất Lâm
thống trị 12 huyện: Bồ Sơn, An Quảng, A Lâm, Quảng Uất, Trung
Lưu, Quế Lâm, Đàm Trung, Lâm Trần, Định Chu, Tăng Thực, Lĩnh
Phương, Ung Kê". Về quận Uất Lâm: "Quận Uất Lâm: đời
Tần, thuộc đất quận Quế Lâm nay thuộc đất Quảng Tây".
(Cương mục, Tiền biên, II, 5) [8]. Như vậy, Ung Kê thuộc quận
Uất Lâm chứ không thuộc quận Giao Chỉ. Ung Kê Quan (nếu có)
phải nằm rất xa Lạng Sơn, ở tận lưu vực của sông Tả
Giang, trong địa phận của tỉnh Quảng Tây, chứ làm sao có
thể nằm ở vị trí của Hữu Nghị Quan ngày nay? Nhìn vào tấm
bản đồ in kèm trong cuốn sách nói trên, chúng ta có thể thấy
ranh giới của Giao Chỉ nằm ở tận Quảng Tây, ở lưu vực
của sông Tả Giang.

Để có thể kết luận "Ải Nam Quan được xây dựng cách
đây vào khoảng 2 ngàn năm", các nhà sử học và địa lý
học Trung Quốc phải bác bỏ được lập luận của học giả
Đào Duy Anh mà tôi vừa trình bày tóm tắt.

Nói chung, phần lớn các tài liệu về lịch sử của Trung Quốc
hiện nay đều lẫn lộn thực hư, nhất là khi chúng được
dùng để phục vụ cho mục tiêu chính trị, vì thế chúng ta
phải cảnh giác, không thể tin hoàn toàn. Điều tôi muốn nhấn
mạnh là: không những ghi nhiều điều bịa đặt trong các tấm
bia bằng gỗ, đá, xi-măng ở Hữu Nghị Quan, phía Trung Quốc
còn đưa lên mạng để tuyên truyền cho người Việt chúng
ta".(3)</div>

Ông Mai Thái Lĩnh và ông Trương Nhân Tuấn đều bị nhà cầm
quyền Việt Nam quy là những kẻ chống đối, phản động. Đơn
cử vài đoạn trong cuộc tranh luận để thấy rằng dù bị vu
cáo thế nào đi nữa, họ bao giờ cũng giữ thái độ khách quan
khoa học, không nói lấy được, không bao che cho nhau để hùn
nhau cố ý bôi xấu chính quyền.

Ông Mai Thái Lĩnh đã dựa trên tài liệu của ông Trương Nhân
Tuấn và nhiều nguồn tài liệu khác để chỉ ra rất rõ ràng
một số cột mốc đã bị di dời và đường biên đã bị
đẩy sang phiá lãnh thổ của ta ít nhất là 100m ngay tại Hữu
Nghị Quan và hơn 150 m trên tuyến đường sắt Việt – Trung so
với đường biên lịch sử. Nói cách khác, tại khu vực Ải Nam
Quan, Việt Nam đã bị mất một hay nhiều dải đất có tính
chất trọng yếu về mặt quân sự chứ không phải chỉ mất
đất tại một vài điểm.

Điều ngạc nhiên là ông không chỉ tỏ ra tinh tường về sử
liệu mà còn sử dụng tổng hợp các tài liệu địa dư, địa
mạo, không ảnh … để phân tích tài liệu nhằm minh giải các
kết luận của mình. Bài viết của ông tương đương với
những công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc có giá trị
lớn mà Nhà nước đã phải đầu tư bạc triệu, bạc tỷ cho
các viện nghiên cứu. Xin đơn cử vài ví dụ:

<div class="special_quote">" … cột mốc số 24 (tức là cột mốc
về sau mang số 19) được ghi chú như sau: "sur le sommet placé(e)
en face du fort chinois de Kouei Tao". (Tạm dịch: trên đỉnh,
trước mặt đồn (hay công sự) Kouei Tao của Trung Hoa). Như
vậy, cột mốc 19 nằm trên đỉnh đồi chứ không phải ở
dưới thấp. Khi Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố bức ảnh
chụp cột mốc số 19, họ đã vô tình chứng minh cho việc cột
mốc biên giới đó đã bị dời đi so với đường biên giới
pháp lý cuối thế kỷ 19" (3).

" …căn cứ vào bản đồ của Chapès, đường biên giới phía
trước ải Nam Quan sau khi bị đẩy lùi 100 m theo Hiệp định
Pháp-Thanh, vẫn là một đường tương đối thẳng….Trong khi
đó nếu quan sát bản đồ khu vực 249 C, ta thấy cả đường
biên giới mà Việt Nam yêu sách lẫn đường biên giới đã
thống nhất đều là những đường gãy góc rất kỳ lạ. Nếu
từ bên trái (hướng tây) chúng ta vạch một đường biên giới
với độ nghiêng tương tự như trên tấm bản đồ của thời
Pháp thuộc thì đường đó sẽ chạy ở phía bắc, sau lưng
địa điểm được ghi là Nam Quan. Sự thay đổi của đường
biên giới nơi đây cho thấy khi xây dựng lại Hữu Nghị Quan,
phía Trung Quốc đã thay đổi vị trí của cửa quan.

Nhìn vào các tấm ảnh được chụp vào thời Pháp thuộc, chúng
ta dễ dàng nhận thấy các ngọn đồi ở phía đông và
đông-nam ải Nam Quan đều có độ cao tương đương với ngọn
đồi ở phía tây của ải Nam Quan….Điều đáng nói là khi
nhìn vào ngọn đồi ở phía đông-nam Hữu Nghị Quan ngày nay, ta
thấy đó chỉ là một ngọn đồi rất thấp. Mặc dù người ta
đã trồng cây để cố làm tăng thêm chiều cao của nó, ngọn
đồi đó vẫn không thể đạt độ cao ngang với các ngọn
đồi ở xung quanh ải Nam Quan trước kia … Trên ảnh, không
phải chỉ ngọn đồi phía đông-nam sát Hữu Nghị Quan mà cả
ngọn đồi đối diện về phía nam cũng chỉ là những ngọn
đồi thấp, hoàn toàn không giống với các ngọn đồi ở phía
đông và đông-nam của ải Nam Quan như trong các tấm ảnh chụp
ngày xưa" (3).</div>

Lo cho chốn biên ải xa xôi, lại thương cho Đà Lạt gần trong
hơi thở.

Mà cũng lạ, tuy không phải nhà khoa học tự nhiên nhưng khi lo,
khi thương, ông đều đo đếm rất chi li:

<div class="special_quote"><em>"Bất cứ ai có chút kiến thức về
Đà Lạt đều thấy rõ nơi đây không phải là một thành phố
đồng bằng, cho nên khi nói cao nguyên Lang-Bian có cao độ trung
bình là 1.500m thì điều đó không có nghĩa là tất cả các
địa điểm ở vùng này đều cao bằng nhau. Do địa hình cao
thấp khác nhau, một tòa nhà 49m xây phía sau chợ Đà Lạt,
nghĩa là trong một thung lũng có cao độ khoảng 1480m, sẽ đạt
đến độ cao 1529m. Chiều cao này trong thực tế đã vượt hơn
ngọn đồi Dinh Thị trưởng cũ ở phía bắc vì cao độ ở
đây là 1525,3m. Trong khi đó, một cao ốc 45m đặt tại Khu Hòa
Bình (có cao độ 1494m) sẽ đạt đến độ cao 1539m, nghĩa là
cao hơn 10m so với tòa cao ốc thứ nhất, cao hơn 13,7m so với
ngọn đồi Dinh Thị trưởng cũ, thậm chí còn cao hơn cả ngọn
đồi Dinh III (1535,8m)"</em> (4).</div>

Thương Đà Lạt chi li đến vậy nên không kiềm chế nổi, ông
đã "phang" thẳng cánh:

<div class="special_quote"><em>"Một Đà Lạt khác sẽ ra đời: đó
là một Đà Lạt "hiện đại" được hình thành từ những
bộ óc "đi tắt đón đầu", "dám nghĩ dám làm" (kể cả
nghĩ sai, nghĩ bậy và làm ẩu, làm dối), được thúc đẩy
bởi khẩu hiệu "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" và
được điều khiển từ xa bởi những đòn bẩy của của kinh
tế thị trường nhưng lại bị che đậy dưới cái vỏ đạo
đức giả của chiêu bài "định hướng XHCN". Những đòn
bẩy đó, cộng với một quyền lực chính trị vô biên (không
ai có thể kiểm soát, cũng không ai dám phê bình) sẽ đem lại
cho Đà Lạt một diện mạo mới – đẹp như thế nào thì chưa
ai có thể nhìn thấy, nhưng những đường nét xấu xí thì ngày
càng bộc lộ, không một ai có thể che đậy"</em> (4).</div>

Hay đo đếm chi li là biểu hiện cái tư chất khoa học rất
đáng quý. Ông thực sự là một nhà khoa học xã hội nghiêm
túc. Hãy điểm danh một số công trình của ông:
<div class="special_quote">
1. Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong - Bàn về lý
thuyết Nhà nước của Karl Marx, 2005.
2. Dân chủ - Xã hội là gì?, 2007.
3. Tìm hiểu quan niệm chính trị của Phan Châu Trinh, 2007.
4. Sự hình thành của phong trào dân chủ - xã hội ở Thuỵ
Điển, 2007.
5. Xã hội dân sự là gì? 2008.
6. Độc lập và tự do theo cách nhìn của Phan Châu Trinh, 2008.
7. Từ dân trí đến dân khí, 2009.
8. Ải Nam Quan trong lịch sử, 2009
9. Trao đổi ý kiến xung quanh chủ đề "Ải Nam Quan", 2010
10. Hai chữ "dân quyền", 2010.
11. Ải Nam Quan trong hiện tại, 2010.
12. Trao đổi ý kiến về "Ải Nam Quan trong hiện tại"
13. Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh, 2010.
14. Về mối quan hệ giữa Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường,
2010
15. Đảng Lao động Na Uy – một tấm gương "tự diễn biến
hòa bình" thành công rực rỡ, 2011.
16. Một "Đà Lạt thơ mộng"- còn hay mất?, 2011.</div>

Những bài viết có liên quan đến thân thế, tiểu sử tác
giả:
<div class="special_quote">
1. Kỷ niệm về một ngôi trường (2004)
2. Trao đổi ý kiến về xã hội dân sự và dân chủ - xã hội,
talawas (2008)
3. Hãy trút cơn giận vào nơi đáng trút, talawas (13.7.2009)
4. Người nhạc sĩ du ca đã ra đi mãi mãi ..., 2011.</div>

Tôi không gọi đấy là những bài viết mà là những công trình
bởi trong đó không chỉ có lượng thông tin dồi dào mà cả
hàm lượng tư duy phân tích tổng hợp rất cao.

"Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong" là một tác
phẩm hẳn hoi, một tác phẩm lớn hơn hẳn số trang của nó.

Hãy điểm qua tên các chương mục của cuốn sách này:


<table>
<tr>
<td>Chương I</td>
<td>Quan niệm của Marx về Nhà nước</td>
</tr>
<tr>
<td>Chương II</td>
<td>Quan niệm "Chuyên chính Vô sản"</td>
</tr>
<tr>
<td>Chương III</td>
<td>Cuộc đấu tranh giữa những người xã hội chủ nghĩa</td>
</tr>
<tr>
<td>Chương IV</td>
<td>Những đóng góp của F. Engels</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương V</td>
<td>Những nghịch lý của Chuyên chính Vô sản</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương VI</td>
<td>Cuộc đấu tranh giữa hai phái: Cải cách và Cách mạng</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương VII</td>
<td>Dân chủ Vô sản: Từ lý luận đến hiện thực</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương VIII</td>
<td>Từ Chuyên chính Vô sản đến Chuyên chính của Đảng</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương IX</td>
<td>Phê phán quan niệm của Marx về Nhà nước</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương X</td>
<td>Sự tan vỡ của một huyền thoại</td>
</tr>
<tr>
<tr>
<td>Chương kết</td>
<td>Đi tìm một định nghĩa đúng đắn về Nhà nước</td>
</tr>
<tr>
</table>

Mai Thái Lĩnh đã nói về lý do và quá trình khổ ải khi viết
cuốn sách này như sau:

<div class="special_quote">"Ngay từ thời kỳ còn công tác tại
Hội đồng Nhân dân TP Đà Lạt, tôi đã quan tâm đến vấn
đề Nhà nước. Trong một số bài báo đăng trên các tờ Thanh
Niên, Tuổi Trẻ vào cuối thập niên 1980 - đầu thập niên 1990,
tôi đã bắt đầu đề cập đến việc tách Đảng ra khỏi Nhà
nước, tăng cường vai trò của các cơ quan dân cử (như Quốc
hội và Hội đồng Nhân dân các cấp), cũng như việc áp dụng
nguyên tắc "tam quyền phân lập" để cải tổ bộ máy Nhà
nước nhằm ngăn chặn các tệ nạn lạm quyền và tham nhũng.

…… Bản thảo đầu tiên của tác phẩm này mang tên "Những
nghịch lý của chuyên chính vô sản". Bản thảo này mới
được phác thảo thì đã bị xoá theo yêu cầu của công an, khi
tôi bị kiểm tra máy vi tính lần thứ nhất trong vụ "chiếc
cặp đựng tài liệu" của Tiêu Dao Bảo Cự (cuối năm 1996).
Sau đó ít lâu, tôi cố gắng khôi phục lại bản thảo để
tiếp tục công trình, nhưng những gian truân, trắc trở trong
cuộc sống khiến tôi không thể hoàn thành được tác phẩm. Do
đó, vào cuối tháng 4 năm 2000, khi tôi bị kiểm tra máy vi tính
lần thứ hai (trong cùng một "vụ án" với Hà Sĩ Phu), bản
thảo này vẫn còn dang dở. Lần này thì máy vi tính không
được trả lại, và bản thảo mất luôn theo nó.

….. Tập sách nhỏ mà độc giả cầm trên tay ra đời trong
hoàn cảnh như thế. Nó không phải là một tác phẩm được
sản sinh trong môi trường đại học hay viện nghiên cứu, do
đó không thể tránh khỏi thiếu sót về mặt học thuật. Nhưng
để bù lại, nó mang hơi thở của cuộc sống, mang tâm huyết
của một con người "dấn thân". Dấn thân lần đầu vào
giữa lứa tuổi hai mươi, khi giã từ giảng đường đại học
để lao vào cuộc đấu tranh trên đường phố, để rồi sau
đó, rời bỏ cuộc sống thành thị đầy tiện nghi để vào
bưng, chịu đựng gian khổ trong rừng sâu với niềm hy vọng
đem lại hoà bình, dân chủ cho đất nước. Đất nước có hoà
bình nhưng không có tự do dân chủ, vì vậy phải dấn thân
một lần nữa vào lứa tuổi bốn mươi, lần này thì hành
trình trí thức dằn vặt hơn, gian nan thử thách cũng gay gắt
hơn nhiều"(5).</div>

Nghiên cứu "Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong"
Mai Thái Lĩnh đã rút ra nhiều nhận xét mà một vài trong số
xin được nêu như sau:

<div class="special_quote">- "Nhưng trong thực tế, ở Liên Xô và
các nước dựa theo mô hình của Lenin, khi các giai cấp bóc lột
bị tiêu diệt, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
được xác lập, thì nhà nước không bắt đầu tự tiêu vong
mà ngược lại, bắt đầu tự bành trướng. Nhà nước ở tất
cả các nước đó, không trừ một nước nào, đều cồng
kềnh, kém hiệu lực và quan liêu hơn rất nhiều so với các
nước "tư bản chủ nghĩa". Điều đó chứng tỏ rằng việc
tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay nhà nước và điều
hành một nền kinh tế tập trung chỉ huy thay vì làm giảm lại
làm tăng thêm quy mô của bộ máy nhà nước. Do chỗ nhà nước
không mất đi như đã dự đoán, vì thế ngoài việc quản lý
người, nhà nước vô sản còn phải quản lý vật và chỉ
đạo quá trình sản xuất, từ đó nhà nước buộc phải bành
trướng thêm.

Như vậy, chế độ công hữu về tư liệu sản xuất không đem
lại sự tiêu vong của nhà nước, mà ngược lại, còn tạo ra
một nhà nước tập quyền kiểu mới. Nhà nước tập quyền
kiểu mới này có những nét tương tự như nhà nước quân chủ
phương Đông thời trung cổ, nhưng lại được hiện đại hoá:
có quân đội thường trực và bộ máy công an hùng hậu,
được trang bị những phương tiện thông tin đại chúng hiện
đại và nắm trong tay một khu vực kinh tế quốc doanh rộng
lớn" (5).

- "Trong xã hội loài người, có hai thứ bất công: bất
công về chính trị và bất công về kinh tế. Bất công về
chính trị thể hiện trong mối quan hệ thống trị – bị trị,
bất công về kinh tế thể hiện trong mối quan hệ làm chủ –
làm thuê. Ách áp bức về chính trị cũng đem lại đau khổ cho
con người, có khi còn ghê gớm hơn nạn bóc lột. Tiền có thể
đem lại quyền như Marx đã trình bày, nhưng quyền cũng dễ
dàng mang lại tiền như lịch sử của phần lớn nhân loại từ
hàng ngàn năm nay đã chứng minh" (5).

- "Đảng mặc dù là siêu-Nhà nước, chỉ đạo hoạt
động của toàn bộ hệ thống chính trị, nhưng luôn luôn giả
vờ làm như vô can. Mỗi khi Nhà nước có biểu hiện bê bối,
tham nhũng, Đảng lại đứng ra làm trọng tài, giả vờ xử lý
kỷ luật, trừng phạt những kẻ làm sai – nhưng thực chất
là tìm cách bao che, bảo vệ quyền lợi cho địa vị thống
trị của đẳng cấp cầm quyền. Cái màn kịch đó được
diễn hết sức khéo léo, cốt tạo ra trong quần chúng cái ý
tưởng: Đảng không bao giờ sai lầm, chỉ có một số đảng
viên, cán bộ nắm quyền trong bộ máy Nhà nước có thể phạm
sai lầm; Đảng bao giờ cũng sáng suốt, bao giờ cũng vì quyền
lợi của giai cấp, vì quyền lợi của nhân dân, chỉ có một
thiểu số (nhỏ, cực kỳ nhỏ) cán bộ, đảng viên là thoái
hoá, biến chất. Sai lầm, tội ác được gán cho những cán bộ
cấp dưới (trong thực tế là những con dê tế thần), để
bảo đảm cho các lãnh tụ anh minh được muôn đời sáng suốt,
trong sạch" (5).

- "Sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới mà nòng cốt là nước Nga xô-viết, quê hương của cuộc
Cách mạng tháng Mười, đánh đấu sự tan vỡ của những
huyền thoại cộng sản, mà đáng kể hơn hết là huyền thoại
"dân chủ vô sản". Khi khẩu hiệu công khai (glasnost) được
Gorbachev đề ra, hàng loạt sự thật bị che giấu từ hàng
chục năm được phơi bày, người ta cảm thấy bàng hoàng
trước sự dối trá khủng khiếp đã làm nên huyền thoại
"dân chủ vô sản". Trong thực tế, không hề có một nền
dân chủ vô sản mà chỉ có một nền chuyên chính nhân danh giai
cấp vô sản. Trong thực tế, không hề có một Nhà nước tự
tiêu vong mà chỉ có một Nhà nước toàn năng, có quyền can
thiệp vào bất cứ một tổ chức xã hội nào, bất cứ một
cuộc sống riêng tư nào. Trong thực tế, không hề có một
"nhân dân làm chủ" mà chỉ có những kẻ lạm quyền, lộng
quyền đội lốt "đầy tớ của nhân dân", nói cách khác là
những kẻ nhân danh nhân dân để thống trị chính nhân dân"
(5).

- "Ở các nước tiên tiến thường được gọi là "tư
bản chủ nghĩa", bộ máy hành chính dần dần trở thành một
bộ máy chuyên môn hoá, phi chính trị, bị kiểm soát bởi các
cơ quan dân cử, các phương tiện thông tin đại chúng (mass
media), các tổ chức quần chúng phi-chính phủ, các đảng chính
trị đối lập, v.v… Trong các nước theo mô hình mác-xít -
lê-nin-nít, nhà nước tìm cách hoà tan vào xã hội, nhưng không
phải theo hướng tạo ra một chế độ tự quản của nhân dân
như Marx đã hình dung mà lại theo hướng bao trùm, khống chế
mọi sinh hoạt xã hội, nói cách khác là nhà-nước-hoá xã hội
chứ không phải xã-hội-hoá nhà nước" (5).</div>

Đối chiếu giữa nhà nước huyền thoại với nhà nước hiện
thực, Mai Thái Lĩnh càng thấy hơn một lần chua xót:

<div class="special_quote">"Đã từng có một thời người ta còn
tin tưởng một cách ngây thơ rằng người trong cùng một nước
cai trị lẫn nhau sẽ nhân đạo hơn, dân chủ hơn so với sự
cai trị của ngoại bang. Thực tế lịch sử đã làm cho người
dân các nước thuộc thế giới thứ ba phải mở mắt để nhìn
ra một sự thật: kẻ thống trị là "đồng chủng" – thậm
chí là "đồng bào", không hề kém phần độc ác, nguy hiểm
so với kẻ thống trị là ngoại bang. Ngược lại, người dân
đôi khi còn bị trói tay, không thể đấu tranh để tự bảo
vệ mình, bởi vì các nhà thống trị đời mới hiểu rõ văn
hoá, tâm lý dân tộc, học được nhiều hơn từ kinh nghiệm
của chủ nghĩa chuyên chế cổ xưa. Truyền thống không phải
bao giờ cũng tốt đẹp, mà truyền thống được các nhà độc
tài, chuyên chế ca ngợi lại thường là những lề thói cổ
hủ, những tập quán lạc hậu đáng lẽ phải vứt bỏ đi.
Không phải ngẫu nhiên mà các nhà độc tài Á Đông ngày nay
thích học hỏi thuật cai trị, tìm tòi những mánh lới để
"giữ ghế" từ các phim truyện Tàu hay các pho sách như Tam
Quốc Chí, Đông Châu Liệt Quốc nhiều hơn là từ các tác
phẩm chính trị học hiện đại" (6)

"Cuộc đấu tranh để gỡ bỏ ách thống trị mới do đó trở
nên khó khăn hơn, gian khổ hơn so với trước đây, bởi lẽ
đẳng cấp thống trị ngày nay dựa vào công lao giải phóng dân
tộc như một lá bùa để bảo vệ đặc quyền đặc lợi.
Người yêu nước thường xuyên bị chụp mũ là phản bội Tổ
quốc, người đấu tranh cho dân quyền luôn luôn bị gán cho cái
nhãn hiệu là "tay sai của phương Tây", bị vu cáo là
"những người câu kết với thực dân, đế quốc để phá
hoại sự an bình của đất nước". Trong khi đó kẻ phản
bội nhân dân, chạy theo quyền lợi riêng tư lại nghiễm nhiên
khoác lên mình cái áo của cách mạng, của dân tộc. Họ luôn
mồm nói về nhân dân, miệng thơn thớt hai chữ "bà con",
nói leo lẻo hai tiếng "đồng bào", nhưng lại lén lút kéo
cả gia đình, dòng họ vào các vị trí quyền lực, chia chác
nhau tiền ăn cắp từ ngân sách hay từ các nguồn vốn vay của
nước ngoài, tự do ăn của đút, hăng hái bao che nhau để lọt
qua lưới pháp luật. Ngược lại, họ sẵn sàng sử dụng
những biện pháp hết sức khắc nghiệt để đàn áp, bịt
miệng bất cứ ai – từ những trí thức ưu tú cho đến những
thanh niên đầy nhiệt huyết của đất nước mỗi khi những
người này mở miệng phê phán những khuyết điểm, đòi hỏi
sửa chữa những mặt tiêu cực của chế độ hay nêu lên
những yêu sách, nguyện vọng chính đáng của nhân dân"
(6).</div>

Ông quan tâm nhiều đến tư tưởng chính trị của Phan Châu
Trinh. Trong một bài nghiên cứu được công bố trên mạng
talawas vào năm 2007, ông đã chứng minh Phan Châu Trinh có một
quan niệm chính trị nhất quán, mang tính hệ thống gắn liền
với cuộc đời hoạt động chính trị, chứ không phải chỉ
hiểu biết một cách hời hợt về thể chế dân chủ tự do
như một số nhà nghiên cứu đã nhận định. Đánh giá về nhà
trí thức cách mạng này, ông viết:

<div class="special_quote">"Đó là nhà dân chủ - xã hội đầu
tiên của nước ta, người mong muốn kết hợp các giá trị tự
do và bình đẳng trong một thể chế chính trị-xã hội tạo
điều kiện cho mọi người đều được phát huy năng lực của
mình, không phân biệt nguồn gốc xuất thân, không phân biệt
giai cấp, tín ngưỡng hay quan điểm chính trị. Chính điều này
làm cho tư duy của ông thật sự gần gũi với tư duy hiện
đại, và tuy đã mất cách đây hơn 80 năm, dường như ông vẫn
còn sống đâu đây, vẫn còn thao thức và trăn trở với niềm
khao khát đem tự do và công bằng xã hội đến cho một đất
nước đã quá đau khổ vì chiến tranh và lòng hận thù, cho
một dân tộc xứng đáng được hưởng hạnh phúc mà cho đến
nay vẫn còn phải sống trong đói nghèo và vô vàn bất công, áp
bức." (10).</div>

Ông cũng nhấn mạnh đến điểm đặc sắc của Phan Châu Trinh:
trong khi phê phán quyết liệt một thứ Nho giáo đã bị nhiễm
nọc độc của chủ nghĩa chuyên chế phương Đông, vẫn không
quên nhấn mạnh những tinh hoa của nền đạo đức Nho giáo
cần phải khôi phục để làm nền tảng tinh thần, sức mạnh
ban đầu của dân tộc.

Ba năm sau (2010), ông phát hiện Cương lĩnh chính trị của nhà
trí thức cách mạng này được gói ghém trong khuôn khổ của
một bài thơ, một bản cương lĩnh mà do thành kiến hoặc do
không tìm hiểu thấu đáo về tư tưởng chính trị, nhiều nhà
nghiên cứu đã bỏ qua, không lưu ý đến. Đánh giá ý nghĩa
của bản cương lĩnh này, ông viết: <em>"Điều đáng nói là
toàn bộ nội dung của cương lĩnh chính trị mà Phan Châu Trinh
trình bày qua 16 câu thơ nói trên mặc dù đã được viết cách
đây gần một thế kỷ, nhưng nội dung của nó không hề lỗi
thời mà ngược lại, có thể được coi là quá mới mẻ, quá
táo bạo đối với phần lớn các nước Á, Phi và Mỹ La-tinh
hiện nay. Lý do căn bản là sự trỗi dậy của phong trào giải
phóng dân tộc và độc lập dân tộc trong suốt thế kỷ 20 đã
dẫn đến kết quả hầu hết các nước thuộc địa và lệ
thuộc đều được giải phóng, nhưng độc lập dân tộc đã
không đem lại tự do cho mỗi công dân và cũng không đem lại
được những chế độ dân chủ đích thực."</em> (11)

Việc khôi phục lại đường lối dân chủ - xã hội mà Phan
Châu Trinh đã vạch ra vào đầu thế kỷ trước cũng gắn liền
với nỗ lực của bản thân ông và những người cùng chí
hướng trong nhóm Đà Lạt, như ông đã tâm sự trong một lá
thư được công bố vào tháng 8 năm 2008: <em>"Chúng tôi chọn
con đường dân chủ - xã hội một phần bởi vì nguồn gốc
lịch sử của bản thân anh em chúng tôi. Thật ra, trong quá
trình phát triển của lịch sử Việt Nam thời hiện đại, cánh
tả đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vào lúc mới hình
thành, cánh tả ôn hòa chiếm vị trí đáng kể. Nhưng kể từ
sau khi Phan Châu Trinh mất, phong trào cánh tả ở nước ta ngày
càng "cấp tiến hóa": từ Nguyễn An Ninh cho đến nhóm Tạ
Thu Thâu – Phan Văn Hùm, và Đảng Cộng sản, tất cả đều
ngả sang xu hướng cực đoan. Cánh tả ôn hòa dần dần tiêu hao
và biến mất. Điều đó khiến cho sự hợp tác giữa cánh hữu
và cánh tả gặp khó khăn, cuộc đấu tranh giành độc lập ở
Việt Nam chuyển sang con đường bạo động, dẫn đến hai cuộc
chiến tranh mà thắng lợi sau cùng rơi vào tay Đảng Cộng sản.
Làm sống lại phái tả ôn hòa trong sân khấu chính trị Việt
Nam là nhiệm vụ của những người như chúng tôi. Về phía
những người tạm gọi là phái hữu, tất yếu sẽ nảy sinh
những người có lập trường ôn hòa. Trong cái nhìn dự báo
của riêng tôi, nền dân chủ ở Việt Nam sắp tới sẽ là công
trình của phái tả ôn hòa hợp tác với phái hữu ôn hòa,
cộng với các xu hướng trung dung mà người ta thường gọi là
phái giữa (the centre). Có hai phái ngày nay đang ở thế mạnh là
phái cực tả (Đảng Cộng sản) và phái cực hữu (những
người chống cộng cùng mình); nhưng trong tương lai tôi tin
rằng các xu hướng đó sẽ ngày càng bị suy vong cùng với đà
phát triển của dân chủ. Mặt khác, Đảng Cộng sản cũng sẽ
phân hóa, phái ôn hòa - cải cách có thể tồn tại nếu họ
thích nghi, còn phái cực đoan - bảo thủ sẽ mất dần ảnh
hưởng."</em> (12)

<center>***</center>

Mai Thái Lĩnh (tức Hoàng Thái Lĩnh) sinh năm 1946 tại Lâm Đồng,
năm 1969 đỗ cử nhân Triết học tại Đại học Đà Lạt và
được giữ lại trường làm trợ giảng. Ông tham gia phong trào
trí thức – sinh viên học sinh từ năm 1971. Năm 1973 thóat ly
hẳn ra Chiến khu Núi Voi hoạt động Cách mạng. Năm 1979 được
Đảng đưa đi học Nguyễn Ái Quốc (khóa IX) rồi về làm Phó
Chủ tịch Thường trực Hội đồng Nhân dân TP Đà Lạt (1989
– 1994). Do bất đồng chính kiến, mặc dù vẫn được cử tri
Đà Lạt tín nhiệm, ông bỏ nhiệm sở, nghỉ hưu sớm. Sáu năm
sau, ông bị quản thúc tại gia để điều tra về tội "phản
bội Tổ quốc", cùng với Hà Sĩ Phu (5/2000 – 1/2001).

Sau đây là trích đoạn một bài báo của ký giả Tưởng Năng
Tiến từ hải ngoại khi viết về Mai Thái Lĩnh:

<div class="special_quote">"Người đứng đầu các cơ quan, xí
nghiệp, trường học, đoàn thể quần chúng…phải là người
có tài, có đức, được quần chúng tín nhiệm, không phân
biệt là đảng viên hay người ngoài đảng. Từ nay trở đi,
để có thể giữ những chức vụ trong bộ máy quản lý nhà
nước, bộ máy quản lý kinh tế, các đoàn thể quần chúng,
đảng viên không còn 'đặc quyền' gì mà phải 'thi đua' với
quần chúng".

Ðó là ý kiến đóng góp để xây dựng đảng cộng sản Việt
Nam của một nghị viên Hội Ðồng Nhân Dân Tỉnh và Thành
Phố, ông Mai Thái Lĩnh, được phát biểu vào năm 1988. Ở thời
điểm này, dù là đảng Cộng Sản Việt Nam đang hô hào đổi
mới và chủ trương cởi trói, ý kiến hoàn toàn không có gì
là mới lạ và độc đáo vừa nêu cũng đã khiến cho nhiều
đồng chí lãnh đạo rất phiền lòng!

Mai Thái Lĩnh, nghĩ cho cùng, chỉ là một thí dụ cay đắng
điển hình của thế hệ sau - "thế hệ không chịu học
bài" và vì "chưa thấy quan tài nên chưa đổ lệ." Ông sinh
trưởng ở miền Nam, tốt nghiệp cử nhân triết học và trở
thành giảng viên phụ giảng của trường Văn Khoa thuộc viện
Ðại Học Ðà Lạt - lúc còn rất trẻ. Ðược lệnh động
viên vào mùa hè đỏ lửa 1972, thay vì gia nhập quân đội miền
Nam để bảo vệ phần đất đã bảo bọc và nuôi dưỡng mình
nên người, Mai Thái Lĩnh - vì thất vọng trước cảnh bất
toàn của xã hội mà ông đang sống - đã từ chối nhập ngũ
và "nhẩy núi" gia nhập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Với tư cách hội viên Hội Văn Nghệ Lâm Ðồng, ngày 7 tháng 6
năm 1989, Mai Thái Lĩnh lên tiếng phản kháng bằng cách viết
thư gửi ban chấp hành của hội. Bức thư này có những đoạn
đáng chú ý, như sau:

"Trước hết, cần phải dẹp bỏ cái 'giáo điều' cho
rằng không phải là đảng viên thì không đuợc quyền bàn
việc của Ðảng… cấm dân bàn chuyện của Ðảng là điều
cực kỳ phi lý… khi mà nhân dân bị trói tay, đại biểu nhân
dân cũng bị trói tay bởi 'cơ chế' bất hợp lý thì làm sao
ngăn nổi sự lạm quyền và tình trạng vi phạm dân chủ?"

Bất ngờ, ngày 31 tháng 5 năm 2000, cơ quan quốc tế đấu tranh
cho nhân quyền Human Rights Watch đã phổ biến một tuyên cáo
"kêu gọi nhà cầm quyên Việt Nam trả ngay tự do cho Hà Sĩ
Phu." Cơ quan này cho biết ông Hà Sĩ Phu bị công an tình nghi
có liên lạc với một số trí thức, những người đã thảo ra
một tuyên ngôn chung đòi dân chủ có danh xưng là "Kết Ước
2000".

Human Rights Watch cũng tiết lộ danh tánh một người thứ hai có
liên quan đến nội vụ là ông Mai Thái Lĩnh. Ông cũng bị soát
nhà và công an đã tìm ra bản thảo của Kết Ước này.

Cũng theo HRW: "Năm ngoái khi soát nhà Nguyễn Thanh Giang ở Hà
Nội, công an đã tìm thấy một bức thư yêu cầu ông Giang thu
thập chữ ký của những nguời bất đồng chính kiến cho bản
kết ước, việc này đã dẫn đến chuyện ông Giang bị bắt
vào tháng 3 năm 1999"</div>(9)

Trong một bài đăng trên "An ninh Thế giới" số 210, năm 2001
lên án gay gắt "nhóm sỹ phu Đà Lạt", nhà báo Nguyễn Như
Phong cũng đã viết như sau về Mai Thái Lĩnh: "Mai Thái Lĩnh
đã có nhiều đóng góp cho ngành Giáo dục của Đà Lạt, có
nhiều bài nghiên cứu vê Đà Lạt khá hay. Anh hoàn toàn có thể
trở thành nhà "Đà Lạt học" nổi tiếng và xứng đáng
được mọi người kính trọng như trước đây khi còn là Phó
chủ tịch thường trực HĐND TP. Đà Lạt".

Sự thực, Mai Thái Lĩnh không chỉ xứng đáng được mọi
người kính trọng vì "đã có nhiều đóng góp cho ngành Giáo
dục của Đà Lạt", vì có nhiều bài nghiên cứu về Đà Lạt
như một nhà "Đà Lạt học" nổi tiếng, mà hơn thế, ông
còn là người hay lo việc nước có tầm cỡ.


Hà Nội 6 tháng 7 năm 2011

Nguyễn Thanh Giang

Số nhà 6 – Tập thể Địa Vật lý Máy bay

Trung Văn – Từ Liêm – Hà Nội

Mobil: 0984 724 165

___________________________________________________

<strong>Ghi chú:</strong>

(1) Mai Thái Lĩnh - Ải Nam Quan trong hiện tại
(2) Trương Nhân Tuấn – Vài dòng xin thưa cùng anh Mai Thái Lĩnh
về bài viết "Ải Nam Quan trong hiện tại"
(3) Mai Thái Lĩnh - Trao đổi ý kiến về "Ải Nam Quan trong
hiện tại"
(4) Mai Thái Lĩnh - Một "Đà Lạt thơ mộng"- còn hay mất?
(5) Mai
Thái Lĩnh – Huyền thoại về một nhà nước tự tiêu vong
(6) Mai Thái Lĩnh – <a href="http://danluan.org/node/4128">Hai chữ
"Dân quyền"</a>
(7) Mai Thái Lĩnh, Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh.
(8) Mai Thái Lĩnh, Trao đổi ý kiến về xã hội dân sự và dân
chủ - xã hội,
(9) Tưởng Năng Tiến - Từ Nguyễn Mạnh Tường Ðến Mai Thái
Lĩnh
(10) Mai Thái Lĩnh - <a href="http://danluan.org/node/382">Tìm hiểu quan
niệm chính trị của Phan Châu Trinh</a>
(11) Mai Thái Lĩnh - Cương lĩnh chính trị của Phan Châu Trinh
(12) Mai Thái
Lĩnh - Trao đổi ý kiến về xã hội dân sự và dân chủ - xã
hội

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/9313), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét