Phạm Hoài Nam - Tại sao có sự khác biệt quá lớn giữa người Việt Nam và người Nhật Bản?

<div class="boxright300"><img
src="http://danluan.org/files/u1/sub01/nguoi-nhat-chao-nhau.jpg" width="300"
height="300" alt="nguoi-nhat-chao-nhau.jpg" /><div class="textholder">Hai
người Nhật chào nhau</div></div>
Trước đây do công việc tôi có dịp đi Nhật nhiều lần cũng
như đi nhiều nước khác trên thế giới. Nước Nhật không
phải là nước mà tôi thích đến nhất (có thể vì đắt đỏ
quá) nhưng đó là đất nước mà tôi nể phục nhất – không
chỉ phục ở những thành tựu của sự văn minh, những công
trình kiến trúc tuyệt mỹ mà còn ở yếu tố con người.

Kể từ đó tôi luôn tò mò tìm hiểu thêm về lịch sử và văn
hóa của các con cháu Thái Dương Thần Nữ.

Càng biết thêm về họ tôi càng phục họ hơn. Đó là một dân
tộc có nhiều điểm rất đặc biệt. Một dân tộc luôn tự
hào về những giá trị truyền thống nhưng khi cần cũng sẵn
sàng dứt bỏ những gì đã lỗi thời. Một dân tộc mang niềm
kiêu hãnh lớn lao nhưng đồng thời cũng luôn biết học hỏi
cái hay của người khác. Một dân tộc đã từng đánh bại các
đế quốc Mông Cổ, Trung Hoa và Nga Sô nhưng cũng biết nuốt
cái nhục bại trận để vươn lên thành một cường quốc kinh
tế. Một dân tộc ít khi ồn ào lớn tiếng, và luôn xem trọng
sự ngăn nắp sạch sẽ. Nhưng đặc biệt hơn cả – đó là
một dân tộc chưa bao giờ biết đầu hàng trước nghịch
cảnh.

Tôi nhớ trước đây có đọc một bài viết của một người
Việt sống lâu năm tại Nhật, quên mất tên tác giả, trong đó
ông có nêu ra một chi tiết để phân biệt giữa người Nhật
bản địa và người ngoại quốc sống ở Nhật – đó là nhìn
qua cách phơi quần áo. Người ngoại quốc phơi lung tung, còn
người Nhật phơi theo thứ tự, quần theo quần, áo theo áo….
Đúng như nhà văn Haruki Murakami đã nhận định: "<em>Người
Nhật là kho tàng của nước Nhật</em>". Tôi rất cám ơn đất
nước này vì chính người Nhật đã cho tôi một niềm tin rằng
bất cứ một đất nước nào, dù nhỏ, dù bị bất lợi về
địa lý, tài nguyên… nhưng nếu dân tộc đó có một nhân sinh
quan đúng đắn thì vẫn có thể trở thành một dân tộc giàu
mạnh.

<center>* * *</center>

Thiên tai động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật cách đây 2
tháng, mặc dầu những tin tức liên quan đến biến cố này
không còn được nhắc đến nữa, nhưng đối với những
người Việt Nam còn quan tâm đến đất nước thì những dư âm
của nó vẫn còn để lại nhiều vương vấn suy tư. Cùng là hai
nước nhỏ ở Á Châu nhưng định mệnh nào đã đưa đẩy hai
dân tộc khác biệt nhau quá xa. Một dân tộc mà mỗi khi nhắc
tới, từ Đông sang Tây, đều phải ngã mũ bái phục, còn dân
tộc kia thì ít khi được nhắc đến, hay nếu có thì thường
là những điều không lấy gì làm vinh dự cho lắm.
Sau biến cố này đã có hàng ngàn ý kiến xuất hiện trên các
diễn đàn Internet đặt câu hỏi: "<em>Tại sao lại có sự
khác biệt quá lớn giữa người Việt và người Nhật</em>",
phần lớn những ý kiến này xuất phát từ những người trẻ
đang sống ở Việt Nam. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho
thấy có nhiều người Việt Nam đang thao thức muốn thay đổi
số phận của đất nước mình.

Đây là một đề tài rất lớn và đòi hỏi sự suy nghĩ,
nghiên cứu nghiêm túc của nhiều người nhất là những nhà
trí thức. Bài viết này để chia sẻ câu hỏi đó và chỉ nên
xem như những lời góp ý rất khiêm tốn.
Sự chênh lệch giữa Việt Nam và Nhật Bản không phải chỉ
xảy ra bây giờ, từ đầu thế kỷ 20 Nhật đã vượt ta rất
xa. Trong cuốn "Niên Biểu" cụ Phan bội Châu đã kể lại
kinh nghiệm của mình sau hai lần đến nước Nhật để tìm
đường cứu nước (lần đầu tiên vào năm 1905). Những điều
tai nghe mắt thấy tại đây khiến cụ rất phục tinh thần của
dân tộc Nhật Bản. Người phu xe, thuộc giai cấp lao động
bình dân, chở cụ đi tìm một sinh viên người Trung Hoa, mất
nhiều thời gian công sức mà cuối cùng vẫn nhận đúng 52 xu:
"<em>Than ôi! trình độ trí thức dân nước ta xem với tên phu
xe Nhật Bản chẳng dám chết thẹn lắm sao!</em>".

Nước Nhật nằm ở vị trí đầu sóng ngọn gió, chịu liên
tục những thiên tai trong suốt chiều dài lịch sử và họ
chấp nhận định mệnh đó với lòng can đảm. Thiên tai vừa
rồi rất nhỏ so với trận động đất tại Tokyo vào năm 1923
và hai quả bom nguyên tử vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến. Nhờ
phương tiện truyền thông quá văn minh cho nên cả thế giới
vừa rồi có cơ hội nhìn thấy rõ hơn "tinh thần Nhật
Bản" trong cơn nguy biến.

Trận động đất xảy ra tại Tokyo ngày 1/9/1923 đã làm cho
130,000 người thiệt mạng, Yokohama bị tàn phá hoàn toàn, phân
nửa của Tokyo bị tiêu hủy. Trong quyển "Thảm nạn Nhật
Bản" (Le désastre Japonais) của đại sứ Pháp tại Nhật thời
đó thuật lại: "Từng cá nhân kẻ góp chút gạo, kẻ đem
chiếc xuồng để giúp đỡ nhau như một đại gia đình"chứng
tỏ là họ có một truyền thống tương thân tương ái lâu
đời.

Vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến hai quả bom nguyên tử bỏ xuống
Hiroshima và Nagasaki, ngay lập tức làm thiệt mạng khoảng 150,000
người. Những thành phố kỹ nghệ của Nhật cũng bị tàn phá
nặng nề vì những trận mưa bom của phi cơ Đồng Minh. Lần
đầu tiên trong lịch sử người Nhật phải chấp nhận đầu
hàng và là nỗi nhục quá lớn đối với họ như lời của
Nhật Hoàng Hirorito: "<em>Chúng ta phải chịu đựng những
điều không thể chịu đựng nỗi</em>".

Không có hình ảnh nào thê thảm như nước Nhật lúc
đó, kinh tế gần như bị kiệt quệ hoàn toàn. Tuy nhiên Đồng
Minh có thể tiêu diệt nước Nhật nhưng không thể tiêu diệt
được tinh thần của người Nhật, họ đã biến cái nhục thua
trận thành sức mạnh để vươn lên từ đống tro tàn.

Đến năm 1970, chỉ có 25 năm, một nước bại trận
hoang tàn đổ nát trở thành một cường quốc kinh tế đứng
thứ nhì trên thế giới, chỉ thua có Hoa Kỳ. Danh từ "Phép
lạ kinh tế" phát xuất từ hiện tượng này.

Trong 7 năm từ 1945 cho đến 1952, tướng MacArthur, thay mặt Hoa
Kỳ quản trị nước Nhật với tư cách là Chỉ Huy Tối Cao
của Lực Lượng Đồng Minh (Supreme Commander of the Allied Powers)
– vì nể phục và quý mến người Nhật cho nên vị tướng
này muốn biến nước Nhật trở thành một "Nước Mỹ lý
tưởng" hay nước Thụy Sĩ ở Á Châu. Tuy cuối cùng kết quả
không được trọn vẹn như ý muốn của ông vì người Nhật
không thể để mất hồn tính dân tộc. Nhưng nước Nhật
được như ngày nay có công đóng góp rất lớn của tướng
MacArthur.

Trở lại chuyện thiên tai vừa rồi, ngay sau đó có cả ngàn
bài viết ca ngợi tinh thần của người Nhật. Nhiều tờ báo
lớn của Tây Phương đi tít trang mặt: "Người Nhật: Một
Dân Tộc Vĩ Đại". Nhật báo lớn nhất của Mỹ, New York
Times, số ra ngày 20 tháng 3 đăng bài "Những điều người
Nhật có thể dạy chúng ta" của ký giả Nicholas Kriftoff.

Đúng như lời của nhà báo Ngô Nhân Dụng đã viết: "<em>Một
dân tộc, và mỗi con người, khi bị thử thách trong cơn hoạn
nạn, là lúc chứng tỏ mình lớn hay nhỏ, có đáng kính trọng
hay không</em>".

<div class="boxright200"><div class="quotebody"><div class="quoteopen"><img
class="quoleft" src="/misc/quoleft.png"/></div>Một đất nước mà trong
cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau, từ quan đến dân, trăm
người như một, trên dưới một lòng lo tìm cách đối phó,
thì đất nước đó xứng đáng là một đất nước vĩ
đại.<img class="quoright" src="/misc/quoright.png"/> <br
class="quoteclear"></div></div>
Dùng từ vĩ đại đối với nước Nhật không cường điệu
chút nào, họ vĩ đại thật. Giữa cảnh chết chóc, nhà cửa
tan nát, đói lạnh, tuyệt vọng… vậy mà họ vẫn không để
mất nhân cách, mọi người nối đuôi nhau chờ đợi hàng giờ
để lãnh thức ăn, tuyệt đối không oán trách trời, không
trách chính quyền, không lớn tiếng, không ồn ào, kiên nhẫn
chờ đợi đến phiên mình.

Một đất nước mà trong cơn khốn khó, không đổ lỗi cho nhau,
từ quan đến dân, trăm người như một, trên dưới một lòng
lo tìm cách đối phó, thì đất nước đó xứng đáng là một
đất nước vĩ đại.

Toàn bộ nội các Nhật làm việc gần như 24/24. Các hiệu
trưởng ngủ lại trường cho đến khi học sinh cuối cùng
được di chuyển đi. Các siêu thị hoàn toàn không lợi dụng
tình cảnh này để tăng giá. Tiền rơi ngoài đường từ những
căn nhà đổ nát không ai màng tới thì đừng nói chi đến
chuyện hôi của. Ông Gregory Pflugfelder, giáo sư chuyên nghiên
cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại Học Columbia (Mỹ) đã nhận
xét về người Nhật sau thiên tai này như sau: "<em>Hôi của
đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn
không chắn rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ ngữ
này.</em>"

Người Nhật là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự
trọng và lòng yêu nước rất cao, không chờ đợi ai mở lòng
thương hại, sau những hoang tàn đổ nát, mọi người cùng nhau
bắt tay xây dựng lại.

Mặc dầu chính phủ Hoa Kỳ đề nghị đến giúp dập tắt lò
nguyên tử Fukushima nhưng họ từ chối.

Xa lộ tại thành phố Naka, thuộc tỉnh Ibaraki bị hư hại nặng
do động đất. Chỉ một tuần sau, ngày 17/3 các công nhân cầu
đường Nhật bắt đầu sửa chữa, chỉ 6 ngày sau xa lộ này
đã hoàn tất, ngay cả Hoa Kỳ có lẽ cũng không thể đạt
được kỷ lục này.

Từ Nhật Hoàng Akihito, Thủ Tướng Naoto, cho đến các thường
dân đều tự tin rằng: "Chúng tôi sẽ phục hồi" như họ
đã từng làm trong quá khứ. Cho đến hôm nay (18/5) theo những
tin mà chúng ta đọc được trên Internet thì những nơi bị tàn
phá đang được phục hồi nhanh chóng. Có thể chỉ 2, 3 năm sau
nếu có dịp đến đây chúng ta sẽ thấy cảnh vật hoàn toàn
thay đổi.

Điều đáng chú ý nhất trong thiên tai này đối với người
viết – chính là thái độ của trẻ em. Đến xứ nào, chỉ
cần nhìn qua tuổi trẻ là có thể đoán được tương lai của
xứ đó, bởi vì tuổi trẻ là hy vọng, là tương lai của đất
nước. Không phải chỉ có em học sinh 9 tuổi mất cha mất mẹ,
đang đói khát nhưng vẫn từ chối sự ưu tiên hơn người khác
được cả thế giới biết đến, mà còn có cả ngàn em học
sinh Nhật khác trong hoàn cảnh tương tự vẫn luôn luôn giữ
tinh thần kỹ luật và lễ phép.

Những em nhỏ, có em còn được bồng trên tay, có em ngồi bên
cạnh mẹ trong các nơi tạm cư, mặc dầu đói khát từ mấy
ngày qua nhưng nét mặt của các em vẫm bình thản chờ đợi
thức ăn mang đến. Những em bé này được dạy dỗ từ nhỏ
tinh thần kỷ luật, tự trọng, danh dự và khắc kỷ… không
phải chỉ học ở trường hay qua sách vở mà còn qua những
tấm gương của người lớn trong những hoàn cảnh thực tế và
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Mai đây nếu có một cuốn sách giới thiệu những nét đẹp
nhất, cao thượng nhất của con người sống trên hành tinh này
thì cuốn sách đó không thể thiếu được những hình ảnh
của người Nhật trong thiên tai vừa qua.

Trông người lại nghĩ đến ta!

Trong bài "Góc ảnh chiếu từ nước Nhật", nhạc sĩ Tuấn
Khanh (ở VN) đã viết một câu thật thấm thía:

"<em>Đôi khi giữa những hoang tàn đó của nước Nhật,
người ta bừng sáng hy vọng và đôi khi sống giữa những
điều được gọi tên là bình yên của đất nước mình, một
người Việt Nam vẫn có thể cảm nhận được những ảnh
chiếu sắc cạnh của sự hoang tàn</em>".

Một số người đặt câu hỏi: Nếu tai họa như nước Nhật
xảy ra tại VN thì chuyện gì sẽ xảy ra? <a
href="http://www.danchimviet.info/archives/30253">Bà Mạc Việt Hồng
đã diễn tả</a> bức tranh đó như thế này:

- Động đất có khi chết 200 nhưng giẫm đạp lên nhau mà
chạy, chết thêm nghìn nữa.

- Các ban ngành sẽ họp bàn cách cứu hộ từ ngày này qua ngày
kia.

- Cướp giật hôi của sẽ phổ biến, hoa người ta còn cướp
giật nói chi tới đồ ăn hay tiền bạc vào lúc hỗn quan hỗn
quân như vậy. Người đi hôi của sẽ nhiều hơn người đi
cứu trợ.

- Nếu có phát khẩu phần ăn sẽ chẳng có hàng lối gì, bà
già trẻ nhỏ sẽ bị chen cho bẹp ruột, ai thắc mắc hay nhìn
đểu mấy kẻ chen lấn, thì "bố cho mày mấy chưởng".

- Sẽ xuất hiện đủ loại cò: Cò mua, cò bán, cò di tản, cò
cứu trợ, cò bệnh viện… tha hồ chặt chém đồng bào.

- Tiền và hàng cứu trợ sẽ vào tay dân thì ít, cửa quan thì
nhiều.

- Ai muốn người nhà mình đang kẹt trong đống đổ nát được
đào bới, tìm kiếm trước thì hãy chi đẹp cho đội cứu hộ.

- Khu nào có quan chức ở thì được ưu tiên cứu hộ trước,
khu nào dân đen sinh sống thì cứu sau.

- Cửa hàng sẽ thi nhau tăng giá, bắt chẹt những người khốn
khổ.

- Tổ chức nào, tôn giáo nào muốn cứu trợ thì phải được
sự đồng ý của Mặt trận Tổ quốc và các cấp chính quyền
kẻo các "thế lực thù địch" lợi dụng.

…v.v….

Tôi không nghĩ là bà Mạc Việt Hồng nói quá đáng. Chúng ta
cũng không cần phải có kinh nghiệm thực tế, chỉ cần đọc
qua báo trong nước sau mỗi lần có thiên tai cũng đủ biết là
những ghi nhận trên của tác giả không sai chút nào. Nói chung
nạn nhân nếu muốn sống sót phải làm theo bản năng "mạnh
được yếu thua" hay "khôn nhờ dại chịu", còn quan chức
chính quyền thì coi đó như thời cơ để kiếm tiền.

Ngay tại hải ngoại, nếu thiên tai xảy ra tại những nơi tập
trung đông đúc người Việt, phản ứng của người dân có
thể không tệ như trong nước nhưng chắc chắn bức tranh đó
cũng sẽ không được đẹp đẽ cho lắm.

Có thể có những quý vị nghĩ rằng: không nên quá đề cao
người khác và rẻ rúng thân phận của mình – vì phải giữ
lại niềm tự hào dân tộc. Riêng tôi thì không đồng ý với
những quan điểm như thế.

Có hãnh diện gì khi nói ra những điều không hay
về chính dân tộc mình, người viết cũng là người Việt,
cũng có tất cả những thói hư tật xấu của người VN. Nhưng
thiết nghĩ, muốn thoát khỏi sự thua kém, trước hết phải
dám can đảm biết nhìn lại chính mình, phải biết mình tốt
chỗ nào, xấu chỗ nào, đang đứng tại đâu và cần phải làm
những gì. Cũng giống như một người sinh ra trong một gia đình
nghèo khó bất hạnh, phải biết chấp nhận số phận đó,
nhưng chấp nhận để tìm cách vươn lên chớ không phải chấp
nhận để đầu hàng hoàn cảnh. Gần một trăm năm nước đây,
Lỗ Tấn từ bỏ nghề y chuyển sang viết văn để mong đánh
thức được dân tộc Trung Hoa ra khỏi căn bệnh bạc nhược
bằng những toa thuốc cực đắng như "AQ chính truyện", gần
đây nhà văn Bá Dương tiếp nối tinh thần đó với "Người
Trung Quốc xấu xí" cũng được nhiều đồng bào của ông cho
đó là một đóng góp đáng kể. Cuộc cách mạnh Duy Tân của
Minh Trị Thiên Hoàng vào giữa thế kỷ 19 chắc chắn sẽ không
thành công được như vậy nếu những nhà tư tưởng của Nhật
lúc đó không vạch ra cho đồng bào của họ thấy được
những những cái yếu kém trong văn hóa truyền thống cần phải
bỏ đi để học hỏi những cái hay của Tây Phương, nhà văn
Miyake Setsurei, dành riêng một cuốn sách công phu "Người Nhật
xấu xa" xuất bản năm 1891 để đánh thức người Nhật ra
khỏi căn bệnh lạc hậu.

Chúng ta chỉ có thể yêu nước nếu chúng ta có niềm tự hào
dân tộc. Nhưng tự hào vào những điều không có căn cứ hay
không có thật sẽ có tác dụng ngược như những liều thuốc
an thần.

Những tự hào giả tạo này có khi vì thiếu hiểu biết, có khi
vì mưu đồ chính trị của kẻ cầm quyền như những gì mà
người CS đã làm đối với dân VN trong hơn nửa thế kỷ qua,
và tác hại của nó thì ngày nay chúng ta đã thấy rõ.

Người Việt có những mâu thuẫn kỳ lạ. Chúng ta mang tự ái
dân tộc rất cao nhưng đồng thời chúng ta cũng mang một tinh
thần vọng ngoại mù quáng. Chúng ta thù ghét sự hiện diện
của ngoại bang trên đất nước chúng ta bất kể sự hiện
diện đó có chính đáng đến đâu, nhưng đồng thời giữa
chúng ta cũng không tin lẫn nhau, xưa nay mọi giải pháp quan
trọng của đất nước chúng ta đều trông chờ vào người
ngoại quốc, chớ không tự quyết định số phận của mình.

Mỗi khi nói về những tệ hại của đất nước VN
hiện nay đa số chúng ta thường hay đổ hết trách nhiệm cho
người Cộng Sản. Thật sự CS không phải là thành phần duy
nhất chịu trách nhiệm cho những bi kịch của đất nước hôm
nay, họ chỉ là sản phẩm đương nhiên của một nền văn hóa
thiếu lành mạnh. Nếu CS là nguyên nhân của mọi sự xấu xa
thì thành phần người Việt đang sống tại những quốc gia văn
minh và giàu có nhất thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc… phải
là những người thể hiện nếp sống văn hóa cao xứng đáng
với xã hội văn minh mà họ thừa hưởng. Nhưng không, những
người Việt đó, tuy khá hơn người trong nước nhưng vẫn thua
kém nhiều sắc dân khác, vẫn mang tất cả những khuyết tật
mà cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã nêu ra gần một trăm năm
trước. Vẫn chia rẽ, vẫn tỵ hiềm nhau, vẫn xâu xé lẫn nhau,
có khi chỉ vì bất đồng quan điểm, có khi chỉ vì một quyền
lợi thật nhỏ, thậm chí có khi chỉ vì một hư danh.

Không phải là một tình cờ của lịch sử mà chủ nghĩa CS đã
dành được những thắng lợi trong cuộc cách mạng mùa thu năm
1945, và luôn luôn giữ thế thượng phong trên đất nước VN
từ đó đến nay. Dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh thay vì Phan
Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim… hoàn
toàn không phải vì Hồ Chí Minh giỏi hơn, yêu nước hơn,
nhiệt tình hơn những người kia, nhưng chỉ vì Hồ Chí Minh
đáp ứng đúng tâm lý của người Việt – đó là tâm lý tôn
thờ bạo lực. Chắc chắn không có nước nào trên thế giới
này mà bài Quốc Ca có câu sắt máu như thế này: "Thề phanh
thây uống máu quân thù", mà "quân thù" đó bất cần là
ngoại bang hay đồng bào ruột thịt, nghe mà rợn người. Khẩu
hiệu của phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh vào những năm 1930, 31
do đảng CS lãnh đạo là: Trí, phú, địa, hào – Đào tận
gốc trốc tận rễ.

Đối với người VN bạo lực có sức quyến rũ hơn là nhu cầu
khai sáng trí tuệ để giải quyết vấn đề một cách ôn hòa.
Hồ Chí Minh chọn chủ nghĩa CS dựa trên bạo lực cách mạng
và đấu tranh giai cấp. Giải pháp bạo lực này đòi hỏi phải
luôn tồn tại một kẻ thù làm đối tượng. Hết kẻ thù
thực dân phải tìm ra một kẻ thù khác để có lý do hành
động, chính vì thế cho nên máu và nước mắt vẫn tiếp tục
rơi trên đất nước VN trong suốt hơn nửa thế kỷ qua.

Hoàn toàn trái ngược với Hồ Chí Minh, Phan Chu Trinh
chọn giải pháp Khai Dân trí, Chấn Dân Khí, Hậu Dân sinh. Theo
ông, muốn thoát khỏi ách đô hộ của ngoại bang và sự nghèo
khổ lạc hậu, trước hết phải nâng cao dân trí, mở mang trí
tuệ. Dân trí cao người dân sẽ ý thức được quyền làm
người, quyền dân tộc, rồi từ đó sẽ tranh đấu bằng giải
pháp chính trị để giành độc lập. Dân trí thấp kém cho dù
có dành được độc lập thì vẫn tiếp tục là một dân tộc
nô lệ ở một hình thức khác.

Có thể nói trong lịch sử hiện đại của VN, ông là một trong
những người Việt hiếm hoi nhìn ra nguyên nhân mất nước, nguy
cơ dân tộc, không phải ở đâu khác mà là trong văn hóa, từ
văn hóa mà ra.

Sau Đệ Nhị Thế Chiến có gần 30 nước dành được
độc lập, phần lớn không đổ một giọt máu, chỉ có vài
nước chọn chủ nghĩa CS trong đó có VN, phải trả bằng máu
và nước mắt của hàng triệu sinh mạng để cuối cùng trở
thành một trong những nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế
giới. Chọn lựa này là chọn lựa của dân tộc, của VN chớ
không phải do sức ép của ngoại bang hay một lý do gì khác.
Người Cộng sản biến dân tộc VN trở thành một lực lượng
tiên phong trong cuộc tranh chấp giữa hai khối CS và Tự Do và
luôn luôn hãnh diện với thế giới về một dân tộc "bước
ra khỏi cửa là thấy anh hùng".

Hà Sĩ Phu đã có nhận xét rất đúng là giữa Hồ Chí Minh và
Phan Chu Trinh, dân tộc VN đã chọn Hồ Chí Minh và những bi
kịch của đất nước hôm nay là cái giá phải trả cho sự
chọn lựa đó.

Thật cay đắng cho những người hết lòng vì nước vì dân như
Phan Chu Trinh, mặc dầu nhìn xa thấy rộng, tư tưởng nhân bản,
kiến thức uyên bác, lòng yêu nước và nhiệt tình có thừa,
nhưng cuối cùng Phong Trào Duy Tân của cụ đã thất bại chỉ
vì không được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, ngay
cả cụ Phan Bội Châu – một đồng chí thân thiết với cụ
trong nhiều năm cũng không ủng hộ quan điểm của cụ.

Là một người yêu nước chân thật ông không tự lừa dối
mình và lừa dối dân tộc của mình bằng những chiêu bài mị
dân, những điều tự hào không có thật. Ông là người nhìn
thấy được vấn đề, và cố gắng đi tìm một phương thuốc
cứu chữa.

Nhưng tại những nơi mà lưỡi gươm có tác dụng
mạnh hơn ngòi bút thì những tiếng nói nhân bản như ông trở
thành những tiếng kêu giữa sa mạc hoang vắng và ông trở nên
lạc lõng trong một xã hội mà nếp suy nghĩ hủ lậu đã bám
rễ quá lâu và quá chặt, trở thành một căn bệnh trầm kha
hủy hoại đất nước và làm cho dân tộc sa vào vòng nô lệ.

Nhìn qua đất nước Nhật Bản, một dân tộc có chiều dài
lịch sử gần giống như chúng ta, có diện tích gần bằng, dân
số không chênh lệnh mấy (127 triệu so với 87 triệu), cũng
chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa và Khổng Giáo, không khỏi
làm cho chúng ta đau lòng khi thấy được sự khác biệt quá
lớn giữa hai đất nước. Sự khác biệt về kinh tế, sự giàu
có tiện nghi không phải là điều quan trọng, chủ yếu là sự
khác biệt về cách suy nghĩ (mentality) giữa hai dân tộc. Vào
thời điểm 1858, khi người Pháp bắt đầu xăm lăng VN thì dân
ta vẫn còn u mê bám vào những giá trị đã lỗi thời, người
Nhật tức thời bỏ những truyền thống hủ lậu, học hỏi
những cái hay của Tây Phương để bắt kịp họ. Đến thời
điểm sau Đệ Nhị Thế Chiến, VN muốn trở thành biểu tượng
của một dân tộc anh hùng, người Nhật biết nuốt nhục của
kẻ thua trận chịu sự đô hộ của Mỹ, tận dụng lòng mã
thượng của kẻ chiến thắng, dồn mọi sinh lực dân tộc để
vươn lên thành một cường quốc kinh tế.

Tại sao lại có sự khác biệt như vậy? Những nghiên
cứu công phu và nghiêm chỉnh của các cơ quan quốc tế gần
đây như Cơ quan Phát Triển Liên Hiệp Quốc (United Nations
Development Program – UNDP) đã chứng minh một cách thuyết phục
rằng sự chênh lệnh giàu nghèo giữa các quốc gia chủ yếu
không phải do yếu tố địa lý, tài nguyên thiên nhiên, tôn
giáo, chủng tộc… mà chủ yếu là do yếu tố văn hóa. Văn
hóa quyết định tất cả. Văn hóa tạo ra nếp suy nghĩ
(mentality) của mỗi dân tộc, và chính nếp suy nghĩ này làm cho
mỗi dân tộc có ứng xử khác nhau khi đương đầu với cùng
một thử thách. Tại sao có những dân tộc mà quan chức chính
phủ tham nhũng cả hàng triệu đô la như ở các nước Phi Châu
hay VN ngày nay mà mọi người vẫn xem đó là chuyện bình
thường, trong lúc đó tại một nước khác – một bộ trưởng
chỉ vì nhầm lẫn nhận 600 đô cho quỹ tranh cử đã phải xin
lỗi quốc dân rồi từ chức (1)? tại sao một quốc gia nhỏ bé
như Do Thái chưa tới 3 triệu dân (2) có thể chiến thắng cả
khối Á Rập trong cuộc chiến năm 1967 và tồn tại vững mạnh
cho đến ngày hôm nay? Trong lúc đó có những nền văn minh đã
từng một thời ngự trị thế giới mà ngày nay biến mất …
và còn cả ngàn thí dụ khác để chứng minh rằng chính yếu
tố văn hóa quyết định sự tồn vong và sự lớn bé của mỗi
dân tộc.

Những dân tộc như Đức, Nhật, Do Thái, Thụy Sĩ, Hòa Lan, Hoa
Kỳ… cho dù bị thiên tai tàn phá đến đâu, cho dù sống ở
bất cứ hoàn cảnh nào cũng vẫn có thể vươn trở thành
những nước giàu mạnh, trái lại những xứ như Iraq, Nigeria,
Venezuela, Angola, Libya… mặc dầu tràn ngập dầu hỏa nhưng vẫn
là những nước nghèo.

Bước ngoặt quan trọng nhất đã làm thay đổi khoảng
cách giữa ta và Nhật chính là cuộc cách mạng Duy Tân tại
Nhật bắt đầu từ năm 1868. Trong lúc người Nhật tức thời
thay đổi thì các vua chúa VN vẫn còn ngủ mê bên trong các bức
tường cung điện ở Huế. Họ không thấy được thế giới
đã thay đổi, vẫn tiếp tục tôn sùng và thần tượng Trung
Quốc trong lúc nước này đã bị thua thê thảm trước sức
mạnh của Tây Phương.

Vào tháng 7 năm 1853 khi triều đình Tokugawa từ chối không
cho Thuyền trưởng người Mỹ Mathew Perry lên bờ để trao bức
thư của Tổng Thống Fillmore, ông ra lệnh bắn vào thành phố
Edo (Tokyo ngày nay). Những quả đại bác này đã làm cho người
Nhật thức tỉnh ngay. Lòng ái quốc và niềm tự hào dân tộc
đã làm cho họ đoàn kết lại để tìm cách giúp đất nước
thoát khỏi nguy cơ nô lệ. Chính sự thức tỉnh này đã mở
đầu cuộc cách mạng Minh Trị Duy Tân kéo dài 44 năm. Đó là
một cuộc cách mạnh đúng nghĩa, một cuộc cách mạng triệt
để, họ làm đến nơi đến chốn, kẻ đi Mỹ, người đi Âu
Châu, kẻ đi chính thức người đi lậu bằng cách trốn xuống
tàu buôn Tây Phương như trường hợp của thần đồng Yoshida
Shôin, tất cả đều cùng một mục đích là tìm đến tận
nguồn cội của nền văn minh để học hỏi những cái tinh túy
mang về thay đổi đất nước. Họ từ bỏ một cách dứt khoát
tất cả những cái cũ không còn hợp nhưng không để mất tinh
thần độc lập. Họ không phải chỉ có một ông vua Minh Trị
hết lòng yêu nước mà cả trăm ngàn những tấm lòng như thế
quyết tâm đưa nước Nhật lên vị trí ngang hàng với các
nước Tây Phương.

Khi nói đến cuộc Duy Tân Minh Trị nhiều người vẫn lầm
tưởng đó là cuộc cách mạng kỹ nghệ, mở cửa để giao
thương và học hỏi kỹ thuật của Phương Tây. Thật sự không
phải như thế, học hỏi kỹ thuật chỉ là mặt nổi, chủ
yếu là người Nhật học hỏi những tinh túy về tư tưởng
của người Tây Phương để khai sáng trí tuệ cho dân tộc của
họ.

Chỉ có vài quả bom của Thuyền Trưởng Mathew Perry đã làm
cho người Nhật thức tỉnh, trong lúc đó nhìn lại đất nước
chúng ta, kể từ thời điểm 1853 cho đến hôm nay đã có hàng
trăm ngàn quả bom đã rơi xuống đất nước Việt Nam, không
những chỉ tàn phá hình hài đất nước mà còn làm tan nát tâm
hồn dân tộc với bao sự ngậm ngùi, nhục nhã đắng cay của
một dân tộc nhược tiểu. Nhưng tất cả những nỗi đau đó
vẫn chưa đủ để làm cho người Việt thức tỉnh, để thấy
cần phải có một nhu cầu thay đổi cần thiết như người
Nhật đã làm từ giữa thế kỷ thứ kỷ 19.

Vào tháng 8 năm 1858 người Pháp bắt đầu cuộc chiến
xăm lăng đất nước VN, trước đó vào mùa thu năm 1847 để
phản đối chính sách cấm đạo của vua Thiệu Trị, Trung
tướng Rigault de Genouilly đã bắn chìm 5 chiếc thuyền của
Việt Nam, năm 1842 Trung Quốc đã bại trận thê thảm trước
sức mạnh của Tây Phương trong cuộc chiến Nha Phiến. Nhưng
tiếc thay tất cả những dấu hiệu cảnh cáo đó vẫn chưa
đủ để làm cho triều đình nhà Nguyễn thức tỉnh. Đến lúc
đó họ vẫn không nhận ra rằng đất nước đang đứng trước
khúc quanh của lịch sử. Từ thời điểm năm 1842 hay 1847 cho
đến 1858, đó là một khoảng thời gian rất dài (14 năm), nếu
các vua nhà Nguyễn thức thời, khôn khéo như các vua chúa Nhật
Bản thì đất nước chúng ta đâu phải chịu 80 năm đô hộ
của người Pháp và đâu phải chịu tai họa Cộng Sản kéo dài
đến hôm nay.

© Phạm Hoài Nam

Nguồn: vietluanonline

______________________

<h2>Ghi chú:</h2>

(1) Ngoại trưởng Nhật Seiji Maehara từ chức ngày 6 Tháng Ba 2011
vì nhận 600 Mỹ kim cho quỹ chính trị từ một người ngoại
quốc.
(2) Dân số Do Thái vào thời điểm 1967 là 2.7 triệu người.

***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(http://danluan.org/node/8953), một số đường liên kết và hình
ảnh có thể sai lệch. Mời độc giả ghé thăm Dân Luận để
xem bài viết hoàn chỉnh. Dân Luận có thể bị chặn tường
lửa ở Việt Nam, xin đọc hướng dẫn cách vượt tường lửa
tại đây (http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét